nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học -
9
TSKH. Lê Cảm *
I. về khái niệm và hệ thống
1. Khái niệm trờng hợp (tình tiết) loại
trừ tính chất tội phạm của hành vi
Vấn đề này từ trớc đến nay giữa các nhà
hình sự học vẫn còn có các ý kiến cha thống
nhất. Chẳng hạn: a) giáo s V.I. Tkatrenkô
(LB Nga) coi khái niệm các trờng hợp loại
trừ tính chất tội phạm của hành vi là những
hành vi hợp lí và có ích cho x hội nhằm loại
trừ sự đe dọa gây nên cho các quan hệ x hội
đang tồn tại trong đất nớc và khuyến khích
hoạt động có lợi
(1)
; b) giáo s V. Baulin
(Ukraina) quan niệm tình tiết loại trừ tính
nguy hiểm cho x hội và tính trái pháp luật
của hành vi - đó là hành vi đợc quy định bởi
các ngành luật khác nhau và bên ngoài tơng
tự nh các tội phạm, có ích cho x hội (chấp
nhận đợc về mặt x hội) và hợp pháp, đợc
thực hiện khi có các căn cứ nhất định, loại trừ
tính nguy hiểm cho x hội và tính trái pháp
luật của hành vi và vì vậy, loại trừ cả TNHS
của ngời gây nên thiệt hại
(2)
; c) thạc sĩ Đinh
Văn Quế viết: Loại trừ TNHS là trờng hợp
một ngời có hành vi gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho x hội nhng theo pháp
luật họ không bị truy cứu TNHS
(3)
Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi,
có thể định nghĩa khái niệm này nh sau:
Trờng hợp loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi là tình tiết đợc điều chỉnh trong
PLHS mà khi có căn cứ do luật định thì việc
gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự không bị
coi là tội phạm và do vậy, ngời gây ra thiệt
hại đó không phải chịu TNHS. Nh vậy, xuất
phát từ khái niệm này đồng thời nghiên cứu
các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999
về sáu trờng hợp (tình tiết) loại trừ tính chất
tội phạm của hành vi, đó là tính chất nguy
hiểm cho x hội không đáng kể của hành vi
(khoản 4 Điều 8), sự kiện bất ngờ (Điều 11),
cha đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12), tình trạng
không có năng lực TNHS (khoản 1 Điều 13),
phòng vệ chính đáng (khoản 1 Điều 15), tình
thế cấp thiết (khoản 1 Điều 16) chúng ta có
thể khẳng định trờng hợp mà trong đó việc
gây thiệt hại về mặt pháp lí không bị coi là tội
phạm phải có tổng hợp các dấu hiệu đặc trng
chung và bắt buộc dới đây:
- Trớc hết, trờng hợp (tình tiết) loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi phải đợc điều
chỉnh bằng các quy phạm của PLHS chứ nhất
thiết không thể bằng các quy phạm của các
ngành luật khác.
- Việc gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự
trong trờng hợp tơng ứng cụ thể phải có các
dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự
cấm bằng việc đe dọa áp dụng hình phạt hoặc
* Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
10 - Tạp chí luật học
biện pháp cỡng chế về hình sự khác.
- Việc gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự
trong trờng hợp tơng ứng cụ thể mặc dù có
thể là hành vi nguy hiểm cho x hội nhng
đợc coi là hợp pháp về mặt pháp lí vì nó đợc
thừa nhận chung bằng sự chấp nhận của x
hội bởi một trong các lí do: a) để bảo vệ lợi
ích của x hội hay của Nhà nớc cũng nh
quyền, lợi ích hợp pháp của chính chủ thể
hành vi gây thiệt hại hoặc của ngời khác
tránh khỏi sự xâm hại hoặc đe dọa thực tế gây
nên thiệt hại của tội phạm; b) để khuyến khích
việc đạt đợc mục đích có ích cho x hội hoặc
cho Nhà nớc bằng hành vi hợp lí và hợp
pháp; c) vì mục đích nhân đạo.
- Tính chất tội phạm của hành vi gây thiệt
hại đợc thực hiện trong trờng hợp tơng ứng
cụ thể bị loại trừ là do có căn cứ nhất định
đợc điều chỉnh bằng PLHS, tức là do thiếu
một trong năm dấu hiệu của tội phạm: 1) tính
nguy hiểm cho x hội, 2) tính trái PLHS, 3)
tính chất lỗi, 4) do ngời có năng lực TNHS
thực hiện, 5) ngời thực hiện hành vi đó đủ
tuổi chịu TNHS.
2. Hệ thống những trờng hợp loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi
Từ trớc đến nay, xung quanh vấn đề hệ
thống của những truờng hợp này giữa các nhà
hình sự học vẫn còn có một số quan điểm
khác nhau dới đây:
- Trong khoa học luật hình sự Liên Xô
trớc đây và Liên bang Nga hiện nay có một
số quan điểm về hệ thống của những trờng
hợp này nh sau:
a. Vào những năm đầu tiên sau Cách
mạng tháng 10 Nga cho đến trớc khi thông
qua Những nguyên tắc cơ bản của PLHS Liên
Xô và các nớc Cộng hòa liên bang năm 1958
hầu nh tất cả các nhà hình sự học đều nhất trí
cho rằng trong số các trờng hợp đ nêu
không chỉ có phòng vệ chính đáng và tình thế
cấp thiết mà còn có các trờng hợp khác do
pháp luật dân sự, hành chính, nhà nớc và các
ngành pháp luật khác quy định. Các tình tiết
đó là sự đồng ý của ngời bị hại, thực thi pháp
luật và lệnh có tính chất bắt buộc, thực hiện
các chức năng nghề nghiệp, thực hiện
quyền;
(4)
b. Các viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô trớc đây nh A.A.
Piôntkôvxki, P.X. Rômaskin và V.M.
Trkhikvađze gọi chúng là các tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho x hội (trái pháp luật) của
hành vi và đa ra danh mục nh sau: Phòng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết, sự đồng ý của
ngời bị hại, thực hiện các chức năng nghề
nghiệp có lợi cho x hội, thừa hành lệnh có
tính chất bắt buộc, thực hiện quyền của mình
và thi hành pháp luật
(5)
(đây cũng là quan
điểm của đại đa số các nhà hình sự học của
Liên Xô trớc đây);
c. Theo tác giả I. Rebanhe, căn cứ vào sự
điều chỉnh của pháp luật, các trờng hợp này
có thể đợc phân chia thành hai nhóm: Các
trờng hợp do BLHS quy định (phòng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết và bắt giữ ngời
phạm tội); các trờng hợp do pháp luật khác
quy định (các dạng khác nhau của việc thực
hiện quyền, thực hiện các nghĩa vụ pháp luật
và thi hành công vụ);
(6)
d. Một loạt các nhà hình sự học khác cũng
đồng nhất với quan điểm nêu trên của I.
Rebanhe và cho rằng: Trong các bộ luật hình
sự có thể tìm thấy số lợng không lớn các
trờng hợp loại trừ tính nguy hiểm cho x hội
và tính trái pháp luật của hành vi
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 11
(I.Vinher);
(7)
hoặc là các trờng hợp loại trừ
tính trái pháp luật cần phải đợc quy định trên
cơ sở tất cả các ngành pháp luật nh luật dân
sự, luật nhà nớc, luật hành chính, luật hình
sự (Beling);
(8)
các căn cứ loại trừ tính trái
pháp luật có thể ở trong tất cả các ngành luật
thành văn hoặc không thành văn;
(9)
đ. Tác giả Iu.V. Babulin đa ra định nghĩa
khoa học của khái niệm hệ thống các trờng
hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là
hệ thống có thuộc tính của sự loại trừ bắt buộc
và vô điều kiện tính nguy hiểm cho x hội và
tính trái pháp luật của bất kì hành vi hợp pháp
và có ích cho x hội (chấp nhận đợc về mặt
x hội) nào có các dấu hiệu của bất kì tội
phạm nào đợc quy định trong PLHS hiện
hành;
(10)
- Tại Việt Nam, về hệ thống của những
trờng hợp này thì trong PLHS hiện hành nhà
làm luật mới không ghi nhận định nghĩa pháp
lí của khái niệm mà chỉ điều chỉnh về mặt lập
pháp sáu trờng hợp đ nêu còn trong khoa
học luật hình sự các nhà hình sự học cũng
cha đa ra định nghĩa khoa học của khái
niệm về hệ thống mà chỉ liệt kê thêm các
trờng hợp khác (ngoài trờng hợp phòng vệ
chính đáng và tình thế cấp thiết ra). Đó là:
a. Sự kiện bất ngờ (Phan Hải Đăng);
(11)
b. Bắt ngời thực hiện tội phạm, thi hành
lệnh của cấp trên, rủi ro trong sản xuất hoặc
NCKH, thực hiện chức năng nghề nghiệp
(PGS.TS. Kiều Đình Thụ);
(12)
c. Đặc biệt là trong công trình nghiên cứu
chuyên khảo gần đây của mình
(13)
thạc sĩ Đinh
Văn Quế đ liệt kê một hệ thống rất rộng với
18 trờng hợp loại trừ TNHS và phân chia
chúng thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất đợc
gọi là những trờng hợp không có năng lực
TNHS bao gồm: 1) Tình trạng không có năng
lực TNHS; 2) Cha đến tuổi chịu TNHS; 3)
Cha bị kết án, cha bị xử lí hành chính hoặc
xử lí kỉ luật, cha đợc giáo dục. Nhóm thứ
hai là những trờng hợp không bị coi là có
lỗi bao gồm: 1) Phòng vệ chính đáng; 2)
Tình thế cấp thiết; 3) Sự kiện bất ngờ; 4) Tình
trạng không thể khắc phục đợc; 5) Bắt ngời
phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy n; 6)
Chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh
lệnh; 7) Không có năng lực TNHS; 8) Rủi ro
trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất; 9)
Không phải chịu TNHS về hành vi thái quá
của ngời thực hành trong vụ án có đồng
phạm. Nhóm thứ ba là những trờng hợp loại
trừ TNHS theo quy định của pháp luật bao
gồm: 1) Tính chất nguy hiểm không đáng kể
của hành vi; 2) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội; 3) Cha gây thiệt hại hoặc gây thiệt
gây cha tới mức phải truy cứu TNHS; 4)
Đợc miễn TNHS; 5) Hết thời hiệu truy cứu
TNHS; 6) Hành vi nguy hiểm cho x hội
không thuộc phạm vi áp dụng BLHS.
d. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng
tôi, ngoài việc liệt kê danh mục, cần phải đa
ra định nghĩa khoa học của khái niệm hệ
thống này nh sau: Hệ thống những trờng
hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là
tổng hợp (toàn bộ) các tình tiết có cùng bản
chất pháp lí chung và do PLHS điều chỉnh,
việc gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự khi có
một trong các tình tiết ấy không bị coi là tội
phạm (mặc dù về mặt hình thức việc gây thiệt
hại này có các dấu hiệu của hành vi nào đó bị
luật hình sự cấm) và do vậy, ngời gây ra thiệt
hại đó không phải chịu TNHS.
II. về bản chất pháp lí
1. Bản chất pháp lí của các tình tiết
(trờng hợp) nh phòng vệ chính đáng, tình
thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ cũng là vấn đề
nghiên cứu - trao đổi
12 - Tạp chí luật học
mà cho đến nay giữa các nhà hình sự học vẫn
còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trớc
đây và Liên bang Nga hiện nay có một số
quan điểm về bản chất pháp lí của các trờng
hợp này nh sau:
a. Các viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô trớc đây nh A.A.
Piôntkôvxki, P.X. Rômaskin và V.M.
Trkhikvađze viết: Chúng không những chỉ là
các tình tiết loại trừ tính chất phải bị xử phạt
của hành vi đợc thực hiện mà còn là các tình
tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi
đợc thực hiện.
(14)
b. Giáo s I.I. Xlutxki coi các trờng hợp
này là các tình tiết loại trừ TNHS và phân chia
chúng thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất là các
tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho x hội tính hợp
pháp của hành vi (bao gồm: Phòng vệ chính
đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt
giữ ngời phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp
hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách
nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện
quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ);
nhóm thứ hai là các tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho x hội và tính phải bị xử phạt của
hành vi (bao gồm: Tự nguyện đình chỉ tội
phạm, sự đồng ý của ngời bị hại, tính chất
nhỏ nhặt của sự vi phạm pháp luật, sự thay đổi
của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính
trị - x hội, hết thời hiệu truy tố hình sự và
thời hiệu của bản án); nhóm thứ ba là các tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm cho x hội của
hành vi (bao gồm: Sự cỡng bức về thể xác và
sức mạnh không thể khắc phục đợc);
(15)
c. Nhng quan điểm của giáo s A.N.
Naumôv là rõ hơn cả, khi ông viết rằng: Tất
cả các trờng hợp này loại trừ cả tính trái
pháp luật hình sự (tính trái pháp luật), cả tính
nguy hiểm cho x hội, cả tính chất lỗi, cả tính
phải bị xử phạt của hành vi, và do đó, cả tính
chất tội phạm của nó.
(16)
d. Cho đến nay, sau khi nhà làm luật Liên
bang Nga đ chính thức ghi nhận trong
Chơng 8 BLHS hiện hành năm 1996 bản chất
pháp lí của các trờng hợp này là Các tình
tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi(các điều 37 - 42)
(17)
thì hầu hết các nhà
hình sự học Nga đều quan niệm chúng là các
tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi;
(18)
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho
đến nay về bản chất pháp lí của sáu trờng
hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi (khoản 4 Điều 8, Điều 11, Điều 12,
khoản 1 Điều 13, khoản 1 Điều 15, khoản 1
Điều 16 BLHS năm 1999) còn tồn tại năm
quan điểm chính nh sau: a) Hầu hết các nhà
hình sự học đều coi chúng là các tình tiết loại
trừ tính chất nguy hiểm cho x hội của hành vi
và quan điểm này đợc thể hiện trong tất cả
các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
chung);
(19)
b) PGS.TS. Kiều Đình Thụ lại quan
niệm chúng là những tình tiết loại trừ tính
nguy hiểm cho x hội và tính trái pháp luật
của hành vi;
(20)
c) Tác giả Nguyễn Ngọc Chí
và thạc sĩ Đinh Văn Quế có cùng chung một
quan điểm - đều gọi chúng là các trờng hợp
loại trừ TNHS;
(21)
d) Tác giả Phạm Hải Đăng
coi chúng là những trờng hợp không phải là
tội phạm;
(22)
đ) Tuy nhiên, về bản chất pháp lí
của các trờng hợp này, theo quan điểm của
chúng tôi đ đợc đa ra cách đây hơn 10
năm trong bài báo đăng trên Tạp chí TAND -
đó là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm
của hành vi,
(23)
cho đến bây giờ chúng tôi vẫn
tiếp tục giữ vững quan điểm ấy.
(24)
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 13
2. Lẽ dĩ nhiên, mỗi quan điểm đợc liệt
kê nêu trên về bản chất pháp lí của các trờng
hợp đang nghiên cứu đều dựa trên các lập luận
khoa học và có tính hợp lí riêng của mình.
Song các lập luận khoa học đợc đa ra để
khẳng định bản chất pháp lí của các trờng ấy
nh thế nào đi chăng nữa thì cũng cần phải
xác đáng, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết
phục, theo chúng tôi đó là:
- Nếu phân tích theo phép biện chứng duy
vật và lôgic của vấn đề, trong NCKH bao giờ
ngời nghiên cứu cũng phải lần lợt đi theo
thứ tự từ A rồi mới đến B, C (chứ không thể
cha qua A mà lại đi thẳng vào B rồi mới
quay lại khẳng định cho A - làm ngợc).
- Theo cách hiểu trên đây thì tội phạm tự
bản thân nó là hành vi nên khi bàn về bản chất
pháp lí của hành vi đó chúng ta cần phải lần
lợt phân tích theo thứ tự bao gồm hai bớc:
a. Bớc 1: Phân tích các dấu hiệu (A) của
nó xem thử hành vi đó có phải là tội phạm hay
không(?) và nếu không phải là tội phạm thì do
thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu đợc
thừa nhận chung mà tính chất tội phạm của nó
đợc loại trừ;
b. Bớc 2: Bàn về vấn đề TNHS với tính
chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó
(B) trong từng trờng hợp tơng ứng cụ thể
nh thế nào (đợc loại trừ TNHS - nếu hành vi
không phải là tội phạm hoặc là phải chịu
TNHS - nếu hành vi là tội phạm), chứ không
thể ngay từ đầu đ bỏ qua bớc 1 (cha xem
xét A) mà đ vội đi thẳng sang bớc 2 (khẳng
định ngay B).
- Nh vậy, nếu xem xét nh bớc 1 đ
nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất
pháp lí của tất cả sáu trờng hợp đang nghiên
cứu trong Phần chung BLHS Việt Nam năm
1999 hiện hành đều là các tình tiết loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi vì việc gây
thiệt hại về mặt pháp lí hình sự trong các
trờng hợp này đều thiếu một trong các dấu
hiệu của tội phạm, cụ thể là:
a. Có một trờng hợp mà tính chất tội
phạm của hành vi đợc loại trừ do thiếu một
trong các dấu hiệu của tội phạm - thiếu tính
chất lỗi của hành vi, vì trong trờng hợp này -
sự kiện bất ngờ (Điều 11) mặc dù về mặt hình
thức việc gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự
có dấu hiệu của hành vi nào đó đợc quy định
trong Phần các tội phạm BLHS nhng ngời
thực hiện nó hoàn toàn không có lỗi;
b. Có một trờng hợp mà tính chất tội
phạm của hành vi đợc loại trừ do thiếu một
trong các dấu hiệu của tội phạm - hành vi
đợc thực hiện bởi ngời cha đủ tuổi chịu
TNHS vì trong trờng hợp này mặc dù về mặt
hình thức việc gây thiệt hại về mặt pháp lí
hình sự tuy có dấu hiệu của hành vi nào đó
đợc quy định trong Phần các tội phạm BLHS
nhng ngời thực hiện nó hoàn toàn cha đạt
đến độ tuổi mà theo quy định của BLHS là
phải chịu TNHS (Điều 12);
c. Có một trờng hợp mà tính chất tội
phạm của hành vi đợc loại trừ do thiếu một
trong các dấu hiệu của tội phạm - hành vi
đợc thực hiện bởi ngời không có năng lực
TNHS vì trong trờng hợp này mặc dù về mặt
hình thức việc gây thiệt hại về mặt pháp lí
hình sự tuy có dấu hiệu của hành vi nào đó
đợc quy định trong Phần các tội phạm BLHS
nhng ngời thực hiện nó hoàn toàn không có
năng lực TNHS theo quy định của BLHS
(khoản 1 Điều 13).
d. Có ba trờng hợp mà tính chất tội
phạm của hành vi đợc loại trừ do thiếu một
nghiên cứu - trao đổi
14 - Tạp chí luật học
trong các dấu hiệu của tội phạm - thiếu tính
trái PLHS của hành vi (tức là không bị PLHS
quy định là tội phạm) vì trong cả ba trờng
hợp này - tính chất nguy hiểm cho x hội
không đáng kể của hành vi (khoản 3 Điều 8),
phòng vệ chính đáng (khoản 1 Điều 15) và
tình thế cấp thiết (khoản 1 Điều 16) mặc dù về
mặt hình thức việc gây thiệt hại về mặt pháp lí
hình sự có dấu hiệu của hành vi nào đó đợc
quy định trong Phần các tội phạm BLHS
nhng nó đều không trái PLHS (không bị nhà
làm luật coi là tội phạm).
Xuất phát từ sự phân tích trên đây có thể
nhận thấy rằng:
a. Ngay từ bớc 1 chúng ta đ khẳng định
đợc sự loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
trong sáu trờng hợp đang nghiên cứu đợc
quy định trong Phần chung BLHS Việt Nam
năm 1999 và tơng ứng nh vậy, theo nguyên
tắc pháp chế đợc thừa nhận chung Nullum
crimen, nulla poena sine lege (không có tội
phạm, không có hình phạt nếu luật không quy
định) đơng nhiên chúng là những trờng hợp
loại trừ TNHS hay nói cách khác - trong cả
sáu trờng hợp này chủ thể của hành vi đều
không có TNHS;
b. Không thể khẳng định chúng là những
trờng hợp loại trừ tính chất nguy hiểm cho
x hội của hành vi, vì việc gây thiệt hại về
mặt pháp lí hình sự trong tất cả những trờng
hợp này rõ ràng là đều nguy hiểm cho x hội
cả (ví dụ: Không thể nói là tính chất nguy
hiểm cho x hội của hành vi đợc loại trừ
khi em bé 13 tuổi hoặc ngời bị điên cầm dao
bầu chém liên tiếp và gây thơng tích trên
11% cho một loạt ngời đang ngồi bán hàng
trong chợ );
c. Không thể gọi chúng là những trờng
hợp loại trừ tính trái pháp luật của hành vi,
vì nếu là trái pháp luật thì những trờng hợp
này sẽ có giới hạn rất rộng, nó bao gồm cả các
hành vi cần phải đợc điều chỉnh bởi một số
ngành luật khác nữa chứ không chỉ bởi PLHS
(trong khi đó ở đây chúng ta chỉ bàn về các
hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lí hình sự);
d. Không thể bỏ qua bớc 1 mà vội đi
thẳng sang bớc 2 để khẳng định ngay hậu
quả của việc thực hiện hành vi rằng chúng là
những trờng hợp loại trừ TNHS đợc.
Tóm lại, tất cả các lập luận khoa học trên
đây đ cho chúng ta đầy đủ căn cứ để khẳng
định một cách dứt khoát rằng dới góc độ
pháp lí hình sự bản chất pháp lí chung, đầy đủ
và toàn diện của tất cả sáu trờng hợp đ nêu
trong Phần chung BLHS Việt Nam năm 1999
là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi.
III. kết luận
Xuất phát từ việc nghiên cứu chế định các
tình tiết (trờng hợp) loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi, chúng ta có thể đi đến một
số kết luận chung dới đây:
- Các tình tiết (trờng hợp) loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi là một trong những
chế định cơ bản phản ánh nguyên tắc nhân
đạo của luật hình sự.
- Trong khoa học luật hình sự hiện nay
xung quanh những vấn đề về khái niệm, hệ
thống và bản chất pháp lí của chế định đ nêu
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
cần phải đợc nhà làm luật khẳng định dứt
khoát về mặt lập pháp.
- Chính vì vậy, việc tiếp tục làm sáng tỏ về
mặt lí luận để tìm ra những trờng hợp loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi có trong thực
tiễn đồng thời đa ra mô hình lí luận nhằm
hoàn thiện chế định đang đợc nghiên cứu là
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 15
nhiệm vụ không kém phần quan trọng và cần
thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam./.
(1).Xem: Tkatrenkô V.I. Các trờng hợp loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi. Chơng X. Giáo trình luật
hình sự. Phần chung. Nxb. Sách pháp lí. M. 1994, tr.
222.
(2).Xem: Iu.V. Babulin. Các trờng hợp loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi. Nxb. Trờng ĐHTH
Kharkôv, 1991, tr.41.
(3).Xem: Đinh Văn Quế. Những trờng hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Nxb.
Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998, tr.6.
(4).Xem: Iu.V. Babulin. Các trờng hợp loại trừ tính
chất tội phạm (Sđd), tr.48.
(5).Xem: Giáo trình luật hình sự Xô Viết. Tập II (tội
phạm). Nxb. Khoa học. M.1970. tr.342; M.I.
Iakubôvich. Những vấn đề lí luận và thực tiến của
phòng vệ chính đáng. Nxb. Trờng đại học Công an.
M.1961; N.N. Pase-Ozerxki. Phòng vệ chính đáng và
tình thế cấp thiết. Nxb. Pháp lí quốc gia. M.1962; T.G.
Savguliđze. Phòng vệ chính đáng. Nxb. Khoa học.
Tbilisi, 1966; I.X. Trixkevich. Những điều kiện và các
giới hạn của phòng vệ chính đáng. Nxb. Sách pháp lí.
M. 1969
(6).Xem: I. Rebanhe. "Các trờng hợp loại trừ tính
nguy hiểm cho x hội của hành vi". Trong sách: Luật
hình sự Xô Viết. Lí luận chung về tội phạm. Phần 3.
Tartu, 1983, tr.3-4.
(7).Xem: I. Vinher. "Các trờng hợp loại trừ tính nguy
hiểm cho x hội và tính trái pháp luật của hành vi".
Trong sách: Các xu hớng đơng đại của luật hình sự
XHCN. M. 1983, tr.63.
(8).Xem: N.V. Liaxx. Những vấn đề về lỗi và trách
nhiệm hình sự trong các thuyết t sản hiện đại.
Lêningrađ, 1977. tr.21.
(9).Xem: A.G. Magakix. Luật hình sự Hi Lạp. Phần
chung.Trong sách: Luật hình sự nớc ngoài đơng đại.
M. 1961, tập 3, tr.397.
(10).Xem: Iu.V. Babulin. "Các trờng hợp loại trừ tính
chất tội phạm" (Sđd), tr.45.
(11).Xem: Phạm Hải Đăng. "Những trờng hợp không
phải là tội phạm". Chơng IX Phần thứ hai Giáo trình
luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Trờng đại học
Cảnh sát nhân dân. H. 1996.
(12).Xem: Kiều Đình Thụ.Tìm hiểu luật hình sự Việt
Nam. Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 1996; Nxb. Đồng
Nai, 1998, tr.32.
(13).Xem: Đinh Văn Quế. Những trờng hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự (Sđd), tr.12-122.
(14).Xem: Giáo trình luật hình sự Xô Viết. Tập II (tội
phạm). Nxb. Khoa học. M. 1970, tr.345.
(15).Xem: I.I. Xlutxki. Các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự. Nxb. Trờng ĐHTH Lêningrađ, 1956. tr.11-
12.
(16).Xem: A.V. Naumôv. (Chủ biên). Từ điển luật hình
sự. Nxb. Bek. M. tr.292.
(17).Xem: Bộ luật hình sự Liên bang Nga. Văn bản
chính thức. Nxb. Sách pháp lí, tr.21.
(18).Xem: Giáo trình luật hình sự. Phần chung. Nxb.
Sách pháp lí. M.1994, tr. 221; Luật hình sự. Phần
chung. Giáo trình dành cho các trờng đại học. Nxb.
Infra-Norma. M. tr.262; A.V.Naumôv. Luật hình sự.
Phần chung. Tập các bài giảng. Nxb. Bek. M. tr.326.
(19).Xem: Nguyễn Ngọc Hòa. Tội phạm trong luật hình
sự Việt Nam. Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội, 1991;
Ngô Ngọc Thủy. "Những tình tiết loại trừ tính chất
nguy hiểm cho x hội của hành vi". Chơng XI. Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam. Tập I. Trờng đại học
Luật Hà Nội, 1999, tr.195; Trịnh Quốc Toản. "Những
trờng hợp loại trừ tính chất nguy hiểm cho x hội của
hành vi". Chơng XI. Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam. Phần chung. Khoa Luật Trờng đại học KHXH &
nhân văn thuộc ĐHQGHN. Hà Nội, 1997, tr.181
(20).Xem: Kiều Đình Thụ. Tìm hiểu luật hình sự Việt
Nam. Nxb. Đồng Nai, 1998, tr.32.
(21).Xem: Nguyễn Ngọc Chí. Về chế định loại từ trách
nhiệm hình sự. Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số
4/1999, tr. 32-35; Đinh Văn Quế. Những trờng hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự (Sđd).
(22).Xem: Phạm Hải Đăng. Những trờng hợp không
phải là tội phạm. Chơng IX Giáo trình luật hình sự
Việt Nam Sđd, tr.221.
(23).Xem: Lê Cảm. Hoàn thiện các quy phạm về trách
nhiệm hình sự. Yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong
việc bảo vệ các quyền con ngời bằng pháp luật hình
sự. Tạp chí Toà án nhân dân, các số 2, 3 và 4/1990.
(24).Xem:
Lê Cảm. Vấn đề hoàn thiện các quy định về
những trờng hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi. Tạp chí tòa án nhân dân, các số 3 và 4/1998.