Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

TIỂU LUẬN: VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 126 trang )









TIỂU LUẬN:

VỀ THỜI KỲ QUÁ Đ
Ộ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM









Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái lược quan niệm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, nêu ra một số ưu điểm
và nhược điểm trong sự vận dụng học thuyết Mác – Lênin về thời kỳ quá độ của Đảng ở
nước ta trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị: 1/ Cần phải có một cách
tiếp cận mới về thời kỳ quá độ; 2/ Đổi tên gọi thời kỳ quá độ thành thời kỳ phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; 3/ Xác định một số nội dung cơ bản của thời kỳ phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã đưa ra một định nghĩa kinh
điển về thời kỳ quá độ: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa


là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn
là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Ở đây có ba nội dung được C.Mác
nhấn mạnh là thời kỳ quá độ chính trị, chuyên chính vô sản và cải biến cách mạng từ
xã hội nọ sang xã hội kia.
V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác về thời kỳ quá độ và là người đầu tiên
dùng khái niệm “thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Do tính
chất lâu dài của nó nên phải phân chia thời kỳ quá độ thành những bước quá độ nhỏ
hơn. Nếu C.Mác nói đến thời kỳ quá độ chính trị, thì V.I.Lênin bổ sung nội dung
kinh tế, tức là nói đến nền kinh tế nhiều thành phần và đấu tranh giữa hai con đường
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp
ở Mátxcơva năm 1957 đã rút ra 9 quy luật của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ. 9 quy luật đó cũng chính là nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội mà tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa phải thực
hiện.
Những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ và 9 quy luật do Hội
nghị ở Mátxcơva năm 1957 đã rút ra được Đảng ta vận dụng vào Việt Nam và được
thể hiện rõ trong văn kiện các Đại hội III, IV và V.
(*)

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không những nói về thời kỳ quá độ từ


chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà còn dự báo khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư
bản đối với một số nước trong những điều kiện nhất định. Sách báo mácxít đã khái
quát tư tưởng đó thành ba điều kiện là:
(1) Khi trên thế giới phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời, thối nát.
(2) Khi trên thế giới đã xuất hiện phương thức sản xuất mới, cao hơn, ưu việt hơn.

(3) Khi trong nước đã xuất hiện giai cấp tiên tiến có khả năng lãnh đạo cuộc cách
mạng, tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Phân tích những điều kiện trên, chúng ta thấy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
mặc dù trên con đường phát triển gặp nhiều khó khăn, nhưng chưa phải là phương
thức sản xuất đã lỗi thời, thối nát, thậm chí do lợi dụng được các thành tựu của cách
mạng khoa học – công nghệ hiện đại, nó tỏ ra vẫn còn sức sống. Còn phương thức
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa thì sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, người ta hầu như không nói đến tính ưu việt của phương thức sản xuất đó
so với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin bàn nhiều về sự quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, còn sự quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa
xã hội, các ông mới chỉ nói đến khả năng thực hiện chứ chưa nêu ra cách thức thực
hiện. Trong một thời gian dài, trên sách báo mácxít hầu như không có sự phân biệt
các kiểu quá độ khác nhau lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó gây nên lầm tưởng rằng bất
kỳ nước nào tiến lên chủ nghĩa xã hội, dù xuất phát từ trình độ như thế nào, cũng đều
thuộc về cùng một kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cho đến
nay, vẫn còn có ý kiến cho rằng sự quá độ của những nước có nền kinh tế kém phát
triển bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải là một kiểu nào
khác, mà chỉ là một dạng đặc biệt của kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội. Quan niệm như vậy có thể dẫn đến tình trạng dễ thoả mãn với lý luận về thời
kỳ quá độ, vận dụng máy móc lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội vào các nước có nền kinh tế kém phát triển, bất chấp những điều kiện
lịch sử cụ thể của các nước đó.
Trong quá trình đổi mới đã xuất hiện xu hướng muốn đi tìm lý thuyết mới nói về sự
quá độ gián tiếp, nhưng thực ra chưa tìm được lý thuyết đó. Nếu chúng ta tiếp tục sử
dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn


cảnh nước ta - một nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội – thì
chúng ta sẽ tiếp tục mắc sai lầm không thể tránh khỏi. Điều quan trọng để xây dựng

lý thuyết về kiểu quá độ gián tiếp là phải hiểu đặc điểm xuất phát vì chính đặc điểm
này quy định kiểu quá độ gián tiếp, mà nội dung, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp,
bước đi và độ dài của nó khác về nguyên tắc với kiểu quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội.
Trước đây, Việt Nam đã áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, cụ thể
là đã áp dụng những kinh nghiệm của Liên Xô được khái quát thành 9 quy luật của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ được Hội nghị các Đảng
Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mátxcơva thông qua năm
1957. Về sau, Việt Nam có bổ sung thêm một quy luật nữa là tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chúng ta cũng đạt được những thành tựu nhất định
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng do áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã
hội Xô viết vào Việt Nam mà nội dung của nó là không thừa nhận sản xuất hàng hoá
và cơ chế thị trường, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ
nghĩa, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch nên đã không
thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu,
muốn nhanh chóng xoá bỏ sở hữu tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng
nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên, đất đai và nguồn ngoại viện của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Thi
hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào
bằng, ít quan tâm tới lợi ích cá nhân. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp tràn lan tạo
ra tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng động và tích
cực của người lao động. Gắn liền với sai lầm áp dụng máy móc chủ nghĩa xã hội Xô
viết vào Việt Nam là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Đó là
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Hiện nay chúng ta ít nhắc đến 9 quy luật của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ, đặc biệt là không còn dùng khái niệm chuyên chính vô sản, cải tạo xã
hội chủ nghĩa… Khi Đại hội VI của Đảng rút ra bài học phải tôn trọng và hành động



theo quy luật khách quan thì không phải là nói về việc tôn trọng và hành động theo 9
quy luật này hay các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, mà là nói tới những quy luật
của sản xuất hàng hoá, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…
Chúng ta cũng không quá nhấn mạnh giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai
con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản,
mà nhấn mạnh tới đại đoàn kết dân tộc và coi đó là động lực chủ yếu để phát triển đất
nước. Vấn đề làm chủ tập thể mà Đại hội IV của Đảng nêu lên và trở thành một nội
dung quan trọng trong đường lối của Đảng ta thì hiện nay cũng ít được nhắc tới. Vì vậy,
nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã nêu ra ở các Đại hội III,
IV, V cho đến nay có nhiều điểm không còn thích hợp nữa, chẳng hạn như các khái
niệm chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể, cải tạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai
con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem lại
nội dung của thời kỳ quá độ và phải tìm nội dung mới thích hợp.
Từ sự phân tích trên đây, có thể rút ra một số nhận xét về sự vận dụng học thuyết
Mác – Lêmin về thời kỳ quá độ của Đảng ta như sau:
a. Những ưu điểm thể hiện ở 4 điểm:
Thứ nhất, trong khi vận dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Đảng ta đã cố
gắng vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm quy luật
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Đảng ta rất chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó định ra đường
lối, chính sách. Điều đó được thể hiện ở các Đại hội II, III, IV và VII.
Thứ ba, khi quyết định lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã thể hiện tinh
thần cách mạng tiến công. Điều này thể hiện ở các văn kiện: Chánh cương văn tắt,
Đại hội III, Đại hội IV.
Thứ tư, Đảng ta đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thời
kỳ quá độ lâu dài và do đó, đã nói tới các chặng đường mà nước ta phải trải qua.
b. Những hạn chế cũng thể hiện ở 4 điểm:
Thứ nhất, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lý thuyết về kiểu quá độ gián tiếp thì chúng ta

lại đem áp dụng máy móc, giáo điều lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.


Thứ hai, do vận dụng máy móc lý thuyết kinh điển và kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa đi trước nên chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ồ ạt và tiến
hành đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng
ai”, tuy không gay gắt, nhưng cũng không tìm được động lực phát triển.
Thứ ba, mặc dù Đảng ta đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là lâu dài, nhưng do bệnh chủ quan, duy ý chí, nên nhiều chủ trương, chính sách đã
tỏ ra nóng vội, muốn “đốt cháy giai đoạn”, nên kết quả nhận được không như mong
muốn.
Thứ tư, cả một thời gian dài chúng ta không hiểu đúng khái niệm bỏ qua chủ nghĩa tư
bản, nên đã rơi vào chủ nghĩa biệt phái, chủ nghĩa hư vô, phủ định sạch trơn những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, mãi đến Đại hội
IX chúng ta mới khắc phục được hạn chế này.
Kết luận và kiến nghị
1. Sự cần thiết phải có cách tiếp cận khác về thời kỳ quá độ
Nếu thực tế đã có nhiều thay đổi về chất thì một khái niệm nào đó cũng cần thay đổi
cho phù hợp. Từ mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, áp dụng 9
quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ chúng ta đã chuyển sang
một mô hình mới khác về chất so sới mô hình trước. Trong hơn 20 năm đổi mới vừa
qua, Việt Nam đã phát triển theo những quy luật khác phù hợp với đặc điểm của Việt
Nam và xu thế chung của thế giới. Trong các văn kiện của Đảng ta không còn nhắc
đến 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà Hội nghị các Đảng
Cộng sản và công nhân họp ở Mátxcơva năm 1957 thông qua vì chúng không còn
thích hợp trong điều kiện mới nữa. Ngay cả học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin
về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội khi được áp dụng máy
móc vào nước ta trong thời kỳ trước đây đã đưa nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế
- xã hội, huống hồ hiện nay tình hình nước ta và thế giới đã thay đổi thì chúng ta lại

càng không nên áp dụng học thuyết đó, mà phải xây dựng một lý thuyết khác thích
hợp hơn. Trung Quốc đã mắc nhiều sai lầm trong việc áp dụng học thuyết về thời kỳ
quá độ và 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ như: cải tạo xã
hội chủ nghĩa ồ ạt, xây dựng nhanh chóng công xã nhân dân, cường điệu đấu tranh
giai cấp…, kết quả là xã hội Trung Quốc rơi vào một thời kỳ hỗn loạn nghiêm trọng.


Do đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sớm từ bỏ khái niệm “thời kỳ quá độ” và thay
vào đó một khái niệm mới là “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”. Từ những bài học
kinh nghiệm nói trên, chúng ta cũng nên mạnh dạn đưa ra một cách tiếp cận khác về
thời kỳ quá độ.
2. Đổi tên gọi thời kỳ quá độ thành thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã có nhiều đổi mới từ lý luận đến thực tiễn, từ
đường lối, chính sách đến đời sống thực tế theo chiều hướng tích cực, tiến bộ và phát
triển. Những thay đổi đó không phải do Việt Nam áp dụng lý thuyết về thời kỳ quá
độ hay 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà trên phương diện lý luận chúng ta
đã dần từ bỏ lý thuyết đó, chẳng hạn chúng ta không còn dùng các khái niệm của học
thuyết đó, như “cải tạo xã hội chủ nghĩa”, “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giữa hai
con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai””… Khi chúng ta không dùng các khái
niệm nói trên, tức là chúng ta đã không vận dụng những nội dung chủ yếu của thời
kỳ quá độ nữa thì tại sao ta vẫn phải sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ”, có thể
mạnh dạn thay nó bằng một khái niệm khác được không?
Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã đưa ra khái niệm mới “định hướng xã hội chủ
nghĩa”, từ đó về sau trên các văn kiện Đảng và Nhà nước ta, cũng như trên các sách
báo, tài liệu của Việt Nam, đều sử dụng khái niệm đó. Vì vậy, chúng ta có thể mạnh
dạn thay khái niệm “thời kỳ quá độ” bằng tên gọi mới là “thời kỳ phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều đó, một mặt, phù hợp với thực tiễn hiện nay của
chúng ta. Mặt khác, khi chúng ta dùng cụm từ “thời kỳ phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” thì có ưu điểm là vẫn đảm bảo mục tiêu mà trước nay ta vẫn theo đuổi

là chủ nghĩa xã hội, đồng thời tránh được tâm lý lo sợ về các nội dung mà ta đã tiến
hành trong thời kỳ quá độ, như cải tạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai con
đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”… Vì vậy, dùng khái niệm “thời kỳ phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của Việt Nam hiện nay.
3. Về nội dung của thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nếu trước đây một trong những nội dung quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, thiết


lập chế độ công hữu dưới hai hình thức nhà nước và tập thể, thì trong thời kỳ phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nội dung quan trọng của nó là phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài. Nếu thời kỳ trước đây xã hội phát triển theo mô hình
xã hội chủ nghĩa Xô viết là tập trung quan liêu, bao cấp, thì trong thời kỳ phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Nếu
trong thời kỳ quá độ chúng ta thực hiện chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa theo lao
động mà thực chất là bình quân và cào bằng, thì trong thời kỳ phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nếu trong thời kỳ quá
độ trước đây xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản thì trong thời kỳ phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nếu trong thời kỳ quá độ trước đây đấu tranh giai
cấp và đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản đã được cường điệu và được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, nên
nhiều cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra liên tục, nhiều khi gay go, ác liệt, gây nên bao

khó khăn, trở ngại cho sự phát triển, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta coi động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn
dân. Nếu trong thời kỳ quá độ trước đây ta coi thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản và
hợp tác, đoàn kết chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, thì trong thời kỳ
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta chủ trương chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực,
Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Như vậy, những nhiệm vụ và nội dung của thời kỳ quá độ trước đây đã được thay đổi rất
nhiều, vì thế không nên luyến tiếc giữ lại tên cũ nữa mà nên mạnh dạn đặt ra một tên
mới phù hợp hơn. Tên mới đó là: “Thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ


nghĩa”. Lúc đầu tên đó có thể chưa quen, nhưng dùng rồi sẽ quen, song điều quan trọng
không chỉ là đổi tên gọi, mà quan trọng là chúng ta đã có nội dung mới cho tên gọi đó.
Nếu còn tiếp tục sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ”, chúng ta sẽ gặp lúng túng cả về
nhận thức lý luận và về chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, xin kiến nghị với Đảng nên đổi tên
Cương lĩnh năm 1991 thành “Cương lĩnh phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. q


(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN CON NGƯ
ỜI TRONG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI


NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

(*)


Để góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong chủ nghĩa xã
hội, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải quan niệm của Người về: 1/
Xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân với tư cách nhà nước bảo
đảm quyền con người của nhân dân lao động; 2/ Những điều kiện đảm bảo các
quyền con người; và 3/ Vấn đề đảm bảo các quyền con người của nhân dân lao
động trong chủ nghĩa xã hội.
Sau 25 năm đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngày càng
được mở rộng và đi vào chiều sâu, chúng ta càng thấy rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là một chế
độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ và thực hiện quyền lực của nhân dân, đảm
bảo công bằng xã hội, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người, những chính sách
xã hội được quan tâm thực hiện, đạo đức, lối sống xã hội phát triển lành mạnh. Nói
tóm lại, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh; là một chế độ xã hội mang tính nhân đạo, ưu việt nhất trong


lịch sử và ở đó, các quyền con người của nhân dân lao động được đảm bảo.
Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi không có ý định tìm hiểu tất cả, mà
chỉ tập trung làm rõ ba nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh:Một là, xây dựng
Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân – nhà nước có khả năng đảm bảo
quyền con người của nhân dân lao động;hai là, những điều kiện đảm bảo các
quyền con người; ba là, vấn đề đảm bảo các quyền con người của nhân dân lao
động trong chủ nghĩa xã hội.
(*)

1. Xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân – Nhà nước có khả
năng đảm bảo quyền con người của nhân dân lao động

Xem xét các xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chế độ xã hội
của các xã hội ấy là chưa hoàn chỉnh, bởi nền dân chủ của các xã hội ấy không đại
diện cho số đông nhân dân lao động, mà chỉ đại diện cho thiểu số những người
giầu có, những người có quyền lực. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới là con đường giải phóng nhân loại bị áp bức, bóc lột, là chế độ
xã hội hoàn chỉnh mang lại các quyền con người cơ bản cho nhân dân lao động.
Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư
bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cách những người lao
động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau"(1).
Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân là thành tố cơ bản nhất của hệ thống
chính trị, luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhà
nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông,
do giai cấp công nhân lãnh đạo"(2). Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta
được biểu hiện ở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; ở tính định hướng đưa
đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước không hề làm triệt tiêu
tính nhân dân và tính dân tộc, mà luôn có sự thống nhất, hài hoà với nhau. Bởi lẽ,
Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh
xương máu của bao thế hệ cách mạng; nó luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi


ích của nhân dân làm nền tảng; nó tổ chức những cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện để bảo vệ thành quả cách mạng và đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa; nó tích cực đấu tranh chống những trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội - những trở lực có thể dẫn đến nguy cơ thoái hoá, biến chất của một
đảng cầm quyền, dẫn đến sự an nguy của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao

nhiêu quyền hạn đều của dân Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do
dân cử ra Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(3). Đó là điểm
khác nhau về bản chất giữa nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân với các nhà
nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Nhà nước của dân là nhà nước được nhân dân ủy quyền cho các đại diện do mình
bầu ra và có quyền bãi miễn những đại diện nào tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm nữa. Điều thứ 1 - Hiến pháp năm 1946 nói rõ: " Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân " và Điều thứ 32 ghi: "Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, ". Trong nhà nước của dân thì dân
là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là người dân có quyền
làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền
làm chủ của người dân. Theo ý nghĩa đó, những người đại diện của dân, do dân cử
ra, chỉ là thừa uỷ quyền của nhân dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng
đắn của từ này.
Nhà nước do dân là nhà nước bao gồm những người do nhân dân lựa chọn, bầu ra
để đại diện cho quyền lợi của mình. Do vậy, nhà nước đó luôn được nhân dân ủng
hộ, giúp đỡ và đóng góp, chủ yếu là đóng thuế, để nhà nước có điều kiện thực hiện
những hoạt động của mình; nhà nước đó cũng do nhân dân phê bình, xây dựng và
kiểm soát làm cho các thành viên của nhà nước luôn ý thức rõ trách nhiệm đại diện
của mình trước nhân dân.
Nhà nước vì dân là một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và
kiểm soát trên thực tế. Nhà nước đó luôn phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sựtrong sạch, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Trong nhà nước đó, cán bộ là “công bộc” của dân. Nên, việc gì có lợi


cho dân dù nhỏ mấy cũng phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ mấy cũng
phải hết sức tránh. Quan điểm về nhà nước vì dân của Hồ Chí Minh đã vượt lên trên
những chủ trương thân dân của các nhà nước thống trị khi còn đang ở giai đoạn tiến

bộ nhất của nó. Thuật ngữ “công bộc” có nghĩa vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ của nhân dân, nhưng không mâu thuẫn với nhau. Cán bộ của nhà nước phải
là những người biết đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, bảo vệ nhân dân
và không được vi phạm đến các quyền con người và quyền công dân trong quá trình
thực thi nhiệm vụ của mình.
Như vậy, xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy có
nhiệm vụ xóa bỏ mọi sự nghèo khổ, bất công, bất bình đẳng và mang lại tự do cho
nhân dân lao động. Mục đích của chế độ xã hội chủ nghĩa là luôn mang lại và đảm
bảo các quyền con người cơ bản cho nhân dân lao động, như các quyền tự do, bình
đẳng, dân chủ, các quyền và nghĩa vụ công dân khác.
2. Những điều kiện đảm bảo các quyền con người
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từng được nghe về các
quyền tự do, bình đẳng,… của con người. Điều đó đã khuyến khích Người tìm
đường sang Pháp để xem đằng sau những quyền ấy đang ẩn giấu điều gì. Nhưng
khi đến Pháp và một số nước khác, tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, Hồ Chí
Minh đã nhận thấy đằng sau những quyền đó là cuộc sống nghèo khổ, bất công, bị
áp bức, bóc lột, không có tự do, bình đẳng,… của nhân dân lao động. Từ đó,
Người không chỉ xác định mục đích tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, mà
còn xác định mục đích tìm cách mang lại các quyền con người cho nhân dân lao
động ở Việt Nam và trên thế giới.
Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã gửi
đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách 8 điểm đòi quyền tự do, bình đẳng về chế độ
pháp lý và các quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam, như đòi xoá bỏ các
toà án đặc biệt, thay chế độ cai trị ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật và
đòi được hưởng các quyền tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, cư trú, v.v
Ở đây, Người đã sử dụng pháp lý tư sản để đấu tranh với chủ nghĩa tư bản, đế
quốc và thông qua cuộc đấu tranh đó đã rút ra được bài học vô giá là: “Muốn được



giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của
bản thân mình”(4).
Năm 1925, khi dịch ‘Quốc tế ca’ sang tiếng Việt, Nguyễn ái Quốc đã cảm nhận
được sự cần thiết của vấn đề nhân quyền cho nhân dân lao động:
"Việc ta ta phải gắng lo
Chẳng nhờ trời phật, chẳng nhờ thần linh
Công nông mình cứu lấy mình
Sửa sang thế đạo, kinh dinh nhân quyền"
Nhân quyền là quyền con người - những quyền tự nhiên vốn có của con người,
không phải là sự ban phát, thừa nhận, hay mặc cả từ bất cứ chủ thể nào, kể cả nhà
nước. Chính vì vậy, để có nhân quyền, người dân Việt Nam phải trải qua một cuộc
đấu tranh đầy gian khổ, ác liệt để giành lấy độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Năm 1930, Chính cương vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo đã khẳng
định: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản"(5). Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điều kiện
tiên quyết cho việc giải quyết vấn đề nhân quyền (quyền con người) và đảm bảo
cho việc thực hiện các quyền con người của nhân dân lao động. Nếu không có độc
lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia sẽ không có cơ sở để xây dựng chủ nghĩa
xã hội và nếu không có chủ nghĩa xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện và đảm
bảo các quyền con người, quyền công dân cho nhân dân lao động.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh, dân
tộc Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công và vấn đề tiên quyết trên
mới được giải quyết. Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã đề cập tới quyền
con người: mọi người sinh ra đều có quyền tự do, bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền đó, không ai có thể chối cãi được, rồi suy rộng ra mọi dân tộc sinh ra đều
có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc. Nói cách khác, quyền tự quyết dân tộc là khởi nguồn cho cuộc đấu
tranh giành độc lập, cũng là cho sự ra đời của Nhà nước Việt Nam mới – Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà giai đoạn đầu là Nhà nước dân

chủ nhân dân, có mục đích cao cả là đảm bảo các quyền con người của nhân dân


lao động và mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động.
Điều đáng chú ý là những điều mà Hồ Chí Minh "suy rộng ra" ấy thì ngày nay,
Hội nghị thế giới về nhân quyền họp ngày 25 tháng 6 năm 1993 đã biến thành quy
phạm của Luật Quốc tế hiện đại. Hội nghị tuyên bố: "Quyền dân tộc tự quyết
không thể bị tước đoạt" và coi việc khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm
nhân quyền(6).
Chỉ bốn tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, cuộc Tổng tuyển cử
đầu tiên trong lịch sử dân tộc với sự phổ thông đầu phiếu đã được tổ chức và thành
công. Nhân dân đã bầu ra Quốc hội và Quốc hội này đã thông qua một bản Hiến
pháp ghi nhận các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ, của nhân dân. Từ đó, nước
Việt Nam có Hiến pháp và Hiến pháp là đạo luật cơ bản để Nhà nước Việt Nam
thực hiện và đảm bảo các quyền con người cho đại đa số cư dân sống trên lãnh thổ
Việt Nam. Ở đây có sự gắn kết giữa các yếu tố: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia và Hiến pháp, trong đó ghi nhận các quyền con
người của công dân Việt Nam. Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, chủ quyền quốc gia là nền tảng quan trọng tạo nên tính đặc thù của việc đảm
bảo quyền con người và thực hiện nhân quyền của Việt Nam. Có độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có chủ quyền quốc gia mà không có Hiến pháp dân chủ thì
không thể nói đến việc thực hiện và đảm bảo các quyền con người, quyền công
dân cho nhân dân lao động. Hồ Chí Minh viết: "Trước chúng ta bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước
ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ.
Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ"(7).
Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam mới, ra
đời trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng đã long trọng tuyên bố giá trị quyền con
người mà nhân dân ta giành được. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới rằng
nước Việt Nam độc lập; nhân dân Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do, bình đắng,

dân chủ; phụ nữ đã được đứng ngang hàng với nam giới để hưởng chung mọi
quyền tự do của một công dân; v.v
Hiến pháp năm 1946 đã để lại cho các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 một di sản
hiến định lớn lao. Các bản Hiến pháp sau đã kế thừa và phát triển các quy định và


nguyên tắc của Hiến pháp 1946. Ở những bản Hiến pháp này, các quyền công dân
Việt Nam được mở rộng và bổ sung cụ thể hơn. Nếu Hiến pháp 1959 và Hiến pháp
1980 là những Hiến pháp của thời kỳ đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước,
thì Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, trong đó quyền và
nghĩa vụ công dân được quy định không chỉ ở một chương, mà còn được quy định
ở nhiều chương khác nhau.
Kế thừa các giá trị trong lịch sử nhân loại về quyền con người, trongTuyên ngôn
độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Mọi người sinh ra đều có quyền tự do, bình
đẳng, tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể chối cãi được. Điều đó cho
thấy, trong tư duy của Người, nhân dân được hưởng các quyền con người một
cách mặc nhiên chứ không phải chỉ là sự thừa nhận quyền này, quyền kia một cách
chủ quan, duy ý chí.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự đảm bảo quyền con người trong chủ nghĩa xã hội đã
thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ ấy, nhà nước
luôn hành động vì mục tiêu bảo vệ các quyền con người của người dân và nhà
nước phải có trách nhiệm ngăn chặn sự vi phạm của bất kể chủ thể nào đến những
quyền mặc nhiên ấy của con người.
3. Vấn đề đảm bảo các quyền con người của nhân dân lao động trong chủ
nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”(8). Trong nhà nước dân chủ thì dân là chủ và dân làm chủ.
“Là chủ”- điều đó cho thấy nhân dân không chỉ là công dân, mà còn trở thành chủ
nhân thực sự của đất nước, chủ thể xã hội. Trong xã hội, địa vị cao nhất và quý
nhất là nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân

dân”. Quan niệm đó của Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tất cả các nhà tư tưởng tiền
bối và nâng người dân từ vị trí thần dân không chỉ lên địa vị công dân, mà còn lên
địa vị chủ nhân của đất nước, của xã hội.
Với tư cách chủ nhân, nhân dân lao động cần phải tự giác phát huy tính chủ động
sáng tạo và những khả năng sẵn có của mình để giải quyết những vấn đề mà thực
tiễn cuộc sống đang đặt ra. Còn cán bộ của Đảng và Nhà nước là những người
giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện để nhân dân có thể biến những khả năng của


mình thành hiện thực. Hồ Chí Minh viết: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó
vạn lần dân liệu cũng xong và người cán bộ của Đảng phải biết đem tài dân, sức
dân, của dân làm lợi cho dân.
“Làm chủ” ở đây vừa thể hiện quyền của chủ thể xã hội, vừa thể hiện bổn phận và
trách nhiệm của chủ thể ấy. Hồ Chí Minh nói: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân ”(9). Điều quan trọng ở đây là, phải
làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình,
dám nghĩ, dám nói, dám làm.
Nhân dân lao động là chủ thể của xã hội và có quyền làm chủ. Quyền do đâu mà
có? Trong chế độ dân chủ mới, quyền lực trực tiếp và quyền lực cao nhất thuộc về
nhân dân. Quyền lực đó nẩy sinh trên cơ sở của sự liên hợp tự nguyện giữa họ và
nằm trong sức mạnh đoàn kết của họ, chứ không do ai ban phát cho cả. Theo đó,
quyền làm chủ luôn thể hiện tính chủ động của nhân dân trong việc quyết định
những vấn đề có liên quan đến đời sống và vận mệnh của mình. Dĩ nhiên, quyền
cần phải đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm. Đã có quyền làm chủ thì phải làm tròn
nghĩa vụ của người chủ, như nghĩa vụ xây dựng nhà nước, bảo vệ Tổ quốc, tuân
theo pháp luật,… Ngoài ra, mỗi giai cấp, tầng lớp tuỳ theo vị trí của mình mà có
quyền và nghĩa vụ do vị trí đó đòi hỏi.
Dân chủ và pháp luật là những khái niệm chính trị, pháp lý cơ bản, có mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau và luôn đi đôi với nhau.Không thể có dân chủ
ngoài pháp luật, còn pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người

dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật, hệ thống pháp luật phải
bảo đảm cho quyền tự do, bình đẳng, dân chủ của người dân được tôn trọng trên
thực tế.
Theo Hồ Chí Minh, “phải nhận thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
Sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật”(10). Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi
pháp luật. Pháp luật là quyền tự do lựa chọn hành vi, nhưng ranh giới của nó lại là
lợi ích của người khác, là khả năng hành động hợp lý, hợp pháp của người khác.
Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người
có tự do của mình nhưng phải tôn trọng tự do của người khác, người nào sử dụng
quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến quyền tự do của người khác là phạm


pháp”(11). Ý tưởng về việc sử dụng quyền tự do cá nhân mà không xâm phạm đến
quyền tự do của người khác là sự thể hiện lý tưởng về một xã hội thực sự dân chủ
và nhân đạo. Điều đó tương đồng với luận điểm của C. Mác: “Sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Quan điểm pháp luật được Hồ Chí Minh trình bày trong một chỉnh thể thống nhất
với các quyền con người, như quyền dân chủ, tự do, công bằng, bình đẳng và cả với
các vấn đề đạo đức, văn hóa, kinh tế, trong đó chứa đựng những triết lý sâu sắc về
bản chất, vai trò và mối quan hệ giữa pháp luật với các quy tắc xã hội khác. Theo
Người, chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ
lòng dân không yên.
Dân chủ không chỉ dừng lại ở khát vọng, lý luận, cảm nhận, mà cần phải thực hành
dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn như, trong lĩnh vực
chính trị thì nhân dân lao động làm chủ thông qua việc thực hiện các quyền bầu
cử, ứng cử và quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu lên không làm tròn
trách nhiệm và các quyền tự do, dân chủ khác. Trong lĩnh vực kinh tế, nhân dân
lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu, làm chủ việc quản lý, tổ chức sản
xuất và phân phối sản phẩm. Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối

với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Đó là một quyền lợi, cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát
biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do
phục tùng chân lý”(12).
Thực hành dân chủ trong xã hội còn bao hàm cả mối quan hệ máu thịt giữa Đảng,
Chính phủ với nhân dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân không có nghĩa là ban
ơn, bao biện, làm thay…, mà cần phải phát động được sức mạnh của mỗi con người,
của tập thể, của quần chúng đông đảo để làm nên sự nghiệp cách mạng.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh, có hiệu lực, Hồ Chí Minh đã thấy rõ
phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên
chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành
chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Một đội
ngũ cán bộ công chức, viên chức nhà nước như thế sẽ hạn chế đến mức thấp nhất


sự vi phạm nhân quyền (quyền con người, quyền công dân) từ phía các cơ quan
nhà nước thông qua các quan chức của nhà nước.
(12)

Như vậy, có thể nói, xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là nhà nước do nhân
dân lao động làm chủ, thực hiện quyền lực của nhân dân và luôn đảm bảo các quyền
con người của nhân dân lao động. Nghĩa là, chính quyền của Nhà nước ấy cần phải
hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ cả đức
và tài, v.v., đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng mới. Đây thực sự là vấn đề
chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài của chúng ta ở giai đoạn cách mạng hiện nay.
Để làm được điều đó, chúng ta cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính. Sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà

nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước không phải bằng cách bao biện, làm thay, mà bằng
đường lối và những chủ trương, định hướng lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của mình trong hai cuộc kháng chiến.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ về phát
triển kinh tế, ổn định xã hội và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cửa quyền
của một bộ phận cán bộ, đảng viên để bảo vệ nhân quyền và chống mọi hành vi xâm
phạm đến các quyền con người của nhân dân. q


(*) Tiến sĩ, Trưởng Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Luật Hà Nội.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.461.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.586.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.698
(4) Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb
Văn học, Hà Nội, 1970, tr.30.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr.1.
(6) Xem: Vũ Đình Hòe. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam: Một mô hình
mới - Hiến pháp dân tộc và dân chủ. Trong cuốn Hiến pháp năm 1946 và sự kế


thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Namcủa Văn phòng Quốc hội. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.67.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.8.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.515.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.452.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.299.
(11) Hồ Chí Minh. Nhà nước và pháp luật, t.3. Nxb Lao động, Hà Nội, 1995,
tr.138.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.216.



QUAN NIỆM CỦA G.V.PH.HÊGHEN VỀ “THA HÓA” QUA SỰ
ĐÁNH GIÁ
CỦA C.MÁC



NGÔ ĐÌNH XÂY
(*)


Nhân kỷ niệm 240 năm ngày sinh Hêghen, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và
phân tích quan niệm của ông về “tha hoá” qua sự đánh giá của C.Mác. Đó là
quan niệm của ông về “tha hoá” với tư cách một phạm trù xuất phát để xây dựng
hệ thống triết học; “tha hoá” là quá trình phát triển biện chứng, quá trình tước bỏ
và bảo tồn, quá trình phủ định của phủ định và là thuộc tính phổ biến, là quá trình
phổ biến của tự nhiên, của xã hội và của tư duy (ý thức); về sự tha hoá của bản
chất con người và vấn đề “giải” tha hoá.

Có lẽ, phạm trù “tha hoá” đã trở thành phạm trù triết học theo nghĩa đầy đủ, rõ
ràng và điển hình nhất của nó ở triết học cổ điển Đức. Chúng ta có thể tìm thấy
tính triết học sâu sắc của phạm trù này trong quan niệm của Hêghen. Tiếp nối
truyền thống của các nhà triết học cổ điển Đức và là người đạt tới đỉnh cao trước
Mác trong việc đem lại cho phạm trù “tha hoá” một nội dung triết học hết sức độc
đáo, phong phú và biện chứng, Hêghen đã xây dựng một lý luận khá hoàn chỉnh về


“tha hoá” và nâng “tha hóa” lên thành phạm trù trung tâm, xuyên suốt trong hệ
thống triết học của ông.
Vậy, quan niệm về “tha hoá” của Hêghen có những nội dung đặc sắc gì? Đọc lại

Hêghen nhân kỷ niệm 240 năm ngày sinh (1770 - 2010) của ông và qua các chỉ
dẫn của C.Mác, chúng ta có thể nêu một số điểm sau:
Thứ nhất, như C.Mác đã nhận xét trong Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844, “Hêghen đã xuất phát từ tha hoá” để nghiên cứu triết học của mình. Phạm trù
“tha hoá” rốt cuộc đã xuyên suốt và bao trùm lên toàn bộ hệ thống của Hêghen.
(*)

Trong những tác phẩm khá sớm của Hêghen, cụ thể là trong Những phác thảo về
hệ thống ở Iena (1805-1806), Hêghen đã chỉ ra biện chứng của lao động và tha
hoá, của thống trị và bị nô dịch, của nguyên nhân và giả định mục đích, của cơ học
và hữu cơ luận,v.v., nghĩa là ông đã bắt đầu bàn về “tha hóa”. Đặc biệt, trong Hiện
tượng học tinh thần - tác phẩm đánh dấu kết sự thúc thời kỳ hoạt động của Hêghen
ở Iena, quá trình phát triển mang tính biện chứng phổ biến của tồn tại và nhận thức
đã được cụ thể hoá thành biện chứng của chủ nô và nô lệ, tự do và tha hoá, xã hội
và cá nhân, chân lý và sai lầm. Ở đây, “tha hóa” đã được Hêghen luận bàn như
một phạm trù triết học và trở thành nét chủ đạo trong suy tư triết học của ông.
Phạm trù “tha hoá” của Hêghen mang cả tính chất bản thể luận (sự chuyển hoá của
tinh thần thành tự nhiên và sự tạo ra thế giới đối tượng, tức là thế giới xã hội,
khách quan, thông qua hoạt động mang tính đối tượng hoá của con người) lẫn tính
chất nhận thức luận (biến tri thức thành mặt đối lập của nó, tức là thành sai lầm).
Xét về mặt thuật ngữ, “đối tượng hoá” (Vergegenstandlichung) và tha hoá tri thức là
khác nhau (Entansserung und Entyremdung). Tuy nhiên, sự khác biệt đó đã được
vạch ra trong quan điểm của Hêghen, nhưng sau đó lại bị lu mờ vì ông cho rằng,
mọi sự đối tượng hoá về nguyên tắc đều là tha hoá, còn mọi tha hoá thì đều được
đối tượng hoá(1).
Thứ hai, tính độc đáo và biện chứng trong cách tiếp cận của Hêghen về “tha hoá”.
Trong cách hiểu của Hêghen về “tha hoá”, có thể chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ 1807 đến trước 1812, tức là những năm đánh dấu sự chín muồi
trong thế giới quan triết học của Hêghen, thể hiện qua việc ông cho xuất bản Hiện
tượng học tinh thần. Trong tác phẩm này, Hêghen đã xây dựng và trình bày rõ



quan niệm của mình về “tha hoá”: tha hoá chính là quá trình biến thành (trở
thành) cái khác, cái tha hoá chính là cái ban đầu được biểu hiện là cái
khác. Hêghen viết: “Tự nhiên biểu hiện ra là ý niệm dưới hình thức tồn tại khác.
Như vậy, vì ý niệm biểu hiện ra ở đây là sự phủ định bản thân, hoặc như ở ngoài
bản thân mình, cho nên không phải tự nhiên chỉ có tính chất bên ngoài theo ý
nghĩa tương đối, so với ý niệm ấy, mà tính bên ngoài tạo thành sự quy định trong
đó ý niệm biểu hiện ra là tự nhiên”(2).
Giải thích rõ hơn về quan niệm này của Hêghen, C.Mác viết: “Cần phải hiểu tính
bên ngoài ở đây theo ý nghĩa sự tha hoá, theo ý nghĩa sự thiếu sót, khuyết điểm
không nên có. Vì cái chân thực vẫn còn là ý niệm. Tự nhiên chỉ là hình thức tồn
tại khác của ý niệm”(3). Rằng, mặc dù là “cái tha hoá”, nhưng vẫn cần cái ban
đầu, dĩ nhiên là cái ban đầu trong hoàn cảnh khác. Và, chính C.Mác đã chỉ ra
quan niệm này ở Hêghen: “Mặt khác, theo lời Hêghen, ở đây đồng thời cũng có
một nhân tố khác, đó là: trên một mức độ y như thế, tự ý thức đã tước bỏ và hấp
thu trở lại vào mình sự tha hoá ấy và tính đối tượng ấy và do đó, trong tồn tại
khác của nó với tính cách là tồn tại khác, cũng vẫn ở trong bản thân nó”(4).
Vậy, căn nguyên và điểm xuất phát của tha hoá là ở đâu? Theo Hêghen, căn
nguyên và điểm xuất phát của tha hoá là ở ý niệm tuyệt đối, hay tinh thần tuyệt
đối. Cũng theo ông, ý niệm tuyệt đối – tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền
tảng trong quan niệm về hiện thực. Tiếp thu những quan niệm của Senlinh về cái
Tuyệt đối, Hêghen coi nền tảng thế giới quan triết học của mình là tinh thần tuyệt
đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Mọi sự vật,
hiện tượng xung quanh ta, từ những sự vật tự nhiên cho đến những sản phẩm hoạt
động của con người (xã hội và tư duy) chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt
đối được hiểu như là căn nguyên sinh ra, “tha hoá” ra mọi cái trên thế gian.
“Ở Hêghen, - C.Mác viết -, biện chứng là sự tự phát triển của ý niệm. Ý niệm tuyệt
đối không những tồn tại vĩnh viễn - không biết ở đâu - mà còn là linh hồn sinh
động thật sự của toàn bộ thế giới hiện tồn. Ý niệm đó phát triển để trở về bản thân

nó, thông qua tất cả những giai đoạn chuẩn bị , và tất cả những giai đoạn ấy đã
nằm ngay trong bản thân ý niệm. Sau đó, nó “tự tha hóa” bằng cách chuyển hoá
thành giới tự nhiên, trong đó, không có ý thức về bản thân và hoá thành tính tất


yếu tự nhiên, ý niệm tuyệt đối ấy trải qua một sự phát triển mới và cuối cùng trở
lại tự ý thức trong con người; cái tự ý thức đó xây dựng bản thân nó trong lịch sử
từ hình thái thô sơ để rồi, cuối cùng, lại hoàn toàn trở về với bản thân nó trong triết
học của Hêghen. Ở Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu hiện trong giới tự nhiên
và trong lịch sử, - tức là mối liên hệ nhân quả của sự vận động tiến lên từ thấp đến
cao thông qua tất cả những sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời, -
chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh
viễn, không biết ở đâu, nhưng dù sao cũng độc lập đối với mọi bộ óc đang tư duy
của con người”(5).
Không những thế, ý niệm tuyệt đối còn được Hêghen xem là chủ thể của sự tha
hoá. C.Mác đã nói rõ về điều này khi chỉ ra quan niệm của Hêghen về quá trình
nhận thức “phải có kẻ đảm nhiệm, phải có chủ thể” nhưng “chủ thể chỉ nảy sinh
như là kết quả; cho nên kết quả đó - chủ thể hiểu mình như tự ý thức tuyệt đối -
là thượng đế, tinh thần tuyệt đối, ý niệm hiểu mình và tự thực hiện mình. Con
người hiện thực và giới tự nhiên hiện thực trở thành đơn thuần những tân từ,
những biểu tượng của con người không hiện thực và bị che giấu ấy và của giới tự
nhiên không hiện thực ấy. Cho nên quan hệ giữa chủ từ và tân từ bị xuyên tạc một
cách tuyệt đối: đó là, chủ thể - khách thể thần bí, hoặc là tính chủ thể trùm lên
khách thể, là chủ thể tuyệt đối với tính cách là một quá trình, với tính cách làchủ
thể tự tha hoá mình và trở lại bản thân mình từ trong sự tha hoá ấy và đồng thời
hấp thu sự tha hoá ấy trở lại bản thân mình, và là chủ thể với tính cách là quá trình
ấy…”(6).
Theo đó, có thể nói, trong quan niệm của Hêghen, ý niệm tuyệt đối là tồn tại đầu
tiên, duy nhất và vĩnh hằng và nhờ có sự “tự tha hoá” mà hình thức thể hiện đầu
tiên của nó là giới tự nhiên, hình thức thứ hai là con người và xã hội loài người và

đến đây, ý niệm tuyệt đối tự nhận thức đầy đủ về chính bản thân mình trong triết
học Hêghen.
Giai đoạn 2: Từ 1812 - 1814 về sau, nghĩa là giai đoạn Hêghen công bố Khoa học
lôgíc, bộ sách mà thông qua sự vận động của phạm trù "tha hoá", ông trình bày các
quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng. Ở giai đoạn này, Hêghen đã tiến
thêm một bước lớn, hoàn chỉnh hơn quan niệm của mình về tha hoá. Ở đây, ông


hiểu tha hoá là trở thành cái khác hoàn thiện hơn và các hình thức khác nhau của
sự tha hoá (giới tự nhiên, con người và xã hội loài người, tự ý thức của con người)
đều có xu hướng, có tham vọng trở về với cái xuất phát, cái căn nguyên, cái chủ
thể tuyệt đích tối thượng - ý niệm tuyệt đối - tinh thần tuyệt đối. Bởi lẽ, theo
Hêghen, ý niệm tuyệt đối là giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và là
nền tảng của toàn bộ hệ thống và do vậy, “vận động lên phía trước là sự quay trở
về nền tảng, về điểm đầu và chân lý”(7). Hơn thế nữa, cũng nhờ mỗi lần quay trở
về đó mà sự vật đã trở thành cái khác (tha hoá), sự vật mới được xuất hiện. “
Cùng với tri thức,- Hêghen viết -, cả đối tượng cũng trở nên khác đi, vì thực chất
nó thuộc về tri thức đó ”, “ đối tượng mới đã xuất hiện nhờ sự quay về (Um
Kehrung) của bản thân ý thức”(8). Cứ như vậy sự vật vận động tiến lên mãi cho tới
khi đạt đến tri thức tuyệt đối (tinh thần tuyệt đối).
C.Mác đã lý giải rõ hơn về quan niệm này của Hêghen như sau: “Dù cho Hêghen
đã nhấn mạnh, nhất là trong cuốn “Lôgíc học” của ông, rằng chân lý vĩnh cửu đó
chẳng qua chỉ là bản thân quá trình lôgíc, (resp: quá trình lịch sử), nhưng Hêghen
lại buộc phải gán cho quá trình ấy một điểm tận cùng, chính là vì ông phải kết thúc
hệ thống của ông ở một điểm nào đó. Trong cuốn “Lôgíc học”, ông lại có thể làm
cho điểm tận cùng đó thành một điểm bắt đầu, vì ở đây, cái điểm tận cùng, tức ý
niệm tuyệt đối - ý niệm đó sở dĩ là tuyệt đối, chỉ là vì ông tuyệt đối không biết nói
gì về nó cả, -“tự tha hoá”, tức là tự chuyển hoá thành tự nhiên, và sau đó lại trở về
với bản thân nó trong tinh thần, tức là trong tư duy và trong lịch sử. Nhưng ở điểm
tận cùng của toàn bộ triết học thì muốn quay trở lại khởi điểm như vậy, chỉ có thể

có một con đường duy nhất. Cụ thể là bằng cách hình dung điểm tận cùng của lịch
sử như sau: nhân loại chính là đã nhận thức được ý niệm tuyệt đối ấy và tuyên bố
rằng nhận thức ấy về ý niệm tuyệt đối đã đạt được trong triết học của Hêghen”(9).
Thứ ba, thực chất của tha hoá, theo Hêghen, là quá trình phát triển biện chứng,
là quá trình tước bỏ và bảo tồn, là quá trình phủ định của phủ định. Chính bởi thế,
trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã lưu ý rằng: “Giờ đây phải
xét - trong khuôn khổ phạm trù tha hoá - những nhân tố tích cực của phép biện
chứng của Hêghen”(10).
Vậy, “phép biện chứng” trong phạm trù “tha hoá” của Hêghen là như thế nào và có


những điểm gì? Chính C.Mác đã chỉ ra nội dung cơ bản của phép biện chứng trong
phạm trù tha hoá của Hêghen như sau: “Theo Hêghen, sự khắc phục đối tượng của
ý thức (sự tha hoá – N.Đ.X.) được biểu hiện một cách toàn diện ở chỗ:
1) đối tượng với tính cách như vậy biểu hiện ra đối với ý thức như là đang biến
mất;
2) sự tha hoá của tự ý thức là cái mà tính vật thể thiết định;
3) sự tha hoá ấy không chỉ có ý nghĩa phủ định mà còn có ý nghĩa khẳng
định nữa;
4) nói rõ có ý nghĩa đó không chỉ đối với chúng ta hoặc ở trong bản thân nó mà
cả đối với bản thân ý thức;
5) đối với ý thức, sự phủ định đối tượng, hoặc việc đối tượng xoá bỏ bản thân nó,
có một ý nghĩa khẳng định(hoặc nó có ý thức về cái hư vô của đối tượng) do chỗ
nó tha hoá bản thân nó, hoặc trong sự tha hoá ấy nó thiết định bản thân nó như là
đối tượng, hoặc thiết định đối tượng như là bản thân nó, do sự thống nhất không
thể phân chia của tồn tại vì mình;
6) mặt khác, ở đây đồng thời cũng bao hàm cả nhân tố thứ hai, cụ thể là trên một
trình độ như vậy, ý thức cũng tước bỏ và thu hút trở lại bản thân mình sự tha hoá
ấy và tính đối tượng ấy và, do đó, trong tồn tại khác với tính cách là tồn tại khác
của nó nó vẫn ở trong bản thân nó;

7) đó là sự vận động của ý thức, và trong sự vận động ấy, ý thức là tập hợp những
nhân tố của nó;
8) ý thức cũng phải đối đãi với đối tượng phù hợp với tập hợp những quy định của
mình và xem xét nó trên góc độ mỗi quy định đó. Tập hợp những quy định ấy của
ý thức làm cho đối tượng tự nó trở thành bản chất tinh thần, còn đối với ý thức thì
đối tượng thực sự trở thành như vậy là do việc nhận thức mỗi quy định riêng biệt
của đối tượng như là cái tự ngã, hoặc do thái độ tinh thần đối với chúng như đã
nói ở trên”(11).
Bởi vậy, “cho nên, - theo C.Mác -, ở Hêghen sự tước bỏtrong đó sự phủ định và sự
giữ lại, tức là sự khẳng định kết hợp nhau, có một vai trò độc đáo”(12).
Thứ tư, “tha hoá”, đối với Hêghen, còn là thuộc tính phổ biến, là quá trình phổ
biến của tự nhiên, của xã hội và của tư duy (ý thức).


Theo C.Mác, Hêghen đã hiểu quá trình tha hoá nói chung như sau: “Chất đã bị
tước bỏ là lượng, lượng đã bị tước bỏ là độ, độ đã bị tước bỏ là bản chất, bản chất
đã bị tước bỏ là hiện tượng, hiện tượng đã bị tước bỏ là hiện thực, hiện thực đã bị
tước bỏ là khái niệm, khái niệm đã bị tước bỏ làtính khách quan, tính khách quan đã
bị tước bỏ là tư tưởng tuyệt đối, tư tưởng tuyệt đối đã bị tước bỏ là tự nhiên, tự
nhiên đã bị tước bỏ là tinh thần chủ quan, tinh thần chủ quan đã bị tước bỏ là tinh
thần đạo đức khách quan, tinh thần đạo đức đã bị tước bỏ là nghệ thuật, nghệ thuật
đã bị tước bỏ là tôn giáo, tôn giáo đã bị tước bỏ là tri thức tuyệt đối”(13).
C.Mác cũng đã vạch ra quan niệm của Hêghen về tha hoá trong xã hội: “Chẳng
hạn như trong triết học pháp quyền của Hêghen, - C.Mác viết -, tư pháp đã bị tước
bỏ là đạo đức, đạo đức đã bị tước bỏ là gia đình, gia đình đã bị tước bỏ là xã hội
công dân, xã hội công dân đã bị tước bỏ là nhà nước, nhà nước đã bị tước bỏ
là lịch sử thế giới. Trong hiện thực thực tế, tư pháp, đạo đức, gia đình, xã hội công
dân, nhà nước, v.v. tiếp tục tồn tại như trước, chúng chỉ trở thành những nhân
tố, những hình thức sinh tồn và hình thức tồn tại hiện có của con người, những
hình thức và nhân tố này nếu cô lập với nhau thì không có sức mạnh, chúng xoá bỏ

lẫn nhau, sản sinh lẫn nhau v.v. những nhân tố của vận động”(14).
Còn trong tư duy, “tha hoá” được Hêghen hiểu, - qua cách trình bày của C.Mác, -
như sau: “Trong sự tồn tại hiện thực của chúng, bản chất cơ động ấy của chúng bị
che giấu. Bản chất đó chỉ bộc lộ ra, được vạch ra lần đầu tiên trong tư duy, trong
triết học, và do đó tồn tại tôn giáo đích thực của tôi là tồn tại của tôi trong triết học
tôn giáo, tồn tại chính trị đích thực của tôi là tồn tại của tôi trong triết học pháp
quyền, tồn tại tự nhiên đích thực của tôi là tồn tại của tôi trong triết học tự nhiên,
tồn tại nghệ thuật đích thực của tôi là tồn tại của tôi trong triết học nghệ thuật, tồn
tại con người đích thực của tôi là tồn tại của tôi trong triết học. Chính như vậy sự
tồn tại đích thực của tôn giáo, của nhà nước, của tự nhiên, của nghệ thuật là triết
học tôn giáo,triết học tự nhiên, triết học nhà nước, triết học nghệ thuật”(15).
Thứ năm, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, Hêghen đã bàn đến sự tha
hoá của bản chất con người. Song, đúng như C.Mác đã chỉ ra: “Đối với
Hêghen, bản chất người đồng nghĩa vớitự ý thức. Cho nên đối với con người, mọi
sự tha hoá của bản chất con người chẳng qua là sự tha hoá của tự ý thức. Sự tha

×