Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.58 KB, 93 trang )






TIỂU LUẬN:

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY







Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách
quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Tăng trưởng kinh tế là
cơ sở kinh tế, là giá đỡ vật chất cho công bằng xã hội; thực hiện công bằng xã hội
lại là điều kiện xã hội, động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Kết hợp hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những nguyên tắc chủ yếu
trong tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Lực lượng nòng cốt để thực hiện sự “kết hợp” ấy chính là nhà nước. Muốn
thành công, một mặt, chúng ta phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan
điểm lịch sử cụ thể về công bằng xã hội; mặt khác, các chính sách, biện pháp giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội của nhà nước phải hướng vào
sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những chủ
trương chủ yếu trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta


trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đó không chỉ thể hiện tính định hướng nhân văn,
định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phản ánh nhu cầu phát triển xã hội theo mô
hình tiến bộ, phù hợp với thiên niên kỷ mới.
Tăng trưởng kinh tế là đòi hỏi bức xúc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Nếu không
tăng trưởng kinh tế, chúng ta sẽ bị gạt ra ngoài lề của đời sống kinh tế quốc tế, không
thể tồn tại được chứ đừng nói đến phát triển, tiến bộ. Nhưng tăng trưởng kinh tế mà
dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo một cách quá đáng, dẫn tới sự phân cực, một mặt, sẽ
nẩy sinh những mâu thuẫn, xung đột xã hội cản trở sự phát triển kinh tế; mặt khác, sẽ
không đảm bảo được sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cùng
với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương “giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Thực
hiện chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công
bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu
hợp pháp”(1).
Sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một yêu


cầu khách quan trong sự phát triển của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy
không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra. Ở đây, vai trò của chủ thể, của
nhân tố chủ quan, mà trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước có tầm quan trọng
đặc biệt trong việc “kết hợp”, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong điều kiện
hiện nay liệu có chủ quan, duy ý chí hay không? Câu trả lời là không, bởi mấy lẽ sau
đây:
Một là, thực tiễn phát triển của lịch sử đương đại không phủ nhận, mà ngược lại,
ngày càng khẳng định sự cần thiết của “bàn tay hữu hình”của nhà nước.
Cũng có người cho rằng, chỉ đứng trên quan điểm mácxít và ở các nước xã hội chủ
nghĩa mới khẳng định vai trò của nhà nước trong quản lý, điều tiết nền kinh tế, còn
đối với các nước tư bản chủ nghĩa thì ngược lại. Điều đó không hoàn toàn đúng.

Lược qua lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản
trong thời kỳ tự do cạnh tranh, khi nhà nước còn đứng bên ngoài kinh tế, bảo vệ cho
tự do cạnh tranh dưới sự chi phối của thị trường, đã dẫn đến khủng hoảng và tổng
khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX. Đó là một
trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. Sau Chiến tranh thế
giới thứ II, chủ nghĩa tư bản cũng đã thấy được sự cần thiết của “bàn tay hữu hình”
của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung.
Chủ trương xây dựng “nhà nước phúc lợi” ở các nước tư bản đã chứng tỏ điều đó.
Nhờ sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua
những cơn khủng hoảng triền miên, thay đổi được bộ mặt của mình và tạo đà cho sự
phát triển. Tuy nhiên, do bản chất và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, vào cuối
những năm 70, 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của nhà nước theo mô hình “nhà nước
phúc lợi” bắt đầu cản trở sự phát triển kinh tế. Chủ nghĩa tư bản rơi vào tình trạng
khủng hoảng mới - khủng hoảng về cơ cấu. Trước tình trạng đó, các đảng bảo thủ
cầm quyền đề xuất mô hình “chủ nghĩa tự do mới” (bắt đầu từ luận thuyết của Rigân
- cựu Tổng thống Mỹ và Thátchơ - cựu Thủ tướng Anh vào những năm 80). Thực
chất của chủ nghĩa tự do mới là đề cao thị trường tự do. Những người theo thuyết
này cho rằng, mọi quyết sách phải theo mệnh lệnh của thị trường và phản đối sự can
thiệp của nhà nước vào kinh tế.


Sau gần 10 năm thực hiện luận thuyết đó, một số nước phương Tây đã phải gánh
chịu những hậu quả tai hại: nạn đầu cơ tiền tệ; tăng tỉ suất lợi nhuận, nhưng tốc độ
tăng trưởng kinh tế giảm; cắt xén chi tiêu phúc lợi, nhưng gánh nặng tài chính của
nhà nước không giảm; sự phân cực xã hội diễn ra rất nặng nề, sự căng thẳng xã hội
trở nên gay gắt…
Các nước phương Tây dần dần đã cảnh tỉnh trước chủ nghĩa tự do mới và có sự thay
đổi. Họ thấy rằng, nếu phó mặc cho “bàn tay vô hình” của thị trường thì những gì
được coi là tốt lành của chủ nghĩa tư bản có thể sẽ tiêu tan. Các nước thuộc thế giới
thứ ba cũng nhận thấy là, nếu đem toàn bộ việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu

nhập và sự điều tiết của nhà nước giao cho thị trường quản lý, thì chỉ có thể mang lại
tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, thất nghiệp và bần cùng.
Đặc biệt, khi tiến trình toàn cầu hoá trở nên mạnh mẽ, khi sự hình thành hệ thống kinh
tế toàn cầu đang “phá vỡ” những biên giới quốc gia của các nền kinh tế, những tranh
luận về nhà nước và khả năng của nó trong việc thực hiện các chức năng của mình đã
diễn ra ngày càng sôi nổi.
Khi đưa ra thuyết “Toàn cầu hoá quyết định”, chủ nghĩa tự do mới cho rằng, trong
tiến trình toàn cầu hoá, nhà nước không có cách gì quyết định vận mệnh của mình.
Việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu nhập và đề ra các quyết sách chỉ có thể tiến
hành theo mệnh lệnh của thị trường; đối mặt với toàn cầu hoá tư bản thì quốc gia,
dân tộc có xu hướng tiêu vong, duy nhất còn lại là chủ quyền của thị trường.
Có quan điểm lại cho rằng, sự phát triển của toàn cầu hoá đã làm nổi lên vai trò
“quản lý toàn cầu”. Bởi lẽ, toàn cầu hoá về kinh tế làm xuất hiện sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia, dân tộc. Thời cơ, thách thức, rủi ro,
khủng hoảng, nghèo đói, khủng hoảng sinh thái, ô nhiễm môi trường… đều đã trở
thành những vấn đề có tính chất toàn cầu; việc giải quyết chúng đòi hỏi phải có sự nỗ
lực toàn cầu, nỗ lực của mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ. Trong khi đó, theo quan điểm
này, biện pháp thị trường đã mất linh nghiệm, nhà nước quốc gia đã trở nên bất lực
và do đó, cần thiết phải đề cao sự “quản lý toàn cầu”.
Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi thị trường quyết định tất cả đã bị
thực tiễn đương đại bác bỏ. Còn việc phải có sự quản lý toàn cầu nhằm chế định, duy
trì trật tự kinh tế toàn cầu và thúc đẩy nỗ lực chung của mọi quốc gia để giải quyết


các vấn đề toàn cầu là cần thiết. Nhưng từ đó mà coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò của
nhà nước quốc gia thì lại là một sai lầm.
Quả thực, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá đang bị ảnh hưởng mạnh
mẽ, quyền và hoạt động của nhà nước đang bị hạn chế: khai thác tài nguyên cũng
chịu sự ràng buộc quốc tế, thị trường toàn cầu chế ước tính tự chủ về chính sách của
chính phủ, tự do hoá đã làm giảm quy mô can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các

quá trình kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đang ngày càng tăng lên…
Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của nhà nước bị suy giảm. Trên thực tế, nhà nước
vẫn đóng vai trò quan trọng, kể cả ở các nước đang phát triển, cũng như các nước
phát triển.
Cũng phải thừa nhận rằng, toàn cầu hoá đang làm nẩy sinh những vấn đề mới và việc
giải quyết chúng sẽ trở nên vô cùng khó khăn nếu không có sự tham gia của
nhà nước. Chẳng hạn, vấn đề điều tiết dân cư, ngăn chặn buôn bán các chất ma tuý,
tình trạng gia tăng tội phạm… Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đương đại cho
rằng, cần phải có nhiều hơn sự quản lý của nhà nước, chứ không phải là ít hơn so với
trước kia và nhà nước cần phải có sự cải cách, điều chỉnh cho thích ứng với điều kiện
mới.
Như vậy, không chỉ quan điểm mácxít mà ngay cả quan điểm của các nhà quản lý
học, chính trị học phương Tây và thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời
kỳ toàn cầu hoá cũng khẳng định vai trò không thể thiếu được của nhà nước trong
điều kiện hiện nay, nhất là đối với lĩnh vực kinh tế.
Hai là, nhà nước “kết hợp” tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là thực hiện một
đòi hỏi khách quan của sự phát triển, tiến bộ trong thời đại hiện nay.
Sự gắn bó mật thiết, rằng buộc, quy định lẫn nhau giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội”
là biện chứng khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử, nhất là trong thời
kỳ hiện đại. Không có “cái kinh tế” tồn tại thuần tuý, tách rời “cái xã hội”. Theo
quan điểm mácxít, phát triển kinh tế không có mục đích tự thân, mà suy cho cùng là
nhằm mục đích phát triển xã hội, phát triển con người. Vả lại, kinh tế cũng không thể
phát triển, càng không thể phát triển bền vững nếu xem nhẹ hay bỏ qua các vấn đề,
các khía cạnh xã hội. Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề xã hội phải dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế, phải lấy sự phát triển kinh tế làm giá đỡ. Những giải pháp giải


quyết các vấn đề xã hội xuất phát từ mong muốn, khát vọng chủ quan thuần tuý thì
chỉ là những ý định tốt đẹp, không có tính khả thi, hoặc sẽ làm mất động lực phát
triển kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Như vậy, theo biện chứng của sự phát

triển lịch sử, “cái kinh tế” là một thực thể kinh tế - xã hội và “cái xã hội” cũng phải
là thực thể xã hội - kinh tế. Lịch sử phát triển đương đại chứng tỏ tính đúng đắn,
khoa học của quan điểm mácxít đó.
Chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh để cho thị trường chi phối, thao túng,
nhà nước đứng bên ngoài kinh tế và ít chú ý đến các vấn đề xã hội. Điều này đã làm
xuất hiện những xung đột gay gắt trong xã hội, cản trở sự phát triển kinh tế, đẩy nền
kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng và tổng khủng hoảng. Trước những hậu hoạ
đó, các nhà kinh tế học tư sản đã ý thức được vấn đề và dần dần thấy được vai trò
của “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội. Ở đây phải nói tới sự đóng góp của J.M.Keynes. Trong luận thuyết của
mình, Keynes coi sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng là nguyên nhân chính
của sản xuất thừa. Do đó, theo ông, để đạt được sự cân đối giữa cung và cầu nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải có các biện pháp can thiệp trực tiếp của nhà
nước vào đời sống kinh tế - xã hội. Theo luận thuyết này, chủ nghĩa tư bản sau Chiến
tranh thế giới thứ II đã tiến hành xây dựng mô hình “nhà nước phúc lợi”. Với mô
hình đó, ở các nước phương Tây, ngân sách của nhà nước cấp cho các mục tiêu xã
hội (chi cho giáo dục, y tế, đảm bảo xã hội, ưu tiên cho những đối tượng dễ bị tổn
thương…) có xu hướng gia tăng. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động
vì các quyền và lợi ích của mình đã không còn mang tính chất quyết liệt như trước.
Chủ nghĩa tư bản phần nào đã làm dịu được những xung đột xã hội, tạo đà cho sự
tăng trưởng kinh tế.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của “nhà nước phúc lợi” theo kiểu cũ
đó đã bắt đầu đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng mới:
khủng hoảng về cơ cấu và nền kinh tế rơi vào sự suy thoái. Để khắc phục tình trạng
đó, họ lại truyền bá và vận dụng luận thuyết về chủ nghĩa tự do mới, nhấn mạnh sự
tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến các vấn đề xã hội. Sau gần một thập kỷ thực hiện
luận thuyết đó, sự phân cực xã hội trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, xung đột xã hội
ngày càng gay gắt dẫn đến cản trở sự phát triển của kinh tế. Chủ nghĩa tư bản lại rơi



vào vũng lầy mới do không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội. Nhiều nước tư
bản đã thấy được tác hại của luận thuyết này và họ tiếp tục thực hiện mô hình “nhà
nước phúc lợi” nhưng có sự cải biến, hiện đại hoá nó.
Đối với các nước chủ trương phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
con đường xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội càng trở nên cần thiết hơn. Đó là một yêu cầu khách quan, không chỉ để tăng
trưởng kinh tế, mà còn đảm bảo cho mục tiêu chính trị đã lựa chọn.
Thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc của Trung
Quốc là một minh chứng cho sự cần thiết phải “kết hợp” này.
Sau một thời gian dài phát triển đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, từ cuối
thập niên 70, Trung Quốc quyết định thực hiện cải cách quản lý nền kinh tế theo cơ
chế thị trường, mở cửa ra bên ngoài. Trong những năm đầu của công cuộc cải cách,
Trung Quốc thực hiện chính sách tập trung cao cho tăng trưởng kinh tế với quan
điểm cho rằng, chỉ cần tăng trưởng kinh tế là có thể giải quyết được mọi vấn đề. Kết
quả là nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển với tốc độ cao nhất, nhì thế giới. Tuy
nhiên, do tập trung cao độ cho sự tăng trưởng kinh tế, hàng loạt vấn đề xã hội đã
không được quan tâm. Hậu quả là phần lớn người lao động ít được hưởng lợi từ tăng
trưởng kinh tế, hệ thống chăm sóc sức khoẻ và y tế cộng đồng ở vào tình trạng đáng
lo ngại, hầu hết số người nghèo không có khả năng chi trả các dịch vụ y tế; đầu tư
cho giáo dục thấp (2% GDP) làm cho hàng chục triệu trẻ em không thể tiếp tục đi
học vì những khó khăn về kinh tế, nguồn nhân lực bị giảm sút, tình trạng phân hoá
giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư quá lớn đe doạ sự ổn định
và phát triển, nạn thất nghiệp có xu hướng tăng cao. Tình hình xã hội trở nên căng
thẳng, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và đe doạ sự phát triển
kinh tế bền vững.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ý thức được những khiếm khuyết trong chủ trương
của mình và bắt đầu thi hành những giải pháp cần thiết để đảm bảo công bằng xã hội.
Nghị quyết Trung ương 3 khoá XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh
rằng, phải coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự tiến bộ; xuất phát từ
lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân để xây dựng chính sách phát triển kinh tế -

xã hội.


Để đảm bảo cho sự phát triển của đất nước, từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã tích
cực thực hiện những biện pháp nhằm giảm bớt những mâu thuẫn gay gắt giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội: chuyển chính sách ưu tiên cao độ cho tăng
trưởng kinh tế sang ưu tiên cho đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính phủ chuyển trọng tâm từ phát triển
kinh tế, sang giải quyết các vấn đề xã hội như: khắc phục tình trạng nghèo đói, sự tụt
hậu về y tế, giáo dục, nạn thất nghiệp… Ngân sách nhà nước tăng cho các dịch vụ
công cộng, cho hệ thống an sinh xã hội. Chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp,
nông thôn… được triển khai rộng khắp.
Như vậy, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là biện chứng khách quan của
sự phát triển xã hội trong thời kỳ hiện đại; hơn nữa, là sự phát triển xã hội theo
hướng nhân văn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, như thực tế đã chỉ ra, điều đó không được thực hiện một cách tự động, mà
phải có sự tác động chủ động của kiến thức thượng tầng chính trị, trước hết là nhà
nước. Nhà nước là công cụ chủ yếu thực hiện sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo bản chất của minh, là nhà nước
có khả năng tốt nhất thực hiện sự kết hợp đó.
Ở Việt Nam, một trong những nội dung xuyên suốt trong đường lối đổi mới của
Đảng ta là kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội,
“tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển”(2). Việc thực hiện nhiệm vụ đó, như Đảng ta đã chỉ rõ, phải
theo tinh thần xã hội hoá, động viên toàn dân, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và
cộng đồng quốc tế cùng tham gia, trong đó nhà nước đóng vai trò nòng cốt.
Để không rơi vào ảo tưởng, chủ quan duy ý chí khi giải quyết các vấn đề xã hội như
trước đây, các chủ trương, chính sách, biện pháp… của nhà nước phải đáp ứng hai
yêu cầu chủ yếu sau:
1. Phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về công

bằng xã hội.
Công bằng xã hội là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ từ bao đời
nay. Trong thực tế lịch sử nhân loại, công bằng xã hội biểu hiện như một xu hướng,
một quá trình lịch sử phát triển tiến bộ. Công bằng xã hội là một phạm trù mang tính


lịch sử, nó không chỉ phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, mà còn dựa trên
những tiền đề hiện thực, như thực lực kinh tế, mức độ phát triển kinh tế… mà xã hội
đã đạt được. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái niệm không hoàn toàn
đồng nhất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự công bằng xã hội mà con người đạt được
trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định là những nấc thang để tiến dần tới bình đẳng xã
hội. Bình đẳng xã hội hoàn toàn chỉ đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản – xã hội có đủ
điều kiện để thực hiện nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu”. Do vậy, công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay không phải là được
hiểu theo nghĩa bình đẳng lý tưởng, bình đẳng xã hội một cách hoàn toàn, cũng
không phải theo nghĩa giản đơn, ấu trĩ như trước đây là cào bằng, bình quân, làm cho
mọi người trở nên ngang bằng nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Công bằng xã hội trong bất kỳ thời đại nào cũng đều là động lực thúc đẩy xã hội phát
triển tiến bộ, bao giờ cũng là mục tiêu đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ, nhưng
nó chỉ thực thi và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khi phù hợp
với điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại, của đất nước.
Hiện nay, nước ta đang ở trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Quan
niệm về công bằng xã hội, cũng như những chủ trương, chính sách, biện pháp… của
nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải phù
hợp với cơ sở kinh tế và định hướng chính trị đó. Mặc dù không phải là duy nhất,
song cần phải thấy rằng, công bằng trong phân phối là cốt lõi của công bằng xã hội.
Nhấn mạnh nội dung này, Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: chúng ta cần
“thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời

phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh
và thông qua phúc lợi xã hội”(3) nhằm “tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội”(4).
Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng, phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay
và do đó, mọi chính sách, biện pháp thực hiện đều phải dựa trên nguyên tắc đó mới
có tính khả thi, đảm bảo đúng định hướng và kích thích được sự phát triển kinh tế,
tiến bộ xã hội.


2. Giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải hướng vào sự phát
triển kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế.
Kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không có
“cơ chế tự điều tiết” và giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, nó còn làm nẩy sinh
những vấn đề xã hội bức xúc, mà nếu thiếu sự can thiệp tích cực của nhà nước thì
không thể giải quyết được. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước chỉ là tích cực, có
hiệu quả khi dựa trên thực lực của nền kinh tế và tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh
tế.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian vừa qua,
ngoài mặt tích cực, đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đòi hỏi nhà nước phải can
thiệp, giải quyết. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới hai vấn đề xã hội nổi bật liên quan
trực tiếp tới sự phát triển kinh tế.
Trước hết, đó là vấn đề phân hoá giàu nghèo. Trong điều kiện nước ta hiện nay, sự
phân hoá giàu nghèo do phát triển kinh tế thị trường là điều không tránh khỏi. Song,
tình trạng phân hóa giàu nghèo ở mức độ nào đó cũng biểu hiện sự công bằng xã hội
đang được thiết lập lại. Chính vì vậy, một mặt, nhà nước phải chấp nhận sự phân hoá
giàu nghèo, phải bảo vệ và khuyến khích nhân dân làm giàu một cách hợp pháp; mặt
khác, phải tiến hành một loạt các chủ trương, chính sách, biện pháp để xoá đói giảm
nghèo và kiềm chế sự phân hoá giàu nghèo không để gia tăng đến mức quá đáng, đến
mức phân cực. Tuy nhiên, các chính sách xoá đói giảm nghèo không nên hiểu như là
những chính sách nhân đạo thuần tuý nhằm mục đích cứu trợ cho người nghèo, mà

phải tạo động lực cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, phải làm trong sạch bộ máy
nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cải cách nền hành chính
quốc gia, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý và điều tiết của nhà nước đối với sự
phát triển kinh tế và xã hội.
Hai là, vấn đề cơ hội tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.Kinh nghiệm ở
nhiều nước cho thấy, nếu phần lớn người dân không có cơ hội tham gia và do đó,
không được hưởng lợi (sinh lợi bằng lao động của mình chứ không phải chỉ thuần
tuý bằng sự phân phối lại, phúc lợi xã hội) từ quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ làm
nẩy sinh những bức xúc, căng thẳng gây mất ổn định xã hội; đồng thời, ảnh hưởng
đến chất lượng nguồn lực con người, cản trở sự phát triển theo hướng bền vững của


nền kinh tế.
Kinh tế thị trường tự nó không thể giải quyết được vấn đề này, mà cần phải có “bàn
tay hữu hình” của nhà nước. Nhiều nước phát triển theo mô hình “nhà nước phúc
lợi” coi mục tiêu cuối cùng của nhà nước là sự bình đẳng về các khả năng, chứ
không phải là sự bình đẳng về kết quả. Trong những năm gần đây, ở nước ta cũng
xuất hiện một số ý kiến kiến giải vấn đề công bằng xã hội theo hướng công bằng về
cơ hội. Nên nhớ rằng, giao những quyền ngang nhau cho những người thực ra là
không ngang nhau chỉ là bình đẳng hình thức, còn thực tế là bất bình đẳng. Điều đó
lý giải tại sao quan điểm mácxít lại coi vấn đề phân phối như nội dung cốt lõi trong
công bằng xã hội.
Để tạo cơ hội cho phần lớn nhân dân tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế,
nhà nước phải thực hiện công bằng xã hội ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản
xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Công bằng trong phân phối tư liệu sản
xuất không phải là cào bằng, bình quân, mà phải lấy hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội làm căn cứ. Hiệu quả xã hội không chỉ được hiểu theo nghĩa mang tính chất “xã
hội thuần tuý”, mà bao chứa trong nó hiệu quả kinh tế. Nhà nước cần tạo cơ hội cho
mọi người, mọi vùng, miền có thể tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.
Chẳng hạn, cần đầu tư mạnh cho giáo dục, y tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là

ở những vùng, miền có nhiều khó khăn, ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách
quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Kết hợp một cách hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo nên động lực quan trọng thúc
đẩy sự phát triển của đất nước. Sự “kết hợp” này được thực hiện bởi nhân tố chủ
quan, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ yếu. Trọng trách ấy đã, đang đặt ra cho
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 33.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr 88.


(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 88.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.104.


VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


NGUYỄN MINH PHƯƠNG (*)
Xã hội dân sự là một vấn đề mới, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý
luận. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích vai trò quan trọng của xã hội dân sự.
Chức năng của xã hội dân sự, như tác giả khẳng định, bao gồm: thứ nhất, là cầu nối
các cá nhân với nhà nước; thứ hai, tham gia hoạch định và phối hợp với nhà nước
thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; thứ ba, tổ chức phản biện xã
hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức
nhà nước; thứ tư, góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát triển

kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Đồng thời, tác giả
cũng đề xuất và luận giải một số phương hướng, biện pháp cơ bản để thúc đẩy sự
phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay.

1- Nhận thức về vai trò của xã hội dân sự hiện nay
Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận quan
tâm, chú ý. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, xã hội dân sự là một
trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là “một đỉnh của tam giác” phát triển xã hội.
Theo đó, kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, nhà nước pháp
quyền là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển và xã hội dân sự đảm bảo cho
sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội.
Nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của xã hội dân sự hiện vẫn được hiểu theo
nhiều cách khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi nhất của nó chính là hệ thống các tổ
chức xã hội của công dân được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị
hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với
nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân


bằng và phát triển bền vững của xã hội. Xã hội dân sự là một khu vực “phi nhà
nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ
chức phi chính phủ,… thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề
nghiệp, từ thiện, nhân đạo… nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài
chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với
mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể.
Trong lịch sử, các hình thức liên hiệp đã xuất hiện từ xa xưa, thậm chí còn có trước khi
xuất hiện nhà nước. Nhưng phải đến thời đại tư bản chủ nghĩa, khi mối quan hệ giữa
các cộng đồng đó được xác lập trên cơ sở chính trị - pháp lý nhất định, lúc đó xã hội
dân sự mới thực sự ra đời.
Ngày nay, kinh tế thị trường đã tỏ rõ ưu thế và trở thành khuynh hướng chủ đạo
trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Mặc dầu vậy, nền kinh tế thị trường

không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội.
Do bản chất của nó, kinh tế thị trường có những nhược điểm và giới hạn nhất định,
nhất là trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sống. Vì vậy, để
khắc phục những hạn chế đó, cần phải có sự tham gia phối hợp của nhà nước pháp
quyền và xã hội dân sự.
Nhà nước pháp quyền trong xu thế phát triển ngày càng có tính phổ biến của nền
chính trị hiện đại đã thể hiện những ưu thế, tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực
thi quyền lực nhà nước, dân chủ hóa xã hội. Nhưng, nhà nước cũng không phải là
chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội. Bản thân nhà
nước pháp quyền cũng gặp phải những giới hạn và thách thức nhất định, như nguồn
lực cần thiết để tổ chức và vận hành khá lớn, phải có những điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội nhất định và việc xây dựng nhà nước đó là một quá trình lâu dài, khó
khăn và phức tạp. Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn có giới hạn của pháp luật
và sự phong phú, sinh động, đa dạng của nhu cầu mọi mặt của cá nhân cũng như của
xã hội bắt đầu xuất hiện. Pháp luật là tối thượng, nhưng trong không ít trường hợp,
khi đã nắm được quyền lực công, các tổ chức và cá nhân được trao quyền trở nên
quan liêu, tha hóa, tự đặt mình lên trên xã hội. Thậm chí, những người cai trị "bảo
đảm quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở
thành đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm"(1). Trong tình huống này,


tính tối thượng của pháp luật có thể lại là mối nguy hiểm cho xã hội.
Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các cơ
quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có
tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước
được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có. Việc xuất
hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và
tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công
cộng, cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn
trả bằng tiền của riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng

sự, vừa là những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công.
Hơn nữa, trong điều kiện ngày nay, do nhu cầu cá nhân tăng lên, sự liên kết giữa các
cá nhân và cộng đồng trở nên đa dạng hơn, phạm vi hoạt động của xã hội ngày càng
phát triển phong phú và mở rộng. Nhà nước không thể và không nên trực tiếp đáp
ứng tất cả nhu cầu đó, mà cần phải chuyển giao dần một phần công việc này cho các
tổ chức thuộc khu vực xã hội dân sự. Trên thực tế, nhiều việc giao cho các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp quản lý lại có hiệu quả hơn vì tính chất linh hoạt, năng động, sát thực
tế công việc và đảm bảo tính khách quan hơn, ví dụ như chức năng tư vấn, phản biện,
giám định xã hội đối với các lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp…
Những giới hạn của nhà nước nêu trên chỉ có thể được khắc phục một cách hiệu quả
khi xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tức là phát huy vai trò của xã hội dân sự,
huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và cộng đồng vào công việc xã hội, mà
tựa hồ như đã trao cho nhà nước và được coi là chức năng cơ bản, cơ sở của sự thống
trị chính trị của nhà nước.
Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng
nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa
các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham gia hoạch định các chủ
trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà nước trong hoạch định, thực hiện
và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp lý; thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách cũng
như việc thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát
và giám sát phẩm chất, hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan


liêu, tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nhà nước; thứ tư, phát huy các
nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động
cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá
đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người và
của toàn xã hội.
Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc xem

nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng về vai trò, chức
năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của xã hội.
Mục tiêu của xã hội dân sự hiện đại là phát triển và hoàn thiện con người, coi đó là điều
kiện để phát triển cộng đồng, xã hội và nhân loại. Sự phát triển của xã hội dân sự hướng
tới những giá trị tiến bộ chung của nhân loại; đồng thời, phụ thuộc vào tính giai đoạn,
đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước cũng như hình thức, kiểu nhà nước và hệ thống
chính trị của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, xã hội dân sự là một khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không
cao và thiếu tính nhất quán. Mặt khác, bản thân xã hội dân sự cũng có những giới
hạn và gặp phải một số thách thức nhất định, đó là khi các hiệp hội, hội, tổ chức cộng
đồng chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ của mình mà không quan tâm đến lợi ích toàn xã
hội. Khi đó, tính tự chủ, tự nguyện và tự quản của xã hội dân sự sẽ có nguy cơ tạo ra
các “lệ” riêng, cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, hạn chế sự
phát triển chung của xã hội. Vì vậy, các thể chế của xã hội dân sự cần phải được
quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường dân
chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hoà của toàn xã hội. Nói cách khác, điều kiện để
hình thành một xã hội dân sự lành mạnh là phải có một nhà nước pháp quyền vững
mạnh, có hiệu lực và hiệu quả để xây dựng khung pháp luật, tạo môi trường thuận lợi,
bảo vệ và trợ giúp cho xã hội dân sự, phục vụ xã hội dân sự.
2- Vai trò của xã hội dân sự và phương hướng thúc đẩy sự phát triển của xã hội
dân sự ở Việt Nam
Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước
chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều
kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc


sống. Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã
hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá
nhân có điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn

thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân
và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển
của đất nước.
Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa
dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực
hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân
thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ.
Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần
chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị
quyết số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới,
cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân
dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội
quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài
chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện -
nhân đạo…”(2).
Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn với
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được
thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình
rất đa dạng, phong phú. Tính đến tháng 6 – 2005, đã có 320 hội hoạt động trên phạm
vi toàn quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi
hoạt động tại các quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Đồng thời,
hiện có khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam,
trong đó có gần 350 tổ chức có chương trình, dự án đối tác với Việt Nam. Nhiều tổ
chức đang đề nghị Chính phủ Việt Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng
dự án…



Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật, có
tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính truyền
thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay còn
gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu lạc
bộ.
Tuỳ tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức, bên cạnh việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, thành viên, các tổ chức này đã có
nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều phương diện:
- Các tổ chức có tính chất chính trị - xã hội đã tập hợp, giáo dục và phản ánh yêu cầu,
nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân,
thực sự là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước; tham gia có hiệu quả vào việc xây
dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy và thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, giám sát đối với các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán
bộ, công chức; tư vấn và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của
Nhà nước.
Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và đóng vai trò
hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan liêu, lạm quyền… Vì
vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích hợp để vừa đảm bảo sự lãnh
đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói trên, tức là thực hiện sự giám sát và
phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị –
xã hội không chỉ có chức năng tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám
sát, phản biện xã hội nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh
được những sai lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây
nên.
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối hợp sức
mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định, phản biện xã hội đối với các
chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm;
tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải

quyết các tranh chấp thương mại. Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và


cá da trơn, bán tôm vào thị trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ
sản Việt Nam (VASEP) là ví dụ điển hình. Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu
đảm nhiệm tương đối có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội,
góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước.
- Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực để phát triển
kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia vào nhiệm vụ xây
dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động, tính tích cực xã hội của mỗi
công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội do
chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường gây nên.
- Mặt khác, các tổ chức đó còn góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng
cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết
các vấn đề có tính chất toàn cầu, như bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo,
giảm nhẹ hậu quả do thiên tai…
Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng như
người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của khu vực xã hội
dân sự trong đời sống xã hội; có biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các đoàn thể
nhân dân, các hội; chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ
chức, hoạt động và quản lý hội cho phù hợp với tình hình mới. Mặt khác, bản thân
các đoàn thể nhân dân, các hội chưa phát huy đầy đủ chức năng đại diện cho lợi ích
của quần chúng nhân dân và hội viên của mình. Một số tổ chức đoàn thể nhân dân,
hội còn mang tính hình thức, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện
vọng và lợi ích của đoàn viên, hội viên, hoặc có biểu hiện trông chờ vào sự tài trợ
của nhà nước; “hành chính hoá” về mặt tổ chức và hoạt động. Do đó, khả năng thu
hút quần chúng của các tổ chức này còn hạn chế; việc tham gia cung cấp dịch vụ
công chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích, thậm chí có trường hợp
chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần.

Để có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở nước ta hiện nay, trước hết cần nhận
thức đúng về vai trò, vị trí của của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


Bối cảnh và xu thế phát triển mới của đất nước đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện ngày
càng tốt hơn vai trò, chức năng chủ yếu của mình là định hướng và tạo lập môi
trường, điều kiện thuận lợi cho người dân được phát huy mọi khả năng và nguồn lực
để phát triển sản xuất, làm giàu cho bản thân và đất nước; đồng thời, ngăn chặn, hạn
chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Điều đó đặt ra đòi hỏi cấp bách là phải mở rộng và đa đạng hóa các hình thức tập
hợp nhân dân, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư, các hội
trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham
gia các hoạt động quản lý sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thành viên, hội viên. Mục tiêu cơ bản của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư,
các hội là đáp ứng nhu cầu chính đáng và hợp pháp của thành viên, hội viên; đồng
thời, phải lấy hiệu quả xã hội và nâng cao dân trí làm thước đo sự phát triển và đóng
góp của mình cho đất nước.
- Nâng cao vai trò của các hội, tổ chức phi chính phủ trên các mặt: tham gia quản lý
nhà nước, tư vấn, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; tư vấn,
phản biện đối với các lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp; khai thác các nguồn lực
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; phục vụ lợi ích của các thành viên, hội viên; cung
ứng một số dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, vệ sinh môi
trường…; góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai; mở
rộng các hoạt động đối ngoại nhân dân.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của
khu vực xã hội dân sự. Trước hết là khẩn trương ban hành Luật Hội và các văn bản

hướng dẫn việc thi hành Luật để tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, có hiệu
lực cao về quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ; đồng thời, tạo
thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đó.
- Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, xác định rõ những loại việc Nhà nước cần phải
làm và chuyển giao cho khu vực xã hội dân sự những loại việc mà Nhà nước không
nhất thiết phải đảm nhiệm. Đồng thời, hỗ trợ các nguồn lực và tạo điều kiện cho các
đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp các


dịch vụ công cần thiết cho xã hội.
- Thực hiện nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính của các
hội, tổ chức phi chính phủ trong khuôn khổ pháp luật. Tạo môi trường và khung pháp
lý phù hợp để thúc đẩy các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, các hội đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng “nhà nước hoá”, “hành chính
hoá”, hoạt động không đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức và xa rời đoàn viên, hội
viên; đảm bảo chế độ công khai, minh bạch các hoạt động và chi tiêu tài chính của
các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ. /.
(*) Tiến sĩ triết học, Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.254.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.130 – 131.



LIÊN H
Ệ MẬT THIẾT VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CỘI NGUỒN SỨC
MẠNH CỦA ĐẢNG TA

ĐOÀN VĂN KHÁI (*)

Quan tâm xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng Cộng sản với nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Để nâng cao sức
mạnh và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng
Cộng sản Việt Nam cần: luôn chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng
thời, tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là cơ sở tạo nên sức mạnh
để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức; lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin - lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới -
khẳng định rằng, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng Đảng


Cộng sản cũng "chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp vô sản và giai cấp vô sản lại
cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân"(1); nó chỉ làm tròn sứ
mệnh lịch sử của mình khi biết gắn bó chặt chẽ với quần chúng và dẫn dắt toàn thể
quần chúng tiến lên. Nói về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một mệnh đề chứa đựng tư tưởng lớn và rất
sâu sắc: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Thật vậy, nếu không có sự đồng tình ủng hộ, chung sức, chung lòng của quần chúng
nhân dân thì Đảng Cộng sản không thể có được sức mạnh, cách mạng vô sản không
thể thành công và nếu không có sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng Cộng sản thì quần
chúng nhân dân cũng không có được đường hướng chính trị đúng đắn để chỉ đạo, dẫn
dắt cuộc đấu tranh cách mạng của mình. Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Đảng
Cộng sản và các cuộc cách mạng vô sản là nhờ đã thắt chặt được mối liên hệ giữa
Đảng và quần chúng. Nói tóm lại, sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với quần
chúng nhân dân lao động là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng
sản, là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là nhân tố bảo đảm cho sự thành công

của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, không ngừng củng cố mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng cầm quyền và quần chúng nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
tính tất yếu khách quan cũng như sự cần thiết phải tăng cường, mở rộng mối liên hệ
giữa Đảng và quần chúng, đặc biệt là sự cần thiết phải lôi cuốn đông đảo quần chúng
nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng,
đối với một Đảng Cộng sản đang lãnh đạo đất nước thực hiện bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, "một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên
hệ với quần chúng" và "đó là một tai hoạ thực sự".
Đáng tiếc là, vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tai
hoạ mà V.I.Lênin từng cảnh báo đã xảy ra với Đảng Cộng sản Liên Xô - một Đảng
lớn với 20 triệu đảng viên. Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, lý giải, Đảng
Cộng sản Liên Xô lúc đó, trên thực tế, đã dường như chia thành hai Đảng: một Đảng
thuộc "đẳng cấp thượng lưu" của tầng lớp quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi
"ăn trên, ngồi trốc", bị nhân dân oán ghét; một Đảng của những đảng viên thường đã


trở thành một khối thờ ơ, thụ động, mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào
Đảng Cộng sản. Vì mất niềm tin, đông đảo đảng viên thường và quần chúng nhân dân
Liên Xô đã thờ ơ với Đảng, không đứng lên bảo vệ Đảng khi Đảng lâm nguy, khi
Đảng bị giải tán, bị cấm hoạt động. Bài học thất bại vì mất dân, mất chỗ dựa vững
chắc của Đảng Cộng sản Liên Xô thật quá đắt giá, rất đáng để cho tất cả các Đảng
Cộng sản đã mất quyền lãnh đạo, chưa cầm quyền hoặc đang cầm quyền trên thế giới
phải suy ngẫm để tự rút ra bài học cho chính mình.
Nhìn lại quá trình Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cuộc trường chinh
giành lại độc lập tự do cho đất nước, cho dân tộc, chúng ta thấy Đảng đã luôn gắn bó
máu thịt với nhân dân, tạo thành một khối thống nhất không gì lay chuyển được và
đó chính là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng ta. Tuy nhiên, trong thời kỳ hoà
bình, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cụ thể là "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", bên cạnh những thành tựu

không thể phủ nhận, ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, Đảng cũng đã phạm những
sai lầm, khuyết điểm không nhỏ trong quan hệ với dân. Đại hội Đảng lần thứ IX đã
nhận đinh: "Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu
dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân
dân"(2). "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo
dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy
cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ
biến"(3). Thực trạng này đang làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào
Đảng và mối dây liên hệ giữa Đảng với dân cũng không khỏi bị ảnh hưởng xấu.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào và bằng cách nào để duy trì, tăng cường, củng cố mối
liên hệ gắn kết giữa đảng cầm quyền với quần chúng nhân dân cho thật bền vững?
Thực ra, Đảng và dân là hai chủ thể trong một mối quan hệ, nên muốn quan hệ bền
chặt thì cả hai chủ thể đều phải hết sức cố gắng, tự giác xây đắp mối quan hệ đó.
Nhưng, với tư cách là đội tiên phong, là đảng cầm quyền, trách nhiệm xây dựng mối
liên hệ bền vững giữa Đảng với quần chúng nhân dân trước hết thuộc về Đảng.
Trong những năm qua, Đảng ta cũng đã và đang tích cực thực hiện nhiệm vụ then
chốt được đề ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VII) là xây


dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là đội tiên phong, là người
lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Kết quả mà Đảng đạt được là khả quan, nhưng còn chưa đáp ứng được kỳ
vọng của nhân dân. Vì vậy, để duy trì, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng
với nhân dân, Đảng phải chú trọng làm thật tốt những việc chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Đảng cần chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống tinh thần và vật chất của
quần chúng nhân dân; nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa quan trọng của vấn đề này.
Trong hoàn cảnh hoà bình, việc chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động là
một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng cầm quyền, là vấn đề quyết định sự
tín nhiệm và sự gắn bó của quần chúng đối với Đảng. Một khi đời sống được cải

thiện về chất, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân lao động được tôn trọng,
được bảo vệ, người lao động sẽ gắn bó mật thiết với Đảng và Nhà nước, với chế độ,
sẽ cố gắng lao động, sản xuất, công tác tốt hơn. Đáng tiếc là, những năm gần đây, do
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, tình trạng phân hoá
giàu - nghèo gia tăng nhanh chóng; trong khi một bộ phận không nhỏ dân cư nước ta
chưa được bảo đảm những nhu cầu thiết yếu và tối thiểu (nước sạch, lương thực, nhà
ở, ) thì số lượng những cán bộ có chức quyền, có tài sản nhiều tỷ đồng và cuộc sống
vương giả lại ngày càng nhiều lên; số lượng các vụ tham nhũng, làm thất thoát tài
sản công trị giá hàng chục, hàng trăm tỷ đồng cũng nhiều thêm nhưng lại chưa có
biện pháp ngăn chặn, trừng trị có hiệu quả. Điều đó làm cho quần chúng nhân dân
cảm thấy thật sự xót xa và đau lòng. Vì vậy, một mặt, Đảng phải có những biện pháp
cụ thể, thiết thực và tích cực để cải thiện đời sống cho nhân dân, từ việc tạo việc làm
cho người lao động đến việc chăm lo bảo vệ, nâng cao sức khoẻ, bảo đảm giáo dục,
thực hiện an sinh xã hội, an toàn, công bằng xã hội, Mặt khác, phải trừng trị
nghiêm khắc những kẻ tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân
dân, bất kể chúng là ai, giữ chức vụ gì. Nếu Đảng làm được như vậy thì quần chúng
sẽ tin tưởng, gắn bó, ủng hộ Đảng nhiều hơn và do đó, sức mạnh của Đảng sẽ được
nhân lên nhiều lần.
Thứ hai, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là một
chủ trương mang tầm chiến lược của Đảng. Có thể hình dung xã hội như một cơ thể
sống; trong đó, mỗi cá nhân vừa là thành viên, là bộ phận cấu thành, lại vừa là chủ


thể hành động. Những chủ thể này hoạt động có hiệu quả nhiều hay ít phụ thuộc vào
các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó có hệ thống các cơ chế, chính sách,
biện pháp, phát huy quyền làm chủ, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của mỗi
thành viên. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra là, không để quyền làm chủ của nhân dân
trở thành lời nói suông, khẩu hiệu suông, mà phải tạo điều kiện thực tế, có cơ chế cụ
thể cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ ba (khoá VIII) chỉ rõ: "Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều

hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm
trong sạch, vững mạnh và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở
rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng
và quản lý Nhà nước"(4). Cụ thể hoá tinh thần đó, Bộ Chính trị (khoá VIII) đã chỉ ra
Chỉ thị số 30-CT/TW "Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (18 – 2 –
1998). Qua tám năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý Nhà nước đã được tôn trọng và phát huy, mang lại nhiều
thành tựu quan trọng về nhiều mặt. Chính vì vậy, Chỉ thị trên được đánh giá là "khâu
đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới"(5).
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, quyền làm chủ của nhân dân trong xây
dựng và quản lý đất nước còn chưa được thật sự tôn trọng ở một số cấp, ngành và địa
phương. Chẳng hạn, chủ trương "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã thực
sự trở thành khẩu hiệu hành động chưa? Đã mấy ai biết được thu nhập, tổng giá trị
tài sản của các cán bộ trung, cao cấp của Đảng và gia đình họ, những người cư trú
trên địa bàn mình? "Việc công khai về tài chính, hợp đồng kinh tế, chương trình dự
án, đấu thầu, mua bán vật tư có giá trị cao vẫn còn hình thức, thiếu công khai, minh
bạch. Quy định về lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành các chủ trương, chính
sách, các dự án đầu tư quan trọng ở cơ sở chưa được thực hiện nghiêm túc Việc tổ
chức cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và góp ý cho cán
bộ, đảng viên ở không ít nơi tiến hành một cách hình thức Đội ngũ cán bộ chủ chốt
chưa thực hiện đều đặn việc đối thoại trực tiếp, tự kiểm điểm trước dân và nghe dân góp
ý phê bình xây dựng. Chế độ tự phê bình chưa được thực hiện rộng rãi"(6). Điều đó có
nghĩa là chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, phải chấn chỉnh để Đảng gần dân hơn, dân


gắn bó với Đảng hơn.
Thứ ba, điều quan trọng nhất là vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Là
Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta luôn ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình trước
đất nước, dân tộc và nhân dân. Để làm tròn trách nhiệm, Đảng phải thường xuyên tự

đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt.
Ngay từ Đại hội VI (12 - 1986), Đảng đã đề chủ trương phải đổi mới tư duy, đổi mới
tổ chức, đổi mới cán bộ và đổi mới phong cách công tác. Đến Đại hội VII (6 - 1991),
Đảng tiếp tục đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ ba (khoá VII) họp vào tháng 6 năm 1992 đã cụ thể hoá chủ
trương trên và nhấn mạnh: lúc này, xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt. Từ đó đến nay, Đảng ta đã rất chú trọng thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực tế cho thấy, quần chúng nhân dân nhìn nhận về
Đảng, đánh giá về Đảng trước hết và phần nhiều là thông qua phẩm chất, đạo đức, tư
cách, lối sống của cán bộ, đảng viên, chứ chưa phải là năng lực công tác hay sự tài
giỏi của họ. Có thể nói, phẩm chất đạo đức, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên là
vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, đến danh dự của Đảng và tác động trực
tiếp đến mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn nhấn
mạnh rằng, việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu
tranh kiên quyết chống tệ quan liêu, cửa quyền, nạn tham nhũng, hối lộ là một trong
những nhiệm vụ cấp bách và chủ yếu của công tác xây dựng Đảng.
Trong nhiều năm qua, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, cuộc đấu
tranh chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng và ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí
nói riêng đã tạo được một số chuyển biến tích cực. Nhiều vụ án lớn liên quan đến sự
thoái hoá, biến chất, đến tham nhũng của một số cán bộ Đảng cao cấp đã được đưa ra
xét xử công khai. Tuy nhiên, nếu như Đại hội IX đánh giá rằng, trong công tác xây
dựng Đảng, chúng ta "chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị và đạo đức, lối sống", "tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm
trọng"(7), thì đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá IX) - Hội
nghị kiểm điểm nửa nhiệmkỳ đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX - họp vào tháng 01
năm 2004 vẫn phải đánh giá rằng, "tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan

×