Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

DÂN SỐ - ĐỊNH CƯ MÔI TRƯỜNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 129 trang )

TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒE
DÂN SỐ - ĐỊNH CƯ
MÔI TRƯỜNG
(In lần thứ II)
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - 2001
1
Preface
The textbook on “Demography, human settlements and environment” has been
established in the framework of the project “Capacity building for environmental
management in Vietnam”. The educational component of the project targets the Master
programme, organised by the Faculty of Environmental Sciences at the Hanoi
University of Science, Vietnam National University. A specific project objective was
to develop reference materials for the students. The result is five textbooks, including
this one, which have been published with the Vietnam National University Publishing
House, whose co- operation enabled 750 copies to be published, instead of the original
target of 250 copies.
Peel review is crucial for quality control and has been a structural component of
the textbook development. The main objective of the peer review process was to
generate comments and detailed suggestions to improve the manuscripts. Dr. Nguyen
Dinh Hoe, completed a draft textbook in January 1999. In March 1999, the Hanoi
University of Science organised a review workshop, in which twenty-seven academics
participateô. The review was based on the following main criteria, set by the
university: l) scientific quality; 2) up-to- dateness; 3) pedagogical quality. In addition,
an extensive external peer review was completed, including scientists from universities
and research institutes in Hanoi and Ho Chi Minh City. A final review was organised
by the publishing house. The authors have adapted their manuscripts according to the
comments expressed.
Acknowledgements
On behalf of the Project Advisory Committee, we would like to congratulate the
author, Dr. Nguyen Dinh Hoe of the Faculty of Environmental Sciences, for
successfully completing the development of this textbook. We take the opportunity to


kindly thank Ass. Prof. Le Trong Cuc, former director of the Centre for Natural
Resources and Environmental Studies at the Vietnam National University of Hanoi,
Dr. Pham Thi Mong Hoa, the Centre for Human Geography at the National Centre for
Social and Humanity Science in Hanoi, and Dr. Tran Van Thuy, Institute of
Geography of the National Centre for Natural Science and Technology in Hanoi, for
their active participation in the peer review process. Also, we acknowledge the
constructive co-operation of the Vietnam National University Publishing House.
Finally, we express our sincerest gratitucte to the European Commission for funding
the project on “Capacity building for environmental management in Vietnam” and
enabling the development and publication of the textbook on “Demography, human
settlements and environment”.
The editors,
Prof. Mai Dinh Yen, Faculty of Binlogy, Hanoi University of Science, Vietnam
National University
Prof. Luc Hens, Department of Human Ecology, Free University of Brussels
(VUB)
Mr. Eddy Nierynck, Department of Human Ecology, Free University of Brussels
(VUB)
2
LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách “Dân số, Định cư và Môi trường” được biên soạn trong khuôn khổ
của Đề án: “Xây dựng Năng lực Quản lý Môi trường ở Việt Nam”. Mục tiêu đào tạo
của đề án là chương trình đào tạo Thạc sỹ do Khoa Môi trường - Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện. Mục tiêu đặc biệt của đề án là tăng
cường cung cấp các tài liệu tham khảo cho sinh viên. Kết quả là 5 cuốn sách giáo trình
đã được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản và đã có thể in được 750
cuốn thay vì nhiệm vụ lúc đầu là 250 cuốn.
Công việc nhận xét đánh giá là quan trọng cho chất lượng cuốn sách đã được chú
ý trong suốt quá trình biên soạn. Mục đích chính của công việc này là phản biện và
đóng góp các ý kiến nhằm nâng cao chất lượng các bản thảo. Sau khi TS Nguyễn Đình

Hòe hoàn thành bản thảo vào tháng 1 năm 1999, tháng 3 năm 1999, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức Hội thảo để đánh giá nghiệm
thu với sự tham dự của 27 nhà khoa học Môi trường. Việc đánh giá nghiệm thu căn cứ
vào 3 tiêu chuẩn chính của sách giáo trình mà Trường đề ra là: 1) Tính khoa học; 2)
Tính cập nhật hiện tại và 3) Tính sư phạm. Ngoài ra, cuốn sách còn có sự tham gia
nhận xét đánh giá của các nhà khoa học Trường đại học và Viện nghiên cứu ở thành
phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã trực tiếp tham
gia sửa chữa bản thảo một cách công phu để cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Thay mặt hội đồng cố vấn của đề án, chúng tôi xin chúc mừng tác giả TS Nguyễn
Đình Hòe - Khoa Môi trường đã hoàn thành có kết quả cuốn sách. Nhân dịp này chúng
tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS Lê Trọng Cúc, Giám đốc Trung tâm Tài
nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, TS Phạm Thị Mộng Hoa - Trung
tâm Địa lý nhân văn thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, TS
Trần Văn Thủy Viện Địa lý Trung tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã tích cực
tham gia vào quá trình nhận xét đánh giá cho nội dung của cuốn sách. Chúng tôi cũng
xin cám ơn về sự hợp tác xây dựng của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Sau
cùng chúng tôi xin bày tỏ sự cám ơn chân thành tới Hội đồng châu Âu đã tài trợ ngân
sách cho Đề án “Xây dựng Năng lực Quản lý Môi trường ở Việt Nam” để cuốn sách
“Dân số, Định cư và Môi trường” được biên soạn và xuất bản.
Các biên tập:
GS Mai Đình Yên - Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
GS Luc Hens - Bộ môn Sinh thái Nhân văn Trường Đại học Tự do Brussels,
Vương quốc Bỉ (VUB).
Eddy Nierynck - Bộ môn Sinh thái Nhân văn trường Đại học Tự do Brussels,
Vương quốc Bỉ (VUB).
3
LỜI NÓI ĐẦU
Việc đáp ứng cho số dân ngày càng tăng một cuộc sống có chất lượng đòi hỏi
phải duy trì một hệ thống môi trường lành mạnh. Ngược lại, hệ thống môi trường chỉ

có thể được bảo vệ trong khả năng chịu tải của nó nếu nhân loại có thể kiểm soát được
dân số của mình.
Dân số đứng theo bất cứ góc độ xã hội, chính trị hay môi trường cũng không chỉ
đơn thuần là số dân, mà còn là động lực của các quá trình dân cư. Nhân loại không bao
giờ là một đám đông cố định để có thể dễ dàng định vị, kiểm kê, kiểm soát, đánh thuế,
tiêm chủng, huấn luyện mà là một hệ thống động lực đầy biến động với các quá trình
dân cư như du cư, di cư, định cư (và tái định cư), đô thị hóa Các cộng đồng dân cư
khác nhau trên thế giới có những khác biệt rất lớn về tiêu thụ, xả thải, cách ứng xử với
các hệ tài nguyên môi trường. Một người dân ở một nước phát triển Bắc Mỹ có thể
tiêu thụ một lượng tài nguyên lớn gấp 25 lần và xả thải cũng lớn gấp 25 lần một người
dân bình thường ở châu Á, trong khi có đến 80% công dân Bắc Mỹ luôn tự coi họ là
những nhà môi trường.
Vì vậy việc nghiên cứu các vấn đề về quá trình dân số và dân cư đặc biệt có ý
nghĩa trong chiến lược bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhân loại. Môn
học "Dân số - Định cư và Môi trường" được biên soạn cho chương trình đào tạo Thạc
sỹ Khoa học Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội cũng xuất phát từ nhận thức đó. Tuy nhiên do khuôn khổ môn học có hạn, nội
dung của giáo trình không thể bao quát hết các vấn đề về Dân số- định cư và Môi
trường. Sự khống chế về thời gian và khuôn khổ gián trình này trong phạm vi chương
trình đào tạo Thạc Sỹ Khoa học Môi trường đòi hỏi các tác giả phải chọn lọc những
mảng kiến thức cơ bản đáp ứng cao nhất với đối tượng học viên.
Phần đầu của chương trình (chương 1) trình bày những khái niệm cơ bản về Dân
số học để người đọc có thể đi tiếp sang các phần khác của chương trình. Vấn đề về
Dân số học cũng đã được trình bày khá kỹ trong nhiều ấn phẩm tiếng Việt (xuất bản
phẩm của Uỷ ban DS và KHHGĐ, của Đại học Sư phạm Hà Nội và của Nhà xuất bản
KHXH) và người đọc dễ dàng tiếp cận thêm những vấn đề khác về dân số học khi có
nhu cầu.
Phần thứ 2 của chương trình gồm 4 chương (từ chương 2 đến chương 5) trình bày
mối tương tác giữa môi trường với các quá trình động lực dân cư khác nhau như du cư,
di cư, định cư (tái định cư) và tị nạn môi trường.

Phần thú 3 gồm chương 6 và 7 trình bày lý do của việc lồng ghép các vấn đế dân
số vào các chính sách môi trường và phát triển, cũng như mục tiêu cuối cùng của các
chính sách này là nhằm đạt đến phát triển nhân văn - cội nguồn của mọi quá trình động
lực dân cư.
Các ví dụ với khá nhiều ví dụ Việt Nam - được thiết kế trong 27 ô. Những ví dụ
này đa phần được trích dẫn từ báo hàng ngày và một số công trình nghiên cứu gần đây.
4
Việc xếp các ví dụ vào ô vì 2 lẽ:
Để tránh việc ngắt mạch hành văn liên tục của vấn đề đang diễn giải.
Để có thể tiện thay thế bằng các ví dụ khác tốt hơn và chính xác hơn trong tương
lai, đảm bảo tính cập nhật của số liệu. Việc biên soạn nội dung của chương 5 "Đô thị
hóa và môi trường" có sự tham gia của giáo sư Walter De Lannoy, trường đại học tự
do Brussels Bỉ (VUB) và giáo sư Han Verschure, trường Đại học Katholic Leuven
(KUL) Bỉ. Hai giáo sư người Bỉ nói trên đã tham gia hỗ trợ cho giáo trình trong khuôn
khổ dự án “Xây dựng năng lực Quản lý môi trường” do Vương Quốc Bỉ tài trợ cho
trường Đại học Khoa học tự nhiên. Giáo sư Luc Hens, trưởng đề án phía Bỉ đã trao đổi
về đề cương chi tiết của giáo trình cũng như cung cấp nhiều tài liệu tham khảo mới,
đặc biệt về các vấn đề tị nạn môi trường. Dự án hợp tác nói trên cũng đã tạo điều kiện
cho tác giả giáo trình được đi nghiên cứu trao đổi khoa học tại trường Đại học tự do
Brussels 2 tháng để tìm tư liệu và kinh nghiệm xây dựng giáo trình. Một phần kinh phí
biên soạn giáo trình đã được dự án tài trợ. Các nhà lãnh đạo dự án phía Việt Nam: GS
Nguyễn Cẩn, GS Mai Đình Yên và PGS Phạm Ngọc Hồ đã có những quan tâm và giúp
đỡ nhiều mặt trong quá trình xây dựng giáo trình. TS Phạm Thị Mộng Hoa, Phó giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu Địa lý nhân văn thuộc Trung tâm Khoa học XH và NV
Quốc gia, Bác sĩ Vũ Thu Hà thuộc Trung tâm nghiên cứu Sức khoẻ Phụ nữ và nông
thôn (RaFH) đã trao đổi và đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Đỗ Thị Thanh Huyền- học
viên Cao học Môi trường Khóa VI- đã tham gia nhiệt tình trong việc biên soạn chương
6 (Học thuyết Malthus Môi trường) cũng như xử lý văn bản giáo trình trên máy vi tính.
Giáo trình đã được dạy thử nghiệm cho học viên Cao học Môi trường các Khóa
IV, V và VI của trường Đại học Khoa học Từ nhiên Đại học Quốc gia Hà Nội và

những ý kiến đóng góp của học viên thật sự có giá trị cho việc xây dựng bản thảo giáo
trình.
Nhân dịp này tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với những giúp đỡ
giá trị và đa dạng của các tổ chức và các nhà khoa học nói trên, và mong nhận được
những góp ý về nội dung của giáo trình để tác giả có thể nâng cấp chất lượng của giáo
trình trong tương lai.
Tác giả
TS Nguyễn Đình Hoè
5
Chương 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ DÂN SỐ HỌC
GIỚI THIỆU CHUNG
Dân số học (Demography) là khoa học nghiên cứu biến động về số lượng, phân
bố và các đặc tính của dân cư. Phân tích các tài liệu về dân số cung cấp nhiều thông tin
có giá trị về rất nhiều lĩnh vực như lịch sử, chính trị, kinh tế, di truyền, sức khoẻ cộng
đồng, nhân chủng học và xã hội học. Tuy nhiên, điều quan trọng hàng đầu đối với
chúng ta lại là ở chỗ: dân số vào các thời kỳ khác nhau ở những địa điểm khác nhau,
tốc độ sinh và tử, sự phân bố theo nhóm tuổi, nguyên nhân chính của tử vong đã
phản ánh rất nhiều điều về mối quan hệ tương hỗ giữa con người và môi trường.
Mặc dù con người có khả năng thích ứng rất cao với nhiều hoàn cảnh sống,
nhưng chắc chắn là sự tồn tại của con người luôn luôn yêu cầu những giới hạn nhất
định của các yếu tố môi trường. Và mặc dù công nghệ đã tăng cường khả năng của con
người, nhưng con người cũng khó thích nghi với những vùng đất quá nóng, quá lạnh,
quá khô hoặc quá cao - đó là những vùng đất có khả năng sản xuất kém.
Vì vậy thực là dễ hiểu câu "đất lành chim đậu", những nền văn minh rực rỡ trong
quá khứ đã từng xuất hiện trên những vùng đất màu mỡ và khí hậu ổn định. Và sự suy
thoái môi trường của các vùng đất cư trú - do thiên tai hay do con người - cũng đã làm
suy tàn nhiều nền văn minh cổ đại. Điều đó chắc chắn cũng còn xảy ra trong tương lai.
1.1. Một số đặc trưng của dân số học
1.1.1. Tỷ lệ sinh (CBR)

Thực ra cần phải gọi là tỷ lệ sinh thô (Crude Binh Ra te - CBR), đó là số trẻ mới
sinh (còn sống) trong một năm trên 1000 dân.
Số trẻ sinh ra, còn sống trong năm
CBR =
Dân số năm x (tính vào giữa năm)
x 1000
Gọi là "thô" vì CBR được so sánh với toàn bộ dân cư mà chưa tính đến vấn đề
tuổi tác hay thành phần giới của cộng đồng dân cư đó. Đơn vị tính CBR thường dùng
là ‰. CBR của một quốc gia bị ảnh hưởng rất mạnh bởi cấu trúc tuổi và giới của dân
cư, bởi phong tục và kích thước (độ lớn) của gia đình và bởi chính sách dân số. Các áp
lực này rất đa dạng ở các quốc gia khác nhau, dân tộc khác nhau, khiến cho CBR cũng
rất biến đổi.
CBR > 30
o
/
oo
được gọi là cao, nhưng thật đáng buồn là hơn một nửa số nhân loại
lại đang sống trong những vùng có CBR cao hoặc rất cao, tập trung ở lân cận đường
xích đạo và nam bán cầu (nên thường được gọi là những nước "phương Nam"). Dân
cư phương Nam đa số là nông dân, sống ở nông thôn, nghèo và tỷ lệ phụ nữ trong tuổi
sinh đẻ khá lớn.
CBR < 20
o
/
oo
được coi là thấp, đặc trưng cho các nước công nghiệp "phương Bắc
6
" như các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật và cả Australia, New Zealand, mặc dù 2 nước
này ở Nam bán cầu.
Điều cần lưu ý là ngay tại những nước có CBR cao, những vùng có chương trình

kiểm soát sinh đẻ hiệu quả vẫn có CBR thấp.
CBR trong khoảng giữa 20 đến 30
o
/
oo
được gọi là trung bình, đặc trưng cho một
số nước mới phát triển. CBR < 15
o
/
oo
ứng với các nước giảm dân số, trong đó 15
o
/
o
các nước trên thế giới được coi là quốc gia giảm dân số.
Ngoài tình trạng kinh tế (nghèo đói thường đi đôi với đẻ nhiều), thì các yếu tố tôn
giáo và chính trị cũng ảnh hưởng đến CBR. Nhiều người theo đạo Hồi có chế độ đa thê
và theo đạo Thiên Chúa đã chỉ trích gay gắt các kỹ thuật kiểm soát sinh đẻ nhân tạo.
Điều này cũng làm cho CBR tăng lên.
Ô 1 - CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA TRUNG QUỐC
Năm 1965, CBR của Trung Quốc đạt đến 37‰. Trong 27
năm (1949 – 1976), dân số Trung Quốc tăng lên từ 540 triệu lên
852 triệu. Năm 1970, dân số Trung Quôc tiêu thụ hơn 50 % số
tăng GNP.
Sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông mất Chính phủ Trung
Quốc xiết chặt biện pháp kế hoạch hóa gia đình "mỗi gia đình
chỉ có 1 con". Trường hợp sinh con thứ 2 bị phạt 15‰ tổng thu
nhập trong 7 năm. Năm 1983, bất cứ cặp vợ chồng nào sinh con
thứ 2 đều bị cưỡng bức triệt sản. Những cố gắng đó giúp cho tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1% vào những năm

1986.
Tuy nhiên, từ sau năm 1987, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt
đến 1,4% phản ánh sự mệt mỏi của chính sách kiểm soát sinh đẻ
quá hà khắc.
Nguồn :Getis et al. 1994
Ô 2 - TỶ LỆ SINH THÔ CBR Ở VIỆT NAM
1955 – 1959 : 44‰ 1965 – 1969 : 43,2‰
1970 – 1974 : 35,5‰ 1975 – 1979 : 33,2‰
1985 – 1989 : 31‰ 1994 : 25,3‰
Dự báo năm 2000 : 23,9‰ ; Đến năm 2015 : 17,8‰
Nguồn: UBDS và KHHGD, 1996
1.1.2. Tỷ lệ chết
Thuật ngữ chính xác là tỷ lệ chết thô (Crude Death Rate - CDR), tính theo % dân
số người chết hàng năm trên 1000 dân
Số người chết vào năm
CDR =
Dân số năm x (tính vào giữa năm)
x 1000
7
Cũng như CBR, CDR hiến đổi mạnh và liên quan chặt chẽ với tình trạng kinh tế.
 CDR > 20 ‰ được gọi là cao, gặp ở các nước chưa phát triển, chủ yếu là châu
Phi.
 CDR < 100 ‰ là tỷ lệ thấp.
Sự giảm nhanh tỷ lệ chết sau đại chiến II liên quan đến những thành tựu mới của
y học như thuốc kháng sinh, vắc xin, kiêm soát dịch bệnh làm cho độ chênh lệch
CDR giữa các nước phát triển và đang phát triển không lớn. Nhiều nước công nghiệp
có tỷ lệ người cao tuổi lớn nên CDR tăng, trong khi dân cư ở các nước đang phát triển
có độ tuổi trẻ khiến cho CDR thấp. Vì vậy, CDR không nhạy cảm trong mục tiêu đánh
giá dân số học. Thay cho CDR. người ta thường dùng một tham số khác là tỷ lệ tử
vong trẻ sơ sinh.

CDR ở Việt Nam năm 1994 : 7,06‰
1.1.3. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh IMR
Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (Infant Mortality Rate - IMR) là tỷ lệ trẻ được 1 tuổi bị
chết trong 1000 ca sinh đẻ.
Số trẻ chết dưới 1 tuổi
IMR =
Số ca sinh đẻ
x 1000
IMR là chỉ tiêu rất nhạy cảm với điều kiện kinh tế - xã hội, chăm sóc y tế. Châu
Phi có IMR cao nhất thế giới (gần 100‰). Một số nước như Guinea và Mozambique,
IMR đạt đến 15‰ năm 1993. Liên Xô cũ năm 1990 đạt 29‰, riêng miền Trung Á của
Liên Xô là 110‰, Bắc Mỹ và Tây âu 6 – 10‰.
1.1.4. Độ mắn tổng số TFR
Độ mắn tổng số (Total Fertility Ra te - TFR) là chỉ tiêu còn nhạy cảm hơn cả
CBR trong việc phản ánh lượng sinh sản của cộng đồng. TFR là số con (còn sống)
trung bình có thể được sinh ra bởi một người mẹ, nếu giả thiết trong suốt độ tuổi sinh
đẻ của mình (15 – 49), người phụ nữ đó sinh đẻ với tốc độ trung bình của phụ nữ trong
cộng đồng. TFR có thể định nghĩa tóm gọn là "số con trung bình còn sống trong đời
một phụ nữ".
TFR >= 4,2 : cao
TFR = 3,2 – 4,1 :trung bình cao
TFR = 2,2 - 3,1 :trung bình thấp
TFR<= 2,1 : thấp
Sau đây là chỉ số TFR ở một số nước năm 1991:
Cộng hòa Yêmen: 7,5; Uganđa: 7,3;
Arập Xêút : 7,1; Philippin: 3,9;
Brunêy: 3,6; Malaysia: 3,5;
Indônwsia: 3,l; Thái lan: 2,2;
8
Singapo: 1.8; New Zealand và Italia: l,4;

Đức: 1,5; Hà Lan và Thụy Điển: 1,6;
Nhật: 1,7; Pháp: 1,8;
Hoa Kỳ: 1,9
(Nguồn : "Cứu lấy trái đất", 1991)
TFR ở Việt Nam:
1960 – 1964 : 6,4
1970 – 1974 : 5,9
1975 – 1979 : 5,3
1980 – 1984 : 4,7
1985 – 1989 : 3,98
1992 : 3,3
1993 : 3,1
1996 : 2,69
Dự báo năm 2015: 2,1
Nguồn: Ủy ban DS và KHHGD, 1996
Tỷ lệ TFR = 2,1 được gọi là mức thay thế vì dân số không thay đổi.
Đỗ Thịnh và Đặng Xuân Thao (1997) nghiên cứu mối liên quan giữa học vấn và
mức sinh sản của phụ nữ Việt Nam cho thấy: năm 1985, TFR của phụ nữ thành thị là
2,23, của phụ nữ nông thôn là 4,27. Số năm đi học trung bình của phụ nữ thành thị là
7.90, của phụ nữ nông thôn là 5,99. Như vậy trung bình phụ nữ nông thôn đẻ nhiều
hơn phụ nữ thành thị 2,04 con và đi học ít hơn 1,91 năm. Từ đó, các tác giả nhận xét
rằng, cứ mỗi năm học vấn tăng thêm cho phụ nữ giúp họ giảm được 1 con.
Tương quan giữa số năm đi học trung bình và TFR ở các vùng khác nhau của phụ
nữ Việt Nam như sau:
N
0
Vùng
Số năm đi học
TFR
HDI

1
Miền núi Bắc Bộ
4,29
4,17
0,386
2
Đồng bằng sông Hồng
6,85
3,03
0,504
3
Bắc Trung Bộ
5,69
4,29
0,454
4
Duyên Hải Trung Bộ
6,68
4,61
0,468
5
Tây Nguyên
3,96
5,98
0,322
6
Đông Nam Bộ
6,89
2,90
0,462

7
ĐB Sông Cửu Long
5,26
3,89
0,412
Theo: Đỗ Thịnh và Đặng Xuân Thao(1997) chỉ số HDI theo tài liệu Aduki Co.,
1996
Độ mắn vừa có ý nghĩa sinh học vừa có nội dung xã hội. Tự nhiên. ngoài việc chỉ
thị cho khả năng sinh sản, độ mắn còn mang đậm nét yếu tố xã hội, khiến cho phụ nũ
9
luôn buộc phải có số lượng con ngoài ý muốn. Khả năng tiếp cận tự do với các dịch vụ
kế hoạch hóa gia đình đã giúp cho phụ nữ chủ động hơn trong lĩnh vực sinh đẻ.
Ô 3- 6 THÁNG ĐẦU NĂM 1998: HƠN 680 NGHÌN PHỤ NỮ
NẠO PHÁ THAI …
Theo số liệu của Vụ Bảo vệ bà mẹ trẻ em – KHHGD (Bộ Y tế),
trong 6 tháng đầu năm 1998, tổng số ca nạo thai và hút điều hoà
kinh nguyệt là 680.992 ca (năm 1997: 1.123.620 ca). Trên thực tế,
con số này cao hơn. Mức độ và xu hướng nạo, phá thai và hút điều
hoà kinh nguyệt vẫn liên tục gia tăng từ năm 1995 đến nay. Qua
điều tra, phụ nữ từ 15 – 19 tuổi nạo phá thai và hút điều hoà kinh
nguyệt chiếm 13‰, từ 25 – 29 tuổi chiếm gần 25‰ và 7‰ ở nhóm
tuổi 45 – 49.
Theo P.A: Báo Lao động ngày 6.7.1998
1.1.5. Tăng dân số tự nhiên
Tốc độ tăng dân số tự nhiên (%) - CBR - CDR
Nói tăng tự nhiên là không tính đến các trường hợp di cư và nhập cư. Tình hình
tăng dân số Việt Nam như sau:
Bảng 2 - Dân số Việt Nam
Năm
Tổng số dân (triệu)

Tỷ lệ tăng (%)
1921
13,584
1926
17,100
1,86
1931
17,702
0,69
1936
18,972
1,39
1943
22,150
3,06
1951
23,601
0,50
1954
23,835
1,10
1960
30,172
3,93
1965
34,929
2,93
1970
41,063
3,24

1976
41,160
3,00
1979
52,742
2,16
1989
64,412
2,10
1993
70,542
2,3
1996
76,000
1,88
Năm 1989, một số nước châu Á khác có tốc độ tăng dân số như sau:
Nhật: 0,4; Singapo: l,l; Hàn Quốc: 1,2;
Đài Loan: 1,3; Hông Kông: l,4;Thái Lan: 1,5
Nguồn : Đặng Xuân Thao, 1997
10
Ô 4 - VIỆT NAM CÓ THỂ CÓ 81 TRIỆU DÂN VÀO NĂM 2000
Cuộc tổng điều tra dân số sẽ được tổ chức chính thức vào ngày 1.4.1999 và
kết quả sẽ được công bố vào năm 2000. Kết quả được công bố sẽ không
cao hơn so với con số dự báo là 81 triệu dân. Cơ sở để khẳng định điều này
được dựa trên những yếu tố thành công mà chương trình DS – KHHGĐ đã
đạt được trong vài năm gần đây. Nổi bật nhất là tỷ lệ sinh hàng năm bình
quân giảm trên một phần nghìn. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tỷ
lệ phát triển dân số ở nước ta năm 1996 là 1,88% và năm 1997 ước tính là
1,78%. Số dăn tăng bình quân là 1,6 triệu người năm 1992 và đã giảm
xuống, chỉ tăng 1,3 triệu người vào năm 1997. Số con trung bình của một

phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,2 con năm 1989 xuống 2,69 con
năm 1997. Điều này thể hiện chương trình DS – KHHGĐ ở VN đã có
chuyển biến. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh và phát triển dân số ở những vùng sâu
vùng xa, vùng ven biển miền Trung còn khá cao (trên 25 phần nghìn),
thậm chí vùng Tây Nguyên và một vài tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ này đạt
trên 30 phần nghìn. Tỷ lệ sinh đặc trưng cao ở lứa tuổi từ 19 đến 29 cũng là
điểm nóng của chương trình… Với quy mô dân số hiện nay là hơn 77 triệu
dân, cơ cấu dân số trẻ (57% dân số dưới 25 tuổi), những quan niệm không
chấp nhận mô hình hai con, nhất là hai con gái còn nặng nề… thì tiềm năng
về gia tăng dân số ở VN vẫn có nguy cơ đe doạ. Quỹ dân số Liên Hiệp
quốc đã dự báo dân số VN vào năm 2000 sẽ là 81 triệu dân, năm 2005 là
88 triệu dâu, 2010 là 94 triệu dân và 2020 sẽ là 104 triệu dân nếu chương
trình DS – KHHGĐ tiếp tục được duy trì có hiệu quả.
Theo Phương Anh – Báo Lao động ngày 17.7.1998
Khoảng thời gian cần thiết để dân số tăng tự nhiên gấp đôi được gọi là "thời gian
để tăng gấp đôi - doubling time". Quãng thời gian này được tính gần đúng bằng
phương trình:
70
DT (Doubling Time) =
Tốc độ tăng dân số tự nhiên (%)
Ví dụ với tốc độ tăng tự nhiên của Việt Nam năm 1996 là 1,88%, thì với số dân năm
1996 là 76 triệu.
70
DT =
1,88
=37,2 năm
Có nghĩa là đến năm 2034, dân số Việt Nam sẽ là 152 triệu người.
DT dân số thế giới giảm liên tục trong thế kỷ qua (bảng 3)
11
Bảng 3. Thời gian tăng gấp đôi dân số thế giới

Năm
Dân số (triệu)
DT (triệu)
1
250
-
1650
500
1650
1850
1.000
200
1930
2.000
80
1975
4.000
45
Nguồn: Getis et al., 1994
1.1.6. Sức ỳ dân số
Sức ỳ dân số còn gọi là quán tính dân số. Việc đạt đến độ mắn tổng số TFR = 2,
1 không có nghĩa là đã chấm dứt sức tăng dân số. Bởi vì do cấu trúc tuổi của dân cư,
số trẻ em được sinh ra vẫn ngày càng tăng lên khi bố mẹ chúng bước vào tuổi sinh đẻ
Hiện tượng này được gọi là sức ỳ dân số.
Hiện nay, 1/3 dân số trái đất ít hơn 15 tuổi. Châu Phi năm 1993 có 45%; một số
nước châu Phi là 50% dân số dưới 15 tuổi. Cho dù kiểm soát dân số như thế nào: TFR
giảm đến đâu, dân số vẫn tăng khi nhóm này trưởng thành. Sức ỳ chỉ thực sự chấm dứt
khi nhóm người này vượt qua tuổi sinh đẻ (49 tuổi).
Như vậy: có thể hiểu sức ỳ theo một khía cạnh khá: hiện trạng dân số hiện nay là
hậu quả của TFR trong suốt l5 năm qua và còn tiếp diễn 30 - 35 năm sau.

Quá tải dân số (overpopulation) xảy ra khi mật độ dân số vượt quá khả năng tải
của lãnh thổ. Khả năng tải là số người mà lãnh thổ đó nuôi được trong phạm vi một
trình độ công nghệ nhất định. Những khu vực đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, trình
độ công nghệ cao thường có khả năng tải lớn. Vì vậy, mật độ dân số cao chưa chắc là
đã quá tải dân số. ngược lại mật độ dân số thưa chưa chắc đã là vùng chưa đủ người
(under population).
Do sức ỳ dân số, sự quá tải dân số cần phải được dự báo cho 30 - 35 năm sau từ
sự phát triển của cộng đồng bản địa. Vội vã di dân đến mà chưa tính đến sức ỳ dân số
chắc chắn sẽ dẫn đến quá tải dân số của vùng tái định cư.
1.1.7. Tiến trình dân số
Thực ra, sự tăng dân số thế giới không thể mãi mãi tăng theo hàm số mũ (đường
cong dạng chữ J) như biểu đồ tăng dân số thế giới 2000 năm qua với điểm uốn vào
quãng thế kỷ 19. Trong tương lai, những biện pháp kiểm soát dân số gắt gao sẽ ảnh
hưởng lớn đến tiến trình dân số. Kết quả là theo thời gian, dân số sẽ giảm theo những
giai đoạn khác nhau (Hình 1)
12
Hình 1. Tiến trình dân số (Getis et al., 1994)
Giai đoạn 1: CBR cao, CDR biến động ở tỷ lệ cao, dân số tăng chậm chạp. Giai
đoạn này chiếm phần lớn lịch sử nhân loại cho đến cuối thế kỷ 18. Phải mất 1650 năm
kể từ đầu Công nguyên, dân số trái đất mới tăng gấp đôi từ 250 triệu đến 500 triệu
(xem bảng 3). Trong giai đoạn này, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, thiếu dinh
dưỡng là những tác nhân làm dân số trái đất không tăng nhanh. Ví dụ trận dịch hạch
thế kỷ 14 đã xoá sạch 1/3 dân số châu Âu.
Giai đoạn 2: CDR giảm, CBR tăng: bùng nổ dân số.
Giai đoạn 3: CDR giảm, CBR giảm nhẹ: tăng dân số chậm lại.
Giai đoạn 4: Dân số ổn định và có thể giảm.
Các nước đang phát triển hiện nay đang ở đầu giai đoạn 3.
Một số nước phát triển như Canada, Australia, Nhật và các nước Tây Âu đạt đến
đầu giai đoạn 4. Riêng Đức, Latvia và Hungary đã bắt đầu giảm dân số.
1.2. Hiện trạng dân số thế giới và vấn đề kiểm soát sinh đẻ

1.2.1. Hiện trạng dân số thế giới và vấn đề kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ)
Ô 5 - DÂN SỐ THẾ GIỚI VÀ KIỂM SOÁT SINH ĐẺ
Đến ngày 11. 7. 1997, mới trong một thập kỷ, thế giới đã đón nhận thêm gần
900 triệu người và tổng số dân của hành tinh chúng ta đã gần 5,9 tỷ người. tính
chung trên toàn thế giới, tỷ lệ phát triển dân số trung bình hàng năm trong giai
đoạn 1991 - 1995 đã giảm xuống còn 1,48% và độ mắn tổng số cũng giảm xuống
mức 2,96 con bình quân cho mỗi phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Với kết
quả đó, một dự báo mới được đưa ra cho dân số thế giới vào năm 2050 theo 3
phương án: Thấp: 7, 7 tỷ người; Trung bình: 9,4 tỷ người; Cao: 11,1 tỷ người. Tuy
vậy, công cuộc kiểm soát gia tăng dân số vẫn còn đứng trước một thách thức lớn.
Giữa phương án thấp và phương án cao của dân số thế giới theo dự báo nêu trên
là một khoảng cách 3,4 tỷ người. Khoảng cách đó đặt ra cho mỗi quốc gia và cả
cộng đồng quốc tế một sự lựa chọn: giảm được 3,4 tỷ người, thế giới sẽ phát triển
13
bền vững và làm nền tảng cho cuộc sống mai sau. Bên cạnh đó, những vấn đề khác
trong lĩnh vực dân sô như tình trạng lan tràn các bệnh lây truyền qua đường tình
dục, nhiễm HIV/AIDS, có thai ngoài ý muốn ở lứa tuổi vị thành niên, làn sóng di
dân ngày càng tăng từ nông thôn vào các đô thị vốn đã quá tải… đang được đặt
ra. Mới đây, Quỹ dân số Liên hiệp quốc đã đưa ra bản báo cáo năm 1997 về tình
hình dân số thế giới, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề sức khoẻ sinh sản. Các số
liệu trong báo cáo đưa ra rất đáng phải báo động: Có khoảng 585 nghìn phụ nữ
chết mỗi năm, bình quân mỗi phút có một người chết do các nguyên nhân liên
quan đến có thai mà phần lớn tập trung ở các nước đang phát triển; Khoảng 200
nghìn ca tử vong mẹ mỗi năm do thiếu hoặc thất bại của các dịch vụ tránh thai;
Mỗi năm có ít nhất 75 triệu ca có thai ngoài ý muốn, kết quả là có 45 triệu ca nạo
thai, 20 triệu ca nạo thai không an toàn…
Theo Phương Anh – Báo Lao động ngày 16.9.1997
Vào năm 1995, dân số thế giới đã đạt được con số 5,7 tỷ người, trong số đó 4,5 tỷ
là công dân của thế giới đang phát triển, tốc độ tăng trung bình là l,6%/năm. Trong
vòng 7 năm (từ 1988 - 1995) nỗ lực của toàn nhân loại mới chỉ làm giảm tỷ lệ tăng từ

1,8% (1988) xuống 1,6% (1995) (UN, 1994)
Các nước đang phát triển ít có khả năng tạo ra sự phù hợp giữa tăng dân số, phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường do nhiều lý do, trong đó các yếu tố như hệ nông
nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp (1,3 tỷ "triệu phú áo rách" có mức thu nhập dưới
1 USD/ngày), trình độ công nghệ lạc hậu, kém dự trữ và đầu tư. Tuy nhiên, những lý
do khác cũng rất quan trọng khiến cho ngay cả các nước phát triển giải quyết được các
yếu tố trên, dân số vẫn tăng.nhanh, đó là lý do thuộc về lối sống, học vấn, tôn giáo…
Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, với sự trợ giúp quốc tế, đã thực hiện chính
sách kế hoạch hóa gia đình bước đầu đã thu được kết quả tốt. Từ năm 1993 đến 1997,
tỷ lệ sinh giảm mạnh từ 30,04‰ xuống 22,8‰, đạt mức giảm trung bình hàng năm 1,
5%. Độ mắn tổng số TFR giảm nhanh từ 3,8 (1989) xuống 2,69 (1996). Giảm TFR
xuống 2,1 vào năm 2010 là một trong những mục tiêu của Việt Nam.
Ô 6 - UNFPA VỚI CÔNG TÁC DÂN S Ố Ở VN
Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) bắt đầu trợ giúp VN từ năm 1978.
Cho đến năm 1997, UNFPA đã tài trợ 87 triệu USD cho các lĩnh vực cung cấp
dịch trụ tránh thai, trang thiết bị cho công tác chăm sóc sức kh ỏe bà mẹ và trẻ
em, kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo. Dự kiến đến
năm 2000, tổng số tiền tài trợ sẽ lên tới 111 triệu USD.
Hợp tác giữa Việt Nam và UNFPA được chia làm 5 chương trình. Ba
chương trình quốc gia đầu tiên của UNFPA (1978 - 1991) chủ yếu tập trung
vào việc cung cấp các phương tiện và dịch vụ cho công tác KHHGĐ và chăm
sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Lĩnh vực này đã nhận được 74% tổng ngân sách
14
của thời kỳ này. Ngoài ra, còn hỗ trợ cho hai cuộc tổng điều tra dân số năm
1979 và 1989. Chương trình quốc gia thứ 4 được thay đổi theo ba mục tiêu
của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, (ICDP) là giảm mức tử vong ở
trẻ sơ sinh; giáo dục phổ cập cho tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ em gái và
quyền tiếp cận của mọi người với các loại hình dịch vụ chăng sóc sức khoẻ
sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Mục tiêu này được thục hiện đầy đủ trong
Chương trình quốc gia thứ năm (1997 - 2000) là nâng cao năng lực quốc gia

để tiếp tục lồng ghép các dịch vụ sức khoẻ sinh sản (bao gồm KHHGĐ và sức
khỏe tình dục) vào hệ thống chăm sóc sức khóe ban đầu.
Theo Phương Anh - Báo Lao động ngày 16.9.1997
Hội nghị Dân số và Phát triển của Liên hiệp quốc tổ chức tại Cairo ngày 5 đến
13.9.1994 với 179 nước tham gia đã nhất trí một chương trình hành động về dân số và
phát triển trong 20 năm sau đó. Đặc điểm cơ bản của phương hướng mới này là quyền
năng cho phụ nữ, cung cấp cho họ nhiều cơ hội lựa chọn thông qua mở rộng tiếp cận
tới giáo dục, y tế, nâng cao các kỹ năng phát triển về nghề nghiệp, khuyến khích các
dịch vụ kế hoạch hóa gia đình rộng rãi. Chương trình hành động đặc biệt chú ý đến các
mục tiêu giáo dục, nhất là giáo dục trẻ em gái, sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giảm tỷ
lệ tử vong trẻ sơ sinh, trẻ em và sản phụ.
Chương trình cũng đề cập đến các vấn đề có quan hệ khăng khít với dân số như
môi trường, tiêu dùng, gia đình, di cư trong nước và quốc tế, HIV/AIDS, các vấn đề
thông tin, truyền thông, công nghệ, nghiên cứu và phát triển.
Tuy nhiên, giảm tỷ lệ tăng dân số không có nghĩa là kỳ thị phụ nữ như một số
nước đã làm. Việc hạn chế gay gắt số con của một cặp vợ chồng khiến thai nhi gái
hoặc trẻ sơ sinh gái đã bị loại bỏ một cách dã man.
Ô 7 - 100 TRIỆU PHỤ NỮ BỊ TIÊU DIỆT TRONG THẬP KỶ 90
Vào những năm 90, chừng 100 triệu phụ nữ đã bị tiêu diệt. Họ là nạn nhân
của các quy tắc và thực hành văn hóa đang thịnh hành ở Trung Quốc, ấn Độ,
Pakistan, New Guinea và nhiều nước đang phát triển khác. Việc thích con trai hơn
con gái đã khiến nhiều cặp cha mẹ đã phá thai nhi nếu là gái (chẩn đoán bằng thử
nước tiểu hay siêu âm). Khi trẻ sinh ra là gái, chúng bị giết, bị bỏ đói hoặc không
được chăm sóc y tế. Điều đó khiến cho tỷ lệ nam/nữ khi trẻ em trưởng thành trở
nên mất cân bằng: 93,8/100 (Trung Quốc - 1990), ; 92,9/100 (Ấn Độ - 1991),
91/100 (nhiều nước Nam Á, Tây Á, Bắc Phi). Riêng Trung Quốc vào thập niên 90
đã có 30 - 40 triệu trẻ gái bị tiêu diệt bằng cách như vậy.
Nguồn : Getis et al., 1994
1.2.2. Quan hệ giữa dân số - môi trường và phát triển
Mục tiêu của bất cứ chính sách phát triển nào cũng là cải thiện chất lượng cuộc

sống của con người. Kể từ sau hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, thế giới đã được cảnh
15
báo rằng vấn đề môi trường không thể giải quyết được nếu không xem xét mối quan hệ
giữa dân số và phát triển. Hội nghị Cairo 1994 cũng đã nhắc lại thông điệp đó: "áp lực
lên môi trường có thể nảy sinh từ sự tăng trưởng dân số quá nhanh, sự phân bổ và di
cư, đặc biệt ở các hệ sinh thái dễ bị tổn thương". Đô thị hóa và chính sách nếu không
làm sáng tỏ nhu cầu phát triển nông thôn cũng sẽ đồng thời tạo ra các vấn đề môi
trường.
Đối tượng chính của chương trình 21 và Cairo 1994 là phối hợp cả hai vấn đề
dân số và môi trường trong quy hoạch và hành động phát triển. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề tiến thoái lưỡng nan. Ở nhiều nước đang phát triển, các tham số dân số học là
một phần trong mạng lưới phức tạp của các nguyên nhân xã hội, kinh tế, sinh thái.
trong đó áp lực dân số không phải là nguyên nhân sau cùng, mà là nguyên nhân hàng
đầu, quan trọng nhất dẫn đến suy thoái môi trường. Cứ mỗi lần dân số tăng gấp đôi, lại
xảy ra sự suy giảm tương ứng không gian cư trú, sự cạnh tranh tài nguyên khốc liệt và
thường dẫn đến xung đột căng thẳng.
Tác động của dân số lên môi trường được tính như sau:
I - Tác động môi trường
P - Số dân
C - Tiêu thụ tài nguyên bình quân trên đầu người
T - Công nghệ (quyết định mức tác động của mỗi đơn vị tài nguyên được tiêu
thụ)
Theo Nabila J.S., 1995
Phương trình trên cho thấy tại sao ở các nước đang phát triển đông dân, nền kinh
tế lạc hậu thường gây suy thoái môi trường nghiêm trọng.
Quan hệ giữa dân số và môi trường được thể hiện trong khung logic về động lực
dân cư. (hình 2)
Hình 2. Quan hệ giữa dân số và môi trường - Sơ đồ logic
(1) Dân số: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, số dân, thành phần, phân bố di cư.
(2) Các tham số chuyển giao: công nghệ, trí thức, hoạt động kinh tế, chính sách,

hành động, các vấn đề chính trị, xã hội. phong tục.
16
(3) Môi trường: đất, nước, khí, đa dạng sinh học
(4) Thành quả: kiểu canh tác, khả năng tải, sức khỏe, phúc lợi kinh tế, đổi mới
công nghệ.
Tác động nhân sinh lên môi trường phụ thuộc cả vào dân số lẫn năng lượng và tài
nguyên mà con người sử dụng hay thải bỏ. Khả năng tải của hệ sinh thái tùy thuộc vào
trình độ công nghệ, do đó việc tăng khả năng tải nhờ công nghệ thường rất tốn kém.
Phát triền bền vững đòi hỏi dân số và nhu cầu tài nguyên phải cân bằng với khả
năng tải của lãnh thổ. Muốn vậy các chính sách phát triển cần phải đưa trên:
- Tổng hợp các thông tin: số liệu và chỉ thị về xu thế biến động dân số và môi
trường.
- Hiểu rõ các xu thế này để cổ vũ cho các quá trình hành động tích cực cũng như
ứng xử phù hợp với các quá trình tiêu cực.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Môi trường là một hệ thống với sự tham gia của các yếu tố đa dạng và phức tạp:
đất, nước, khí quyển và khí hậu, đa dạng sinh học, đô thị hóa, dân số, nghèo đói, lối
sông tiêu thụ, nhu cầu thị trường, vấn đề kế hoạch hóa gia đình, trình hạng thấp kém
của phụ nữ trình độ công nghệ, các yếu tố kinh tế và luật pháp v. v
Dân số là một bộ phận quan trọng trong hoạch định chính sách sử dụng môi
trường và phát triển bền vững. Bùng nổ dân số là yếu tố hàng đầu của suy thoái môi
trường, mất an ninh môi trường và xung đột xã hội.
Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là chính sách then chốt của chiến
lược phát triển bền vững, và mặc dù gặp nhiều khó khăn và trở ngại, vẫn đang gặt hái
được nhiều thành công ở các nước đang phát triển. Tuy vậy, do sức ỳ dân số, dân số
vẫn tiếp tục tăng trong thế kỷ 21.
Dân cư trên trái đất phân bố không đều. Những khu vực đông dân nhất là Đông
Bắc Hoa Kỳ, Tây Nam Canada, Nam Á. Bên ngoài các trung tâm này, tốc độ tăng dân
số hiện nay là rất cao, do đó chắc chắn bức tranh về sự phân bố dân cư trên thế giới
cũng còn nhiều biến đổi trong tương lai.

17
Chương 2
DI CƯ, DU CƯ VÀ MÔI TRƯỜNG
GIỚI THIỆU CHUNG
Di cư (hay di dân) là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh viễn. Di cư giữa các địa phương
trong nước gọi là di dân nội bộ (internal migration). Ở Hoa Kỳ, chỉ những dân di cư.
nào vượt ra ngoại biên giới của bang nơi họ ở mới được gọi là dân di cư (migrant), còn
trong phạm vi biên giới của bang chỉ được gọi là người chuyển chỗ ở (mover hoặc
shaker). Đối với nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư (out-migrant), họ sẽ
được gọi là dân nhập cư (in-migTant) tại nơi ở mới.
Di cư sang nước khác được gọi là di cư quốc tế (international migrant), nước mà
dân di cư ra đi gọi họ là người xuất cảnh (emigrant), trong khi nước tiếp nhận gọi họ là
người nhập cảnh (immigrant).
Di cư vì bị ép buộc và mất an ninh về các lý do chính trị, chủng tộc hay tôn giáo,
tái định cư ở một nước khác, được gọi là "tị nạn". Nếu lý do là mất an ninh môi
trường, thì người di cư được gọi là dân "tị nạn môi trường". Những vấn đề về "tị nạn
môi trường" sẽ trình bày ở chương 5. Những loại hình di cư khác do tự nguyện, liên
quan đến các vấn đề kinh tế, gia đình, do kế hoạch phân bổ lại lao động, giải phóng đất
đai để xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc xây dựng các khu kinh tế mới sẽ chỉ được gọi là
di cư. Những hình thức di cư này không được gọi là tị nạn. Tuy vậy nhiều trường hợp,
khó phân biệt được di cư và tị nạn thật rạch ròi.
Di cư là một quá trình khách quan, gây biến động lớn về xã hội và tác động đáng
kể đến tài nguyên và môi trường, đặc biệt là cho nơi tiếp nhận dân di cư.
2.1. Di cư trên thế giới và ở Việt Nam
Trong quá khứ di cư là một quá trình biến động dân cư rất lớn. Ví dụ trong vòng
90 năm, từ 1846 đến 1935, có đến 60 triệu người châu âu rời khỏi châu lục này. Trước
năm 1950, di cư và nhập cư đã làm thay đổi đáng kể sự cân bằng dân số của một quốc
gia vì dân số thời đó chưa đông Tuy nhiên, trong vài ba thập kỷ qua, dù có di cư hàng
triệu người trong phạm vi các nước Châu Á, Phi và Mỹ La tinh thì sự biến động dân số
cũng chẳng thấm vào đâu, do dân số ở những khu vực chậm phát triển này quá lớn.

Một phần đáng kể trong số hàng triệu dân di cư trên thế giới là những người tị
nạn (bảng 4)
18
Bảng 4 Dân tị nạn trên thế Qiới trong thập kỷ 80
Châu lục
Năm 1980
(triệu người)
Năm 1988
(triệu người)
Châu Á
2,6
6,8
Châu Phi
3,7
4,6
Bắc Mỹ
1,2
1,4
Nam Mỹ
0,2
1,2
Châu Âu
0,6
0,7
Tổng cộng
9,3
14,7
Nguồn : Getis et al,. 1994.
Việt Nam năm 1945 khởi đầu cho cuộc di cư của người Kinh tránh nạn đói ở
đồng bằng lên miền núi (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hòa Bình ). Năm 1904, nhiều lính

ngụy người Nùng và Thái Đen làm việc cho quân đội Pháp ở lại Tây Nguyên. Cuộc
chiến tranh biên giới năm 1979 đã kích thích làn sóng di cư của người thiểu số phía
Bắc di cư vào Tây Nguyên. Quá trình di cư cả tự phát lẫn có tổ chức đã rộ lên trong
thập kỷ 90. Năm 1992, chỉ riêng tỉnh Đắc Lắc đã nhận 10.000 dân đi cư thiểu số từ các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và Hà Bắc. Riêng năm 1993, có 20.000 dân di
cư đến Tây Nguyên. Đắc Lắc hiện nay (5. 1998) có 1.4 triệu dân, nhưng dân di cư tự
do đã chiếm 1/4, tức 350.000 người, gồm 37 dân tộc của tất cả các tỉnh thành trong cả
nước, nhiều nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc (người Cao Bằng đông nhất với trên
70.000 người). Nhiều huyện như Krong Năng. Ea HLeo, Ea Kar, Cư Jut, Krong Pak,
dân di cư tự do chiếm 33 - 50% (Báo Lao động ngày 4. 5. 1998).
Di dân có tổ chức cũng được Nhà nước thực hiện trong những năm 1984 - 1989
nhằm phân bố lại lao động, tăng cường lao động cho các tỉnh phía Nam. Trong số dân
di cư có tổ chức đợt này, có:
4,2% dân số Hà Nam Ninh cũ;
3,7% dân số tỉnh Thái Bình;
3,1% dân số tỉnh Hải Hưng cũ;
3,6% dân số Bình Trị Thiên cũ;
đã tạm biệt quê quán vào sinh sống ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Số
dân nhập cư có tổ chức miền Bắc chiếm:
19,3% dân số tỉnh Lâm Đồng;
18,9% dân số Đắc Lắc;
18,5% dân số Bà Ria - Vững Tàu;
8,6% dân số tỉnh Đồng Nai;
8,2% dân số Sông bé (Bình Dương và Bình Phước).
Tỷ lệ di cư của thanh niên 25 - 29 tuổi chiếm 8,21%, cao gấp 4 tần số dân di cư
19
trên 50 tuổi. Cứ 10 nam thanh niên trong độ tuổi 25 - 29 thì đã có 1 người di cư trong
thời kỳ 1984 - 1989, khiến cho sự cân bằng giới trong cộng đồng bị phá vỡ (người di
cư chủ yếu là nam).
Trong phạm vi miền Bắc Việt Nam, việc di cư người Kinh lên miền núi được

Nhà nước tổ chức vào cuối thập niên 1950 đầu 1960 (thời đó gọi là đi khai hoang). Sự
di dân lớn đến mức là thay đổi hẳn cấu trúc dân số vùng cao. Từ năm 1960 - 1990, dân
số người Kinh ở Hà Giang và Tuyên Quang tăng 426%, Cao Bằng tăng 55%, Lạng
Sơn tăng 254%, Lai Châu tăng 677%, Thái Nguyên và Bắc Cạn tăng 2170%, Sơn La
tăng 827%, Quảng Ninh tăng 285%, Hòa Bình 1937% (vào năm 1960, Hòa Bình tiếp
nhận 32.000 người Kinh, năm 1989 tăng lên đến 659.000 người). Tổng số người Kinh
di cư lên các tỉnh miền núi phía Bắc năm 1989 là 2,6 triệu người.
Ô 8 - DI DÂN TỰ DO Ở LAI CHÂU
Theo thống kê báo cáo tại kỳ họp thứ 7, HĐND tỉnh Lai Châu khóa X, tính đến
tháng 9.1996, toàn tỉnh có 2.864 hộ vó 20.409 nhân khẩu di Cư tự do đến các địa
bàn đồng bào dân tộc Mông (chiếm tới 90%), Dao, Thái, trong đó dân ngoại tỉnh
chiếm 1.228 hộ, 8.227 khẩu (gồm các tỉnh Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang ).
Những tháng đầu năm 1997, đã có thêm 313 hộ với 1.669 người từ tỉnh Lao Cai di
cư đến các huyện Mường Tè, Mường Lay (Lai Châu). Dân di cư tự do từ các
huyện trong tỉnh và ngoại tỉnh đến cư trú tại nhiều địa bàn, trong đó tâm trung ở
khu vực Ba Chà và đông nhất là ở xã Chà Cang của huyện Muông Lay. Chà Cang
là xã vùng sâu, vùng xa, có đường biên giới Việt - Lào diện tích tự nhiên 850km
2
,
rừng tự nhiên nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé. Hiện tại dân di cư
tự do mới đến gồm 1.385 hộ, 9.540 khẩu) đã đông gấp hơn bốn lần dân sở tại cũ
của xã, họ tự lập thành 38 bản và cử ra trưởng bản cho những bản mới này. Dân
di cư sử dụng gần 3.000 ha đất của xã làm nương, trong khi dân cơ tại đã và đang
sử dụng có gần 400 ha.
Hầu hết các điểm cư trú của dân di cư tư do đến Lai Châu đều ở vào các vị
trí, khu vực rừng già, rùng đầu nguồn, vành đai biên giới Việt Lào. Việc dân di cư
ồ ạt đến các vùng Ba Chà (Mường Lay), Mường Toong, Mường Nhé (Mường Tè)
đã gây ảnh hưởng xấu đến đời sông kinh tế - xã hội, an ninh chính trị trên địa bàn.
Nạn săn bắn thú rừng quý hiếm và các tệ nạn xã hội gia tăng, tình trạng chặt phá
rừng đầu nguồn, rừng già, rừng quốc gia ngày càng nghiêm trọng. Nhũng năm

1992 - 1996, rừng Lai Châu bị tàn phá hơn 1.000 ha. Do sản xuất, các điều kiện
cơ sở hạ tầng bị suy giảm, quá tải nên đời sống của đồng bào các dân tộc vùng
sâu, vùng xa vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Song song với tình hình di
dịch dân cư là việc tuyên truyền mê tín dị đoan, làm mất ổn định cuộc sống của
đồng bào, gây mâu thuẫn mất đoàn kết giữa các dân tộc các dòng họ ở các bản
làng.
Có thể nói, nguyên nhân cơ bản của tình hình di dân tự do là vì điều kiện
20
kinh tế, đời sống ở nơi cũ quá khó khăn, nên đồng bào luôn tìm vùng đất mới để
mưu sinh, lập nghiệp. Một phần cũng do việc giáo dục, quản lý Nhà nước của các
cấp chính quyền ở một số nơi chưa chặt chẽ, chưa có các biện pháp tích cực giúp
đồng bào khắc phục khó khăn ổn định đời sống sinh hoạt.
Theo Trần Xuân Bằng - Báo Nhân dân ngày 2.10.1997
2.2. Đo lường di cư
Tỷ lệ di cư thuần (Net Migrant Rate - NMR) là tỷ số giữa hiệu số di cư/nhập cư
trên 1000 dân
Số xuất cư - Số nhập cư
NMR =
Số dân (giữa năm)
x1000
Tỷ lệ di cư có thể bằng 0 nếu số xuất cư bằng số nhập cư, nhưng hoạt động di cư
có thể rất rầm rộ. Tỷ lệ di cư phản ánh sự cân bằng số dân của một lãnh thổ.
- Hệ số di cư (Migrant Rate - MR)
Tỷ lệ di cư thuần
MR =
Số sinh - Số chết
x1000
MR cho phép so sánh tỷ lệ giữa số dân di cư so với số tăng dân số tự nhiên.
2.3. Nguyên nhân của di cư
Ravenstein (1889) trên cơ sở phân tích số liệu điều tra ở Anh năm 1881 đã đề

xuất lý thuyết đẩy - hút. Theo lý thuyết này, một số người di cư vì họ bị xô đẩy ra khỏi
nơi cư trú ban đầu số khác di cư là do sức hút và sự cám dỗ của nơi ở mới. Đối với di
cư, sức hút thường mạnh hơn sức đẩy (ngược lại với tị nạn sức đẩy mạnh hơn sức hút).
Con người thường bị ước muốn sống tốt đẹp hơn thôi thúc di cư hơn là trốn chạy khỏi
tình thế không thoả mãn hiện thời. Người di cư bao giờ cũng cân nhắc thiệt hơn giữa
lực đẩy và lực hút và sẽ quyết định di cư nếu lực hút lớn hơn. Do đó, di cư khác với tị
nạn ở chỗ đa phần là sự ra đi tự nguyện. Tuy nhiên, vì sợ "sểnh nhà ra thất nghiệp" nên
trên thực tế, số người ra đi thường ít hơn số người muốn đi.
2.3.1. Lực đẩy
a. Lực đẩy chính trị
Những người bị buộc phải trốn chạy ra khỏi Tổ quốc mình vì các lý do chính trị
(chủng tộc hay tôn giáo) được gọi là người tị nạn. Năm 1989 trên thế giới có 15 triệu
dân tị nạn.
Số lượng người tị nạn khá đông xuất xứ từ vùng Tây Nam Á: 6 triệu người chạy
khỏi Afghanistan vào năm 1979 do xung đột vũ trang. Năm 1980, 1/3 dân số
Afghanistan phải tị nạn sang Iran hoặc Pakistan. Khi quận đội Liên Xô rút về nước,
chiến tranh vẫn tiếp diễn nên rất ít người hồi hương.
Chiến sự ở Ethiopia, Mozambique và Trung Đông cũng tạo ra 1/3 tổng số người
tị nạn trên toàn thế giới trong thập kỷ 90.
21
b. Sức đẩy kinh tế
Vào thập kỷ 1840, nhiều triệu người Ireland phải rời bỏ xứ sở do nông nghiệp
không sinh lợi vì bệnh tàn lụi (blight) phá hủy phần lớn vụ khoai tây, vốn là nguồn
lương thực chính và do đó gây ra nạn đói. Những người Anh sở hữu những vùng đất
trồng trọt màu mỡ lớn đã hầu như không hỗ trợ gì, khiến cho nhiều triệu dân Ireland đã
chết đói. Người sống sót phải bỏ xứ mà đi.
Vào năm 1980, sức ép kinh tế một lần nữa đẩy hàng trăm ngàn người Ireland rời
bỏ Tổ quốc do thất nghiệp. Lực lượng này là 10% dân số hoặc 25% lực lượng lao
động. Những người di cư đợt này chủ yếu là trí thức trẻ.
c. Sức đẩy môi trường

Trường hợp di cư này thực chất là tị nạn môi trường. Sức ép môi trường lớn nhất
là nước: ngập lụt hoặc hạn hán. Người ta đã tính toán rằng 40% thiên tai trên thế giới
là do lũ lụt và 20% là do bão. Đa phần dân sống ở vùng lũ lụt và hạn hán thường trở
thành dân di cư.
2.3.2. Lực hút
a. Lực hút chính trị
Lực hút chính trị lớn nhất là tự do dân chủ. Dân chúng thường yêu thích những
đất nước hoặc địa phương đề cao thực hành dân chủ, vì ở đó họ có nhiều khả năng lựa
chọn học vấn, nghề nghiệp và nơi cư trú. Tuy nhiên, chỉ riêng dân chủ chưa phải là tất
cả của cuộc sống.
b. Lực hút kinh tế
Sức hút dòng nhập cư vào Mỹ và Canada, chủ yếu không phải lý do chính trị mà
là lý do kinh tế. Rất nhiều người châu Âu bị hút đến Mỹ trong thế kỷ 19 vì lúc đó lan
truyền một dư luận rất hài hước là "phố xá ở Mỹ được lát bằng vàng" (Rubenstein,
1992). Trên thực tế, Hoa Kỳ và Canada chỉ tạo được những viễn cảnh về tăng trưởng
kinh tế. Điều đó hiện nay cũng đang làm lóa mắt nhiều người ở châu Á và châu Mỹ La
tinh.
Trong nước, người ta thường di cư đến nơi nào dễ kiếm việc làm, thu nhập tốt,
chỗ ở dễ tìm. Do những thay đổi về cơ hội kinh tế, khả năng việc làm thường biến đổi
từ vùng này sang vùng khác. Những vùng giàu khoáng sản thường thu hút thợ mỏ và
kỹ sư. Các khu công nghiệp và chế xuất thu hút công nhân, kỹ thuật viên và nhà khoa
học. Công nhân xây dựng, nhân viên nhà hàng khách sạn, dịch vụ công cộng cũng
thường chuyển đến các vùng đô thị hóa nhanh hoặc trung tâm du lịch.
Do những biến động về kinh tế, sau hàng chục năm dân Scotland tha phương
kiếm sống đã lại hồi hương vì gần đây dầu mỏ đã được phát hiện ở biển Bắc, ven bờ
Scotland. Nhiều người Việt Nam di tản sau 1954 hoặc 1975 giờ đây đã lại trở về quê
hương làm ăn.
22
Ô 9 - DI CƯ TỰ DO - LÀM GÌ ĐỂ GIÚP ĐƯỢC 1,03 TRIỆU NGƯỜI ?
Theo Bộ NN&PTNT, thời kỳ 91-95, hàng năm hơn 46 nghìn ha rừng bị

mất do đốt nương làm rẫy. Nhiều nhất là ở Tây Nguyên, duyên hải Trung Bộ,
Bắc Trung Bộ. Canh tác nương rẫy làm cho đất thoái hóa nghiêm trọng,
nhiều khu vực miền núi không còn đất làm rẫy dù là với chu kỳ ngắn. Đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng di cư tự do từ các
tỉnh miền Bắc vào Thanh Hóa, Nghệ An và xa hơn tới tận Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ.
Trong dòng di cư tự do vào các tỉnh phía Nam, đặc biệt là vào Tây
Nguyên, tỉnh Cao Bằng là nơi có dân đi nhiều nhất. Chỉ trong vòng 10 năm,
từ 86-95, đã có trên 60 ngàn người di cư tự do vào Đắc Lắc, 27 ngàn vào
tỉnh Sông Bé (cũ) và trên ngàn rưởi vào Lâm Đồng. Những người di cư tự do
chủ yếu là Tày, Nùng và HMông. Lý do di cư chủ yếu vì kinh tế: 67% đi do
thiếu đất, 24% do thu nhập thấp.
Lập nghiệp trên "đất mới "
Đa số dân di cư đều được mô tả là "rất nghèo": Khoảng một nửa sống
chỉ có số vốn bình quân là 500 ngàn đồng trở xuống. Dân di cư từ 1991 chỉ
có 9% có trâu bò, 7,8% có lợn, 4,2% có máy tuột lúa. Dân đi từ 1993 thì khá
hơn chút đỉnh: 15% có trâu bò, 10% có lợn và 5% có máy tuột lúa. Gần như
toàn bộ thu nhập của dân di cư vẫn tập trung vào lo cái ăn (70%), nhiều hộ
còn đi vay mượn để sinh sống. Đa số họ sống trong những nhà ở tạm. Một bộ
phận khác còn phải đi ở nhờ, ở thuê. Kết quả điều tra ở 1.690 hộ thuộc 6 tỉnh
"đất mới" cho thấy mỗi hộ chưa đủ một cái màn, một giường nằm! Song dù
sao đến nơi mới, bức tranh ruộng đất của họ đỡ hơn rõ rệt: Bình quân mỗi
hộ có trên 9.000m
2
, trong đó 8 000m
2
là đất nông nghiệp, đất rừng. Muốn có
đất họ phải đi mua. Đất mua chiếm 47%, đất tự khai hoang (46%), và số ít
hơn phải đi thuê (3,2%).
Dòng người di cư tự do đã gây ra những hậu quả đáng lo ngại. Theo

Bộ NN&PTNT, phỏng vấn trực tiếp tại 6 tỉnh có dân di cư tự do đến, cho
thấy có 80% khẳng định dân di cư tự do gây ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường. Mất rừng do đốt phá lấy đất sản xuất diễn ra trầm trọng. Bình quân
mỗi hộ di cu tự do phá 3.687m
2
rừng. Vì vậy ở các huyện, xã, nơi mà dân di
cư tự do đến trú ngụ, rừng bị giảm sút rất nhanh, rất nhiều tiểu khu rừng đã
bị xóa sổ như ở xã Ea Uy (huyện Ea HLeo), Lâm trường Đức Lập, xã Quảng
Phú krông Nô), Lâm Hà (Lâm Đồng), Quan Hoá, Bá Thước (Thanh Hoá).
Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Gia Lai, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình
Thuận.
Ước tính với tốc độ di cư tự do như hiện nay, bình quân mỗi năm các
tỉnh Tây Nguyên mất 3 vạn ha rừng. Riêng ở Đâu Lắc, tình hình đã đặc biệt
23
nghiêm trọng: Từ 1991 trên 1997, diện tích rừng bị phá bừa bãi để canh tác
vượt trên 22 ngàn ha.
Hình thái kinh doanh rẫy cũng đã bắt đầu xuất hiện ở một vài nơi có
dân di cư tự do. Dân địa phương bán rẫy cho người mới đến rồi tiếp tục phá
rừng làm rẫy mới ở nơi khác Ngoài ra cũng đã xuất hiện những "ông chủ"
kiểu mới. Họ là những người giàu thuê dân địa phương hoặc những người
mới đến định cư phá rừng làm rẫy. Sau một vài vụ, diện tích này được
chuyển sang trồng cây công nghiệp thu lợi.
Di cư tự do có còn tiếp diễn?
Tạo Báo cáo tháng 2.1998 của Bộ NN&PTNT gửi UB Kinh tế và Ngân
sách Quốc hội khóa 10, đời sông của dân di cư ở nơi mới cảí thiện nhanh
hơn ở quê cũ nên đã càng thúc đẩy làn sóng di dân tự do phát triển. Theo Bộ
NN&PTNT, số người di cư tự do đã lên với trên 1 triệu người ở hầu hết các
tỉnh trong toàn quốc. Theo báo cáo của các địa phương, số dân di cư tự do
là 212 ngàn hộ, 1,03triệu người. Trong đó, di cư trong nội vùng miền núi
phía Bắc:7.400 hộ di cư tự do đến Đông Nam Bộ: 97 ngàn hộ, di cư đến Tây

Nguyên: trên 70 ngàn hộ và dân di cư trên đồng bằng Nam Bộ là 37 ngàn
hộ.
Sô dân di cư tự do (người dân tộc thiểu số) nhìn chung đều lớn hơn
nhiều so với sô dân di cư theo kế hoạch (chủ yếu là người Kinh).
Theo số liệu của tỉnh Đắc Lắc, dân di cư tự do vào tỉnh này nhiều hơn
dân đi theo kê hoạch là l,5 lần, hoặc cứ 2 hộ "đi kế hoạch" thì 3 hộ "đi tự
do". Dân đi tự do đến Đắc Lắc đã mặc nhiên tập kết ở những vùng "cấm"
như rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng trồng của các lâm trường, thậm
chí cả rừng đã giao cho dân địa phương quản lý
Để khắc phục tình trạng trên, trong những năm tới, Bộ NN&PTNT đã
xây dựng một kế hoạch ổn định di dân tự do năm 1996 với tổng kinh phí 280
tỷ đồng. Cho đến nay, Bộ đã cùng các địa phương lập được 77 dự án ổn định
dân cư tập trung, 15 điểm xen ghép ở 16 tỉnh có dân di cư tự do đi và đến.
Tuy nhiên, đến hết năm 1997, Bộ NN&PTNT nói Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới
cấp được 67 tỷ đồng. Năm 1998, kế hoạch dành cho dòng người di cư vào
Nam được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo là 34,4 tỷ đồng. Một quan chức
của Bộ NN&PTNT kêu là ít quá! Và nếu như vậy thì ngành này sẽ không
thực hiện được theo tinh thần Chỉ thị số 660/TTg của Thủ tướng Chính phủ
là đến năm 1998 cơ bản ngăn chặn được tình hình di dân tự do.
Theo Nguyễn Tuấn - Báo Lao động ngày 8.6.1998
c. Sức hút môi trường
Điều kiện môi trường thuận lợi cũng thu hút người nhập cư. Đa phần dân Mỹ
24
thích sống ở những thành phố nhỏ. Họ không cảm thấy khó khăn vì đã có sự hỗ trợ
thuận lợi của điều kiện giao thông, thông tin liên lạc và dịch vụ. Vùng núi mát mẻ ở
Thụy Sỹ, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật cũng thu hút dân chuyển đến.
Những vùng có khí hậu ôn hòa thường thu hút dân từ những vùng có khí hậu
khắc nghiệt. Người già ưa sống tại những nơi ấm áp và khô. Vùng khô cũng thích hợp
với những người bị bệnh mãn tính về đường hô hấp, ngoài da.
2.4. Trở ngại của di cư

Trong lịch sử, những cản trở chính của di cư là môi trường. Trước khi sáng tạo ra
những hệ thống giao thông hiện đại như đường sắt, ô tô những người di cư vẫn đi
xuyên lục địa bằng ngựa, lạc đà, thậm chí đi bộ. Với những phương tiện như vậy, núi
non hiểm trở hoặc sa mạc là những trở ngại khó vượt. Các vùng biển rộng cũng là một
trở ngại khác. Ví dụ, Đại Tây Dương là một trở ngại lớn đối với việc di cư từ châu Âu
sang châu Mỹ; biển Đông là trở ngại cho những người di tản Việt Nam sau năm 1975.
Có chừng 1,5 triệu người Việt Nam di tản bằng thuyền (Rubenstein, 1992) và không rõ
có bao nhiêu người đã bỏ mạng trên biển trong quá trình vượt biên.
Giấy phép xuất cảnh và thị thực nhập cảnh, đăng ký hộ khẩu cũng là những trở
ngại khác.
2.5. Tác động của di cư
Di cư ồ ạt sẽ gây tác động lớn đến cấu trúc dân số cả nơi đi lẫn nơi đến. Những
đợt di cư trong quá khứ từ châu Âu và châu Phi đến Australia và châu Mỹ đã làm thay
đổi căn bản cấu trúc dân số ở hai nơi này (có những thời kỳ người di cư chiếm đến
40% số dân tăng của nơi nhập cư) - (bảng 5).
Bảng 5. Nhập cư vào Mỹ giai đoạn 1870 – 1930
Thập kỷ
Tăng dân nhập cư
%
Tỷ lệ giữa người nhập cư
và số tăng dân số %
1870 – 1880
20
29
1880 – 1890
39
43
1890 – 1900
12
32

1900 – 1910
31
42
1910 – 1920
3
17
1920 - 1930
3
22
Nguồn: Thomas B., 1973
Những người Slavơ di cư về Sibiria cũng chiếm cứ những vùng thưa dân và trở
nên áp đảo về số lượng so với dân địa phương.
Tập hợp người di cư không bao giờ là một nhóm cân bằng về tuổi và giới.
Thường họ chủ yếu là những người độc thân trẻ tuổi và chủ yếu là nam. Ví dụ, vào
giữa những năm 1970, cứ 100 nữ thì có đến 160 - 180 nam (bảng 6).

×