Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

TIỂU LUẬN: QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.11 KB, 103 trang )







TIỂU LUẬN:
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY NHỮNG QUAN
ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG


















Bài viết tập trung phân tích và luận chứng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta


hiện nay. Cụ thể là: 1/ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội; 2/ Để công bằng xã hội trở thành động lực phát
triển, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ; 3/ Thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh
vực, ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; 4/ Bảo đảm sự thống nhất
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm phát triển con người, phát huy
nhân tố con người; 5/ Phát huy vai trò của nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá các
hoạt động xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế học, phản ánh sự gia tăng về mặt lượng
của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ số khác nhau, như tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập bình quân đầu người
trên năm (GNP/người/năm, GDP/người/năm). Tốc độ tăng trưởng kinh tế là mức (%)
được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP, GNP/người hay GDP/người của năm này
so với năm trước hay giai đoạn này so với giai đoạn trước. Với nghĩa như vậy, tăng
trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế trước yêu cầu
tồn tại và phát triển.

Công bằng xã hội là khái niệm có nội dung phức tạp hơn so với khái niệm tăng
trưởng kinh tế. Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự ngang bằng nhau
trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa
vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó
với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua
sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã hội và được
xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là
bất công. Với cách hiểu công bằng xã hội như vậy, việc định lượng mức độ thực hiện
công bằng xã hội chỉ mang tính tương đối, nó không những phản ánh trình độ phát
triển về kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa của từng nước, mà còn thể hiện quan điểm,
cách nhìn của các nhóm chủ thể.
Ngày nay, trên thế giới, người ta nhìn nhận và đánh giá mức độ thực hiện công bằng
xã hội trước hết qua các chỉ số thu nhập. Ngoài ra, các chỉ số thể hiện mức độ thỏa

mãn những nhu cầu cơ bản của con người, như mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức
khỏe, mức sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm bảo sự phát triển của cá nhân cũng
là những yếu tố quan trọng. Gần đây, Liên hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển con
người (HDI) và được sử dụng khá phổ biến để đánh giá sự phát triển của một đất
nước. Chỉ số này được tính toán theo 3 tiêu chí có tính bao quát, thể hiện được những
yếu tố quan trọng nhất trong phát triển con người, đó là tuổi thọ, trí tuệ và mức sống.
Những chỉ số đó cho thấy, công bằng xã hội không chỉ phản ánh các quan hệ chính
trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản ánh cả xu hướng
ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội. Đây là vấn đề cần
được tính đến trên con đường phát triển của các quốc gia.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những cái đích cần hướng tới
của các quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, việc nhìn nhận mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở những quốc gia khác nhau là không giống nhau; vì
vậy, cách giải quyết vấn đề cũng đi theo những xu hướng khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định sự sống còn của một
đất nước; vì vậy, cần tập trung cho tăng trưởng kinh tế. Với quan niệm như vậy,
nhiều quốc gia đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, song lại phải đối mặt với
nhiều vấn đề xã hội. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự phát triển của Trung Quốc trong

những năm vừa qua đã đi theo mô hình này. Nhờ quyết tâm đổi mới và chính sách ưu
tiên tập trung phát triển kinh tế, trong hơn hai mươi năm cải cách, mở cửa, kinh tế
Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng cao, xếp vào hàng các nước có mức tăng trưởng
đứng đầu thế giới. Song, rất nhiều vấn đề vốn được coi là hậu quả xã hội do tập trung
quá mức cho tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đang được đặt ra, như ưu tiên quá
mức cho tăng trưởng GDP, xem nhẹ sự phù hợp giữa phát triển kinh tế và phát triển
xã hội, phần lớn nhân dân ít được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế; sự chênh lệch
về thu nhập và mức sống giữa các nhóm xã hội, giữa các vùng, miền ngày càng tăng;
môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức Nhận định về tình hình này, ông Chi Fu lin - Chủ tịch Viện Nghiên cứu và
phát triển Trung Quốc cho rằng, thách thức lớn nhất mà Trung Quốc phải đối mặt

hiện nay là sự mất cân đối ngày càng tăng trong phát triển kinh tế và phát triển xã
hội, là nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn và khủng hoảng xã hội đang cản trở sự phát triển
của Trung Quốc(1). Hiện nay, Trung Quốc đang cố gắng đổi mới phương thức phát
triển kinh tế theo chiều hướng kết hợp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội.
Từ thực tế phát triển ở nhiều nước, chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
đã đưa ra lời cảnh báo về 5 kiểu tăng trưởng kinh tế cần phải tránh. Đó là:
1. Tăng trưởng không việc làm – kiểu tăng trưởng kinh tế nhưng không mở rộng
những cơ hội tạo thêm việc làm, hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp.
2. Tăng trưởng không lương tâm – kiểu tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu
đem lại lợi ích cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người
nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng.
3. Tăng trưởng không có tiếng nói – kiểu tăng trưởng kinh tế không kèm theo sự mở
rộng nền dân chủ hay là việc tạo thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt
những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế.
4. Tăng trưởng không gốc rễ – kiểu tăng trưởng khiến cho nền văn hóa của con
người trở nên khô héo.
5. Tăng trưởng không tương lai – kiểu tăng trưởng mà thế hệ hiện nay đã phung phí
những nguồn lực mà các thế hệ tương lai cần đến(2).
Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, công bằng xã hội là ước mơ của con người ở

mọi thời đại; vì vậy, cần đạt tới một xã hội công bằng càng nhanh càng tốt. Do nôn
nóng muốn có ngay một xã hội không còn áp bức, bất công, mọi người được sống tự
do và bình đẳng, một số nước đã bất chấp quy luật phát triển kinh tế - xã hội, không
căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể và nhanh chóng tiến hành công hữu hóa toàn bộ
tư liệu sản xuất, thực hiện phân phối bình quân, cào bằng. Quan niệm về công bằng
xã hội một cách cực đoan như vậy đã tạo thành lực cản đối với tăng trưởng kinh tế,
làm cho nền kinh tế của các nước theo mô hình này rơi vào khủng hoảng. Thực tế
này đã buộc các nước đó phải thay đổi cách nhìn trước đây của mình về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội theo chiều hướng khác.

Ở nước ta, trong những năm đổi mới, đường lối của Đảng cũng như chính sách của
Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Điều này được phản ánh một
cách nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng và trong chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới. Một số văn kiện lớn của Đảng,
như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6-1993) về phát triển nông nghiệp,
xây dựng nông thôn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa khẳng định lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; động viên toàn dân cần, kiệm để
xây dựng đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân;
phát huy văn hóa, giáo dục; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi
trường…
Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này.Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư
liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình"(3). Đến Hội nghị
Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế phải đi đôi với
thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa
nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội.
Đường lối đúng đắn đó tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại

hội lần thứ IX: "… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường"(4).
Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước
quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã

hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải
quyết những vấn đề xã hội bức xúc"(5). Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 - 2010 là: "Phải
gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng"(6).
Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một
số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ
không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội.
Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng
không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã
hội mà con người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể
lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không
đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng
xã hội ở nước ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội

dung thực chất và tạo động lực phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức
phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà
nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo
ở nước ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội
trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động

giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo
kiểu "dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình".
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống
hiến với hưởng thụ.
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống
hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những người
khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã
hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ
của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ đối với xã hội. Công
bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân phối bình quân chủ nghĩa
mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi
mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm khuyến
khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự
phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như
những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, cũng cần và phải
tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều
người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp
một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó
phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và bảo
đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài

nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội tìm
kiếm thị trường và việc làm
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả

nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh vực. Về
kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu
theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững, khắc
phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Về
mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các đối
tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển khai các
dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài
công lập Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ
xã hội, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới
cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng Trên từng lĩnh
vực, các địa phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước đi, mục tiêu và
các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố
con người.
Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới. Xây
dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại, trong số các
nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất. Trong thời đại ngày
nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo
điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng lực và hưởng thụ xứng đáng
những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh việc
thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong suốt quá trình phát triển và
trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người
là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội
một cách có hiệu quả, thiết thực.
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội

là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.

Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề,
nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác
động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết
phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước.
Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ
thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người có
đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm
nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập được thực hiện không chỉ theo lao
động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, đất đai
vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là hình thức phân
phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường
chưa hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì nguyên tắc phân
phối của thị trường cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện nay, ở nước ta,
còn nhiều đối tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, còn nhiều
khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát
triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong điều kiện như vậy, sự
điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp cần thiết, bảo đảm cho tất
cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho xã
hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì vậy, tăng cường vai trò của
nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là xu hướng tất
yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích
cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với
phương châm không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống
nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng
quát. Không nghi ngờ gì nữa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những tiêu
chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ
sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có thể làm cho công bằng xã


hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh hưởng tới các vấn đề khác của
xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể hiện tính nhân
văn của xã hội, mà còn có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ
giữa chúng không phải là đồng thuận và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ
này ở nước ta hiện nay được phát huy đến đâu - điều đó không chỉ phụ thuộc vào
tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo
của Đảng và mức độ hiện thực hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống.r

(*) Tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Xem: Hoàng Thị Thành. Trung Quốc thực hiện kết hợp công bằng xã hội với
tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Lý luận chính trị , số 10, 2005, tr.62-66.
(2) Theo: www.cpv.org.vn/diendanthaoluan, ngày 5 – 5 - 2005.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88 - 89.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Sđd.,
tr.178 -179.


VỀ MỘT SỐ NGUYÊN LÝ CƠ B
ẢN CỦA HỌC THUYẾT CHỦ NGHĨA
CỘNG SẢN KHOA HỌC TRONG “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC”


TRẦN NGỌC LINH (*)
Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày

trong Hệ tư tưởng Đức là hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử do hai ông
phát hiện và xây dựng. Trong tác phẩm này, ngoài việc khẳng định vai trò quyết định
của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn luận chứng về tính
tất yếu, triệt để của cách mạng vô sản; về vai trò và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới
của giai cấp vô sản; đồng thời, luận giải về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư
nhân,… Ngoài các nguyên lý cơ bản trên, Hệ tư tưởng Đức còn đề cập tới một số
nguyên lý khác trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, như vấn đề giải phóng
con người, phát triển con người toàn diện, những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ
nghĩa…
Hơn 160 năm đã trôi qua kể từ khi C.Mác và Ph.Ăngghen cùng viết Hệ tư tưởng
Đức, cùng đặt những nguyên lý khởi đầu xây dựng nên nền tảng cho một học thuyết
vĩ đại, ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam định hướng cho toàn thể nhân loại tiến tới
tương lai.
Hệ tư tưởng Đức ra đời nhằm mục đích chuẩn bị cơ sở lý luận, thế giới quan, phương
pháp luận mới để tiếp thu một học thuyết kinh tế mới, như C.Mác đã viết về trình tự
xuất bản những tác phẩm dự kiến của mình trong thời gian đó: “… điều cực kỳ quan
trọng là phải đưa ra trước một tác phẩm luận chiến trước khi có sự trình bày chính
diện của tôi về đề tài ấy, tác phẩm luận chiến ấy là nhằm chống lại triết học Đức và
chống lại chủ nghĩa xã hội Đức đã ra đời trong thời gian đó. Điều đó là cần thiết để
chuẩn bị cho công chúng tiếp cận quan điểm của tôi trong lĩnh vực chính trị kinh tế
học, quan điểm ấy trực tiếp đối lập mình với khoa học Đức từng tồn tại trước đó”(1).
Thế giới quan và phương pháp luận mới được trình bày trong Hệ tư tưởng Đức là
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Trong Hệ tư tưởng Đức, thế giới quan mới được đề xuất dưới hình thức phê phán
những quan điểm triết học của phái Hêghen trẻ. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để thay
đổi hiện thực đang tồn tại? Phái Hêghen trẻ phê phán bằng lời nói cái hiện tồn, tiến
hành sự phê phán đó một cách gián tiếp, dưới hình thức phê phán tôn giáo. C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định rằng, đó là cuộc đấu tranh không phải với bản thân hiện

thực, mà chỉ là cuộc đấu tranh với những cái bóng của hiện thực. Đồng thời, hai ông
cũng chứng minh rằng, chỉ phê phán không thôi thì chưa đủ, mà còn cần phải giải
thích một cách đúng đắn thế giới và quan trọng hơn hết là phải làm biến đổi thế giới,
cải tạo thế giới.
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển một cách đầy đủ, toàn

diện luận điểm về vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội;
đồng thời, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất (“quan hệ giao tiếp”), trong đó các lực lượng sản xuất quyết
định loại hình quan hệ xã hội, hình thức giao tiếp. Tới một giai đoạn nhất định trong
sự phát triển của chúng, các lực lượng sản xuất sẽ mâu thuẫn với quan hệ giao tiếp
hiện tồn. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan hệ
giao tiếp cũ không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
điều kiện để hình thành một quan hệ giao tiếp mới, phù hợp và thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Theo các ông, sự phát triển của xã hội loài người có
nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ giao tiếp, “tất
cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản
xuất và hình thức giao tiếp”(2). Chính do nguyên nhân này, trong toàn bộ sự phát
triển lịch sử loài người đã hình thành mối liên hệ kế thừa giữa các giai đoạn kế tiếp
nhau. Các cuộc cách mạng xã hội, với tính cách là biện pháp tất yếu để giải quyết
mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo nên những bước
chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang một hình thái kinh tế – xã hội khác,
cao hơn.
Thực chất của quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử),
như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, là “… phải xuất phát từ chính ngay sự sản
xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và
hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy sản sinh ra – tức là xã
hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi
sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà
nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm

lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v ” và
“khác với quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một
phạm trù nào đó trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực
của lịch sử; nó không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự
hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận
rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán
tinh thần…, mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện

thực đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; rằng không phải sự phê
phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của
mọi lý luận khác”(3).
Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày
trong Hệ tư tưởng Đức chính là hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử do hai
ông phát hiện và dầy công xây dựng.
1. Về tính tất yếu và tính triệt để của cách mạng vô sản; về vai trò và sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp vô sản.
Khi nói về tính tất yếu của cách mạng vô sản, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra tác động của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất; đồng thời, cho rằng cách mạng vô sản, cũng như bất kỳ một
cuộc cách mạng xã hội nào khác, là phương thức tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh: cách mạng vô sản “là tất yếu không
những vì không thể lật đổ giai cấpthống trị bằng một phương thức nào khác mà còn
vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi
sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng
cơ sở mới cho xã hội”(4). Hơn nữa, tính tất yếu của cách mạng vô sản còn biểu hiện
ở chỗ, nó luôn gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Các ông viết:
“Những hình thức trước kia của những cuộc khởi nghĩa của công nhân đều gắn liền
với trình độ phát triển mà lao động đã đạt được trong mỗi trường hợp và với hình
thức của chế độ sở hữu do đó mà ra; còn những cuộc khởi nghĩa cộng sản chủ nghĩa

dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thì đều gắn liền với nền đại công nghiệp”(5).
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, khác với tất cả các cuộc
cách mạng xã hội khác đã từng xảy ra trong lịch sử loài người, cuộc cách mạng vô
sản do giai cấp vô sản lãnh đạo là cuộc cách mạng triệt để nhất. Vì:
Thứ nhất, trước khi cuộc cách mạng vô sản nổ ra, gắn liền với một giai đoạn trong
quá trình phát triển của những lực lượng sản xuất, “trong đó xuất hiện những lực
lượng sản xuất và những phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn
khổ những quan hệ hiện có”, đã xuất hiện giai cấp vô sản, “một giai cấp buộc phải
chịu đựng tất cả gánh nặng của xã hội mà không được hưởng những phúc lợi của xã

hội…, một giai cấp do đa số thành viên của xã hội hợp thành và là giai cấp sản sinh
ra ý thức về tính tất yếu của một cuộc cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ
nghĩa”(6).
Sự ra đời và phát triển của giai cấp vô sản gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền
đại công nghiệp. Nói cách khác, nền đại công nghiệp này đã tạo ra giai cấp vô sản –
“một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc,… một giai
cấp thực sự đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời đối lập với thế giới
cũ”(7). Giai cấp đó có sứ mệnh và nhiệm vụ hiện thực là cách mạng hoá những quan
hệ đang tồn tại, giải phóng những cá nhân của tất cả các giai cấp khỏi những xiềng
xích đã trói buộc họ. Sự mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là sứ mệnh có tính toàn thế
giới; bởi vì, “… giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế
giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn
chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”…”(8).
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, khác với chủ thể của các cuộc cách mạng xã hội trước
– những người chưa có ý thức tự giác về cuộc cách mạng mà mình tiến hành và chỉ
tiến hành cách mạng một cách tự phát,… giai cấp vô sản - chủ thể của cuộc cách
mạng vô sản, do hoàn cảnh lịch sử ra đời và bản chất cách mạng của nó, hoàn toàn
có thể nhận thức được tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội, và trong thực tế, cùng
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, giai cấp vô sản có đủ điều kiện cả về vật
chất lẫn tinh thần để tiến hành một cách triệt để cuộc cách mạng ấy. Vì thế, cuộc

cách mạng vô sản mà giai cấp vô sản tiến hành là một hiện thực, một tồn tại có tính
lịch sử toàn thế giới.
Thứ hai, tính chất triệt để của cách mạng vô sản còn được biểu hiện ở nội dung và
mục đích của cuộc cách mạng đó. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong hết thảy các
cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn giữ nguyên như cũ,
- và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một
sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ
nghĩa là nhằm chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ
tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp…”(9).
Cách mạng vô sản sẽ dẫn đến sự thiết lập chế độ cộng sản chủ nghĩa, chế độ xã hội
mới này dựa trên cơ sở “lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ phổ biến” và phù

hợp với trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức độ phổ biến này là “hình
thức giao tiếp” cũng đã phát triển đến mức độ phổ biến.
Thứ ba, chính sự biến đổi căn bản, biến đổi về chất của mối quan hệ giữa con người
với lao động, với sản phẩm của lao động do cách mạng vô sản tạo nên cũng nói lên
tính triệt để của cuộc cách mạng này. Trong xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, cùng với việc hình thành sự phân công lao động xã hội,
hành động của bản thân con người, trong đó có hoạt động lao động sản xuất, cũng
như kết quả của hành động ấy “trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người,
và nô dịch con người”(10).
Với tính cách kết quả của cuộc cách mạng vô sản, sự hình thành chủ nghĩa cộng sản
đã làm đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia, chế độ sở hữu
tư nhân bị xoá bỏ, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được thiết lập. C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, cùng với việc xoá bỏ sở hữu tư nhân và việc thiết lập sự điều
tiết cộng sản chủ nghĩa đối với sản xuất đã khiến cho con người không còn cảm thấy
xa lạ trước sản phẩm của bản thân mình, đồng thời chế ngự được sự trao đổi, sản xuất
và phương thức quan hệ lẫn nhau.
Thứ tư, tuy chưa được phân tích một cách đầy đủ, song những đặc trưng của chế độ
xã hội cộng sản chủ nghĩa (sự thống trị của giai cấp vô sản; xóa bỏ chế độ sở hữu tư

nhân về tư liệu sản xuất; sự phát triển tự do, toàn diện của cá nhân, v.v.) mà C.Mác
và Ph.Ăngghen nêu ra trong tác phẩm này cũng chứng tỏ tính triệt để của cách mạng
vô sản so với tất cả các cuộc cách mạng trước đó.
Đặc trưng đầu tiên của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa là sự thống trị của giai cấp
vô sản. Sự thống trị của giai cấp vô sản hoàn toàn khác với sự thống trị của các giai
cấp thống trị, bóc lột trước đó. Sự thống trị của các giai cấp bóc lột trong các xã hội
cũ gắn chặt với chế độ sở hữu tư nhân và do đó, mặc dù có thể biểu hiện dưới những
hình thức khác nhau, song về bản chất, nó là sự thống trị của giai cấp chiếm hữu tư
liệu sản xuất của xã hội và tước đoạt lao động của những người không có tư liệu sản
xuất. Sự thống trị dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và gắn
chặt với chế độ sở hữu này tạo nên sự “tha hoá” trong xã hội, làm nảy sinh những
mâu thuẫn gay gắt và dẫn đến sự khủng hoảng xã hội – tình trạng mà chỉ có thể được
giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Trái lại, sau khi giành được chính quyền, giai

cấp vô sản sử dụng quyền thống trị của mình để “thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ
và sự thống trị nói chung”; lúc đó, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sự “tha
hoá” trong xã hội cũng bị xoá bỏ.
2. Về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân.
Khi phân tích vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân - nhiệm vụ mà C.Mác và
Ph.Ăngghen coi là một trong những mục tiêu cao nhất của cách mạng vô sản, của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, hai ông đã đưa ra những luận điểm quan trọng có
tính nguyên lý, quy luật về sở hữu tư nhân và những điều kiện cần thiết để xoá bỏ chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trước hết, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, sở hữu tư nhân
là kết quả tất yếu của sự phát triển nền sản xuất xã hội, gắn liền với sự phân công lao
động xã hội. Cùng với “sự tăng thêm năng suất, sự tăng thêm nhu cầu và nhờ sự tăng
thêm dân số, cơ sở của sự tăng thêm năng suất và sự tăng thêm nhu cầu”(11) – những
yếu tố cơ bản của trình độ phát triển lực lượng sản xuất – phân công lao động cũng
phát triển. “Sự phân công lao động mang lại khả năng, hơn thế nữa, mang lại cái hiện
thực là hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất, hưởng thụ và lao động, sản xuất và

tiêu dùng, được phân công cho những cá nhân khác nhau”(12). Theo các ông, “Sự
phân công lao động ấy… đồng thời cũng bao hàm sự phân phối lao động và sản
phẩm của lao động; một sự phân phối thật ra là không đồng đều cả về mặt số lượng
lẫn chất lượng; vì vậy nó cũng bao hàm sở hữu”(13); do đó, sự phân công lao động
và sở hữu tư nhân là những từ ngữ đồng nghĩa, những hình thức tồn tại hiện thực của
sở hữu tư nhân là những quan hệ xã hội thích ứng với một giai đoạn nhất định của
sản xuất(14).
Dưới chủ nghĩa tư bản, sự phân công lao động và sở hữu tư nhân đã dẫn đến “sự tha
hoá” cá tính chẳng những của con người mà cả của vật nữa. Đến một lúc nào đó,
chúng sẽ biến thành xiềng xích trói buộc những lực lượng sản xuất hiện có. Do vậy,
phải xoá bỏ sở hữu tư nhân, xoá bỏ phân công lao động thì mới xoá bỏ được nguồn
gốc, nguyên nhân của mọi bất công trong xã hội, mới có thể giải phóng con người –
lực lượng sản xuất quan trọng nhất của nền sản xuất xã hội.
Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ biện chứng, khăng khít giữa sự phát triển của
lực lượng sản xuất với sự hình thành và phát triển của chế độ sở hữu tư nhân, C.Mác

và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những giai đoạn phát triển
công nghiệp nhất định, đồng thời nhấn mạnh rằng, “chỉ với công nghiệp lớn mới có
khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân”(15).
Từ đó, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, điều kiện tất yếu để xoá bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất là việc chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất.
Đến lượt mình, sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất lại được quy định
bởi những yếu tố sau:
Trước hết, đối tượng cần chiếm hữu chính là “những lực lượng sản xuất đã phát triển
thành một tổng thể nhất định và chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ
biến”(16).
Thứ hai, sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất còn được quy định bởi
những cá nhân chiếm hữu. Đó chính là những người vô sản, do điều kiện phân công
lao động, đã “hoàn toàn bị tước mất mọi sự tự mình hoạt động, mới có khả năng đạt
tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó là sự chiếm hữu tổng thể những

lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các năng lực”(17). Ở đây, một lần
nữa, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản với tính cách người thực hiện và có đủ khả năng thực hiện việc xoá bỏ chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Thứ ba, sự chiếm hữu tổng thể các lực lượng sản xuất còn được quy định bởi phương
thức thực hiện sự chiếm hữu. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đó là thực hiện chiếm
hữu bằng sự liên hợp phổ biến, chứ không thể bằng việc chiếm hữu tư nhân. Đây
chính là hình thức sở hữu đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao, khác hẳn với những sự
chiếm hữu trước đó. Trong sự chiếm hữu bằng sự liên hợp phổ biến, “một khối lượng
lớn các công cụ sản xuất phải nhất thiết lệ thuộc vào từng cá nhân, còn sở hữu thì
phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá nhân”(18).
Phải chăng, ở đây, C.Mác và Ph.Ăngghen muốn chỉ ra hai mối quan hệ của người chủ
sở hữu, người chiếm hữu, đối với công cụ lao động.
Mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ giữa quản lý và sử dụng công cụ lao động.
Theo đó, một khối lớn các công cụ sản xuất phải lệ thuộc vào từng cá nhân, mà
những cá nhân này, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, đã có sự phát
triển tổng thể những năng lực của bản thân, có thể sử dụng và quản lý những công cụ

sản xuất trong phạm vi sở hữu. Trong mối quan hệ sử dụng và quản lý này, các công
cụ sản xuất phải lệ thuộc vào từng cá nhân thì mới có thể phát huy được hiệu quả của
công cụ sản xuất và cá nhân mới phát huy được hết những năng lực toàn diện của
mình. Đồng thời, nếu công cụ sản xuất thuộc quyền quản lý, sử dụng của từng cá
nhân thì mới phát huy được trách nhiệm của họ và bảo đảm không xảy ra tình trạng
“cha chung không ai khóc” như trước đây.
Mối quan hệ thứ hai là mối quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu công cụ sản xuất xã hội
nhất thiết phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá nhân, là của chung toàn xã hội, bảo đảm
cho sự chiếm hữu tư liệu sản xuất có tính chất phổ biến, “phù hợp với những lực
lượng sản xuất và với sự giao tiếp”. “Sự giao tiếp phổ biến hiện đại không thể bị lệ
thuộc vào từng cá nhân bằng bất cứ cách nào, mà chỉ bằng cách lệ thuộc vào mọi cá
nhân”(19), nghĩa là thuộc về toàn xã hội.

Chúng ta cũng có thể nhận thấy trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ ra hai tiền đề thực tiễn để xoá bỏ “sự tha hoá”, xoá bỏ sở hữu tư nhân, từ đó mới
có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản.
Tiền đề thứ nhất, như đã phân tích ở phần trên, là những người hoàn toàn không có
sở hữu, những người vô sản, chiếm đại đa số trong dân cư, mâu thuẫn sâu sắc với xã
hội. Tiền đề thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của những lực lượng sản xuất trong xã
hội, mà như C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh, là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết. Theo hai ông, nếu không có tiền đề này thì chẳng những không có tiền đề thứ
nhất – sự hình thành, tồn tại và phát triển của giai cấp vô sản mà xã hội sẽ lâm vào sự
nghèo nàn phổ biến, sự thiếu thốn tột độ, con người lại phải đấu tranh lẫn nhau để
tranh giành những cái cần thiết, lại rơi vào sự ti tiện, tha hoá trước đây; đồng thời,
không thể xác lập được sự giao tiếp phổ biến của loài người, không thể xây dựng được
chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng
thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo.
Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái
hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ
ra”(20) và như đã phân tích ở trên, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể trở thành hiện thực,
sở hữu tư nhân chỉ thực sự bị xoá bỏ khi có được sự phát triển phổ biến của lực

lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới.
Hiện nay, toàn cầu hoá, mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế, đã trở thành một xu thế
khách quan, tất yếu của thời đại. Toàn cầu hoá, xét về bản chất, là quá trình tăng lên
mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới, hay nói như
C.Mác, đó là quá trình lịch sử biến thành lịch sử thế giới, quá trình phát triển phổ
biến của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế giới, bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa là sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc của lực lượng sản xuất
thông qua các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và cách mạng thông tin. Tuy

nhiên, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức, lực lượng sản xuất
và các hình thức giao tiếp đã phát triển tới mức dưới sự thống trị của chế độ tư hữu,
chúng trở thành lực lượng phá hoại. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những
nghịch lý của sự phát triển đã xuất hiện ngày càng nhiều, càng sâu sắc hơn.
Những mâu thuẫn vốn có của chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ ngày càng sâu sắc hơn,
nghiêm trọng hơn trong thời đại toàn cầu hoá. Chúng không thể được giải quyết bằng
đấu tranh kinh tế, hoặc đấu tranh xã hội nữa mà phải dùng những biện pháp đấu
tranh chính trị, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt là tầng lớp tư bản tài
chính, xoá bỏ tận gốc nguyên nhân tạo nên tình trạng đầy nghịch lý của toàn cầu hoá,
đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức cách đây hơn 160
năm: xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xoá bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa. Lúc đó, chúng ta sẽ có một toàn cầu hoá như mong đợi, một
toàn cầu hoá đi cùng với trật tự thế giới mới, công bằng, bền vững; một toàn cầu hoá
biến các tiềm lực lợi ích khổng lồ cho nhân loại trở thành hiện thực. Đó chính là chủ
nghĩa cộng sản hiện thực.
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn đề cập đến một số vấn đề khác
có tính nguyên lý trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, như vấn đề giải
phóng con người, phát triển con người toàn diện, vấn đề những đặc trưng của chế độ
xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai, v.v Theo chúng tôi, những vấn đề đó là hệ quả
tất yếu của hai vấn đề đã trình bày ở trên, mà trong phạm vi một bài viết, chúng tôi
không thể bàn đến một cách đầy đủ, chi tiết được.r


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu kinh điển mácxít.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.27. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.651.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.54.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.100 - 101.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.305.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.99.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.88.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.51.


TRIẾT HỌC VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CỦA TOÀN CẦU HÓA

NGUYỄN DUY QUÝ (*)
Triết học đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu không chỉ đối với việc xem xét tác
động của toàn cầu hoá đến các mặt đời sống xã hội và con người hiện đại, mà còn
đối với cả việc nhận thức và xác định bản chất sâu xa của nó. Từ góc độ triết học,
toàn cầu hoá hiện nay được xác định như một quá trình đặc trưng cho một chất
lượng mới về tồn tại không gian xã hội của xã hội hiện đại, không đơn tuyến và chứa
đựng những mâu thuẫn nan giải, tồn tại cùng với những quá trình đối lập với nó và
diễn ra trên nhiều cấp độ quan hệ. Để làm rõ những đặc trưng bản chất đó của toàn
cầu hoá hiện nay, tác giả bài viết đã tập trung luận giải những bình diện cơ bản của
quá trình toàn cầu hoá mà việc tách biệt chúng cho phép làm sáng tỏ cấu trúc và các
mâu thuẫn chủ yếu của nó. Đó là toàn cầu hoá với tư cách công nghệ vĩ mô có tầm
quốc tế; toàn cầu hoá quan hệ kinh tế – xã hội; toàn cầu hoá đời sống chính trị – xã
hội và tinh thần; sự gia tăng bạo lực toàn cầu, tư bản ngầm xuyên quốc gia, chủ
nghĩa khủng bố quốc tế, độc quyền khoa học – công nghệ, giáo dục, tư tưởng,…
Để hiểu rõ tác động của toàn cầu hóa đến các mặt đời sống xã hội và con người hiện
đại, chúng ta cần phải nắm bắt được bản chất sâu xa của nó, nghĩa là cần phải nhận

thức nó trên bình diện triết học. Đến lượt mình, nhận thức triết học lại đòi hỏi chúng
ta phải chỉ ra được mâu thuẫn cơ bản của thời đại toàn cầu hóa. Theo chúng tôi,
mâu thuẫn cơ bản của thời đại toàn cầu hóa chính là mâu thuẫn ở thời đại “suy tàn"
của thế giới tha hóa toàn cầu. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ, một mặt, khả năng và
sự cần thiết phát triển thống nhất của loài người được tạo ra nhằm mục đích hiện
thực hóa những lợi ích chung và lợi ích riêng vốn có của mỗi người trên trái đất;

mặt khác, việc thực hiện mục đích ấy lại lệ thuộc vào một số ít giới chóp bu cầm
quyền ở các nước tư bản phát triển. Chính vì vậy, chúng ta cần phải phân biệt rõ
giữa quốc tế hóa như một quá trình mâu thuẫn nhưng khách quan nhằm làm gia
tăng sự thống nhất về công nghệ, về kinh tế của loài người với toàn cầu hóa như
một hình thức bá quyền toàn cầu về các mặt kinh tế - xã hội và tư tưởng - chính trị
của tư bản nghiệp đoàn.
Để luận chứng cho luận điểm triết học nêu trên, theo chúng tôi, chúng ta cần phải
vạch rõ những đặc điểm mới, cũng như những mâu thuẫn đi liền với chúng trong sự
"suy tàn" của hình thái - kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong sự bá quyền của tư bản.
Xét về mặt định tính, thời đại hiện nay đang thể hiện ra như một giai đoạn trong
quá trình tiến hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ, khi mà sự thống nhất mang tính
quốc tế của loài người đã trở thành một hiện tượng hiện thực. Trong cuộc sống hàng
ngày, đa số mọi người đều cảm nhận thấy toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực đời sống
xã hội.
Hiện đã có hàng trăm nghìn công trình viết về toàn cầu hóa, có hàng trăm định
nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa, do vậy, chúng tôi sẽ bắt đầu từ một số luận điểm
chung mang tính nguyên tắc. Chúng tôi quan niệm toàn cầu hóa là quá trình,thứ
nhất, đặc trưng cho một chất lượng mới của xã hội hiện đại như một xã hội toàn
cầu, thống nhất (hay chất lượng mới về tồn tại không gian xã hội của “vương quốc
tất yếu” của xã hội tư bản chủ nghĩa); thứ hai, toàn cầu hóa là quá trình, vì nó có
một mức độ phát triển xác định và hơn nữa, quá trình này là mâu thuẫn và không
đơn tuyến (mức độ toàn cầu hóa là khác nhau đối với các giai đoạn thời gian xã hội
và các khu vực không gian xã hội khác nhau); thứ ba, bên cạnh toàn cầu hóa, trong
xã hội hiện đại còn có những quá trình đối lập với nó (khu vực hóa, sự phục hồi vai
trò xã hội của hàng loạt nhà nước dân tộc, sự xung đột giữa các nền văn minh, sự

phân hóa chất lượng sống, v.v.); thứ tư, toàn cầu hóa diễn ra trên các cấp độ quan
hệ kỹ thuật - kinh tế (lực lượng sản xuất), kinh tế - xã hội (quan hệ sản xuất) và
chính trị - xã hội, cũng như tinh thần, v.v
Vấn đề được đặt lên hàng đầu ở đây là, chất lượng mới về tồn tại không gian xã hội

của thế giới hiện đại là gì và nó có hay không? Dựa vào quan điểm của hàng loạt
nhà nghiên cứu(1), chúng tôi cho rằng, toàn cầu hóa phát triển trong thê'giới hiện
đại ở mức độ mà các “đối thủ toàn cầu” (các công ty xuyên quốc gia, các thể chế đứng
trên dân tộc, như NATO, Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổ chức thương mại toàn cầu, các siêu
cường, v.v.) có ảnh hưởng (kể cả mang tính quyết định) đến những quá trình kinh tế,
xã hội, chính trị và tinh thần đang diễn ra trong các nhà nước dân tộc và trên diễn đàn
quốc tế.
Sử dụng cách tiếp cận mácxít, chúng ta có thể tách biệt các cơ sở và nguyên nhân
khách quan của quá trình toàn cầu hóa (xã hội hóa sản xuất thế giới, đẩy mạnh phân
công lao động quốc tế, mở rộng danh mục những của cải xã hội toàn cầu, sự trở nên
gay gắt của những vấn đề toàn cầu, phát triển các hệ thống giao thông và viễn thông
thế giới, v.v.), cũng như hình thức lịch sử đặc thù của chúng. Chính hình thức này
được gọi là "toàn cầu hóa" và là tồn tại không gian xã hội của những mâu thuẫn
trong sự bá quyền toàn cầu của chủ nghĩa tư bản nghiệp đoàn. Nói cách khác, sự bá
quyền toàn cầu của tư bản nghiệp đoàn là hình thức lịch sử xã hội đặc biệt của quá
trình quốc tế hóa, của “toàn cầu hóa theo lối tư bản chủ nghĩa". Do vậy, cần phải
phân biệt (1) các quá trình quốc tế hóa tiến bộ mang tính khách quan cùng với
những mâu thuẫn của chúng và (2) hình thức tư bản hậu kỳ của chúng, hình thức
cần được khắc phục, vì quốc tế hóa tất yếu dẫn đến các hình thức xã hội mới.
Chúng tôi sẽ luận chứng cho luận điểm này từ việc hệ thống hóa các bình diện cơ
bản của quá trình toàn cầu hóa mà việc tách biệt chúng, có thể cho phép làm sáng tỏ
cấu trúc, các mâu thuẫn cơ bản của "vương quốc tất yếu”, của chủ nghĩa tư bản hậu
kỳ mà hình thức tự triển khai của nó chính là toàn cầu hóa.
Có thể coi bình diện thứ nhất của toàn cầu hóa là công nghệ vĩ mô có tầm quốc
tế của loài người, được đặc trưng bởi những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất đạt tới trạng thái toàn cầu. Việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên đã dẫn tới mặt đối lập của nó: bảo vệ, khôi phục và phát triển tự nhiên

như một giá trị văn hóa trở thành vấn đề toàn cầu, hợp nhất các quốc gia và các thế
hệ khác nhau. Không những vũ khí huỷ diệt hàng loạt, mà cả các công nghệ hiện

đại đã làm cho thế giới trở nên thống nhất, toàn vẹn, xét từ góc độ tích cực cũng
như tiêu cực.
Thứ hai, trong chỉnh thể xã hội thế giới đang hình thành một hệ thống những sự phụ
thuộc hết sức mâu thuẫn và không phải bao giờ cũng hữu hiệu, nhưng lại rất nghiêm
ngặt. Có thể gọi nó là xã hội hóa toàn cầu. Nó có liên quan tới sự phân công lao
động quốc tế, tới lĩnh vực sản xuất, các tiêu chuẩn công nghệ, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, v.v
Thứ ba, một đặc điểm quan trọng hàng đầu về tính chất toàn cầu của lực lượng sản
xuất là việc phổ biến các công nghệ và sự giao tiếp viễn thông toàn cầu.
Toàn cầu hóa trên bình diện này cũng bao hàm những mâu thuẫn nội tại cơ bản.
Chúng có liên quan đến các xu hướng đối lập trong quá trình phát triển của công
nghệ vĩ mô toàn cầu (mâu thuẫn giữa quốc tế hóa và khu vực hóa các quá trình sản
xuất được thể hiện ở việc hình thành các hệ thống công nghệ mở toàn cầu), các mâu
thuẫn trong phát triển lực lượng sản xuất toàn cầu do hình thức xã hội thống trị hiện
nay của nó là tư bản toàn cầu sinh ra. Tư bản toàn cầu dẫn tới sự phân công lao
động quốc tế có sự phát triển một cách thái quá (đối với các tiêu chí về công nghệ,
sinh thái và nhân văn) và tới sự mất cân đối về công nghệ - địa lý. Chính sự mất cân
đối này lại dẫn tới một mâu thuẫn quan trọng khác là mâu thuẫn “bắc - nam" với tư
cách chủ thể và khách thể của sự bá quyền toàn cầu của tư bản nghiệp đoàn.
Như vậy, trong cộng đồng thế giới hiện đã xuất hiện khả năng phát triển một lĩnh
vực mới ở nơi được giải phóng do cắt giảm sản xuất vật chất. Tuy nhiên, tư bản
nghiệp đoàn thống trị trong thế giới đã ngay lập tức thực hiện khả năng này để củng
cố sự bá quyền của mình. Có thể thực hiện có hiệu quả nhất khả năng ấy nhờ phát
triển một khu vực đặc biệt - thị trường tài chính thế giới, các khối quân sự, v.v. do
các quốc gia phương Bắc kiểm soát. Như vậy là quá trình toàn cầu hóa được định
hướng vào việc củng cố sự bá quyền của tư bản nghiệp đoàn xuyên quốc gia trong
sự liên kết với nhóm chóp bu cầm quyền ở các siêu cường.
Bình diện thứ hai của toàn cầu hóa là toàn cầu hóa quan hệ kinh tế - xã hội.
Trước hết, chúng tôi tách biệt các hình thức đảm bảo sự bá quyền toàn cầu của tư


bản nghiệp đoàn và củng cố các tiền đề của sự bá quyền ấy.
Với tư cách quan hệ sản xuất, tư bản có hàng loạt đặc điểm mới về chất trong điều
kiện toàn cầu hóa. Thứ nhất, hình thức thống trị của tư bản là công ty xuyên quốc
gia. Công ty xuyên quốc gia thể hiện ở mức độ nó là chủ thể của sự bá quyền (độc
quyền điều tiết, giám sát và tác động đến thị trường khu vực) ở hàng loạt quốc gia.
Xét về mặt nội dung, có thể coi nó là tư bản nghiệp đoàn có khả năng tác động
mang tính điều tiết khu vực đến thị trường sức lao động toàn cầu, người tiêu dùng,
kinh doanh nhỏ, liên kết với các nhà nước dân tộc, các cơ cấu kinh doanh quốc tế
(Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, v.v.), các hệ thống thông tin, văn hóa đại
chúng, v.v Rốt cuộc, các công ty xuyên quốc gia góp phần tiêu chuẩn hóa lối sống
trên quy mô toàn cầu nhờ khuôn các nhu cầu, giá trị và động cơ của công dân ở các
nước khác nhau về chuẩn mực của thị trường tổng thể toàn cầu. Kết quả là, các chủ
thể và các khách thể của sự bá quyền không những thuộc về các cấp độ khác nhau
của cơ cấu xã hội, mà còn tách biệt nhau về mặt không gian. Cuộc đấu tranh giữa
các công ty xuyên quốc gia và cuộc đấu tranh trong bản thân mỗi công ty này trở
thành nhân tố quyết định trạng thái của cộng đồng thế giới hiện đại.
Thứ hai, căn cứ trên sự xã hội hóa sản xuất toàn cầu và sự gia tăng lĩnh vực giao
dịch, tư bản toàn cầu biến thị trường tài chính thế giới, thị trường tư bản và hàng
hóa thế giới thành các lĩnh vực hoạt động kinh tế thống trị trên quy mô toàn cầu.
Người nào nắm quyền lực tại các thị trường này thì cũng trở thành chủ nhân của
cộng đồng thế giới. Như vậy, có thể nói, hiện đã xuất hiện vấn đề quan trọng bậc
nhất - vấn đề toàn cầu hóa tài chính. Chính trong lĩnh vực mang tính quyết định này
đang diễn ra các quá trình quyết định nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ và
biến nó thành quá trình hoạt động của tư bản tài chính ảo toàn cầu.
Theo chúng tôi, toàn cầu hóa tài chính (bá quyền toàn cầu của tư bản ảo) triển khai
trên thế giới ở mức độ các tham số kinh tế vi mô và vĩ mô của các nền kinh tế dân
tộc được hình thành dưới sự tác động của tình hình thị trường tài chính là nơi thống
trị của tư bản tài chính xuyên quốc gia. Xét đến cùng, cuộc đấu tranh toàn cầu giữa
các công ty tài chính bá quyền ấy sẽ trở thành nhân tố quyết định đời sống kinh tế -
xã hội không những của các nước tư bản riêng biệt, mà còn của cả các quốc gia

khác. Khi đó, hệ thống tài chính toàn cầu chủ yếu vẫn mang tính tự phát, ít được

điều tiết. Song, các công ty tài chính lớn vẫn có khả năng tiến hành chi phối hay thủ
tiêu các địch thủ tiềm năng, xâm chiếm các không gian chưa được giám sát và thậm
chí còn gây ra các cuộc chiến tranh.
Thứ ba, các công ty xuyên quốc gia thống trị trên thế giới liên kết không những với
các nhà nước dân tộc, mà còn với cả các cơ quan điều tiết quốc tế nền kinh tế thế
giới. Việc thành lập các cơ quan này biểu thị sự xã hội hóa toàn cầu về kinh tế và
các quá trình chính trị - xã hội và là cơ chế thống trị mới của tư bản và của các thể
chế của nó ở cấp độ vĩ mô. Các thể chế siêu quốc gia này là một bộ phận cấu thành
của sự bá quyền toàn cầu của tư bản. Rốt cuộc, không gian kinh tế - xã hội thế giới
bị phân chia ra thành các chủ thể của sự bá quyền (các công ty xuyên quốc gia và tổ
quốc của chúng) và các khách thể của chúng (các nước thuộc thế giới thứ hai và thứ
ba). Trên thực tế, sự phân bổ lực lượng hiện thực của sự bá quyền là phức tạp hơn
nhiều, bởi hiện đã xuất hiện các xu hướng mạnh mẽ nhằm chống lại quyền lực của
các siêu cường và các cơ cấu quốc tế do chúng kiểm soát. Sự phân bổ lực lượng
như vậy đang hình thành mối quan hệ đặc biệt giữa các công ty xuyên quốc gia với
một số quốc gia: chúng sử dụng tư bản của mình, lựa chọn các quốc gia thích hợp
và làm cho các quốc gia này phụ thuộc vào tư bản thế giới. Tất cả những điều này
đe doạ mạnh mẽ việc phát triển các chương trình xã hội và các chức năng điều tiết
khác của nhà nước trên quy mô dân tộc. Trong nhiều trường hợp, chu chuyển tự do
của tư bản dẫn tới sự xuất khẩu nó một cách ồ ạt, điều này làm cho những vấn đề
kinh tế - xã hội trong nước trở nên căng thẳng.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sự "giúp đỡ" của các công ty xuyên quốc gia
dành cho các quốc gia thân thuộc lại góp phần triển khai sự bá quyền của các công
ty ấy. Những mưu kế đa dạng đã được sử dụng ở đây. Rốt cuộc là, sự bá quyền toàn
cầu của tư bản dường như "phá vỡ" các tổ hợp kinh tế quốc dân của nhà nước dân
tộc. Trong điều kiện toàn cầu hóa, các quy luật tái sản xuất, phát triển và hoạt động
của nền kinh tế dân tộc ở cấp độ vĩ mô đang hình thành và cần được điều tiết ở cấp
độ quốc tế. Tuy nhiên, sự điều tiết như vậy có tồn tại thì nó cũng chỉ hoàn toàn

được định hướng vào việc duy trì các quy tắc và các chuẩn tắc của thị trường tự do.
Trong khi đó, ít nhất cũng cần phải có sự điều tiết toàn cầu một cách có ý thức trong
các lĩnh vực hiện đang là khách thể tác động của nhà nước dân tộc, khi mà các cơ

×