Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nước Việt Nam chúng ta là nước truyền thống đấu tranh dựng nước và cứu nước , trải qua hàng ngàn năm, nước VN đã xuất hiện những vị vua , vị tướng lỗi lạc tài ba , anh minh như Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn trong bài chiếu dời đô, hịch tướng sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.28 KB, 7 trang )

Chieu doi do-Ly Cong Uan
Nước Việt Nam chúng ta là nước truyền thống đấu tranh
dựng nước và cứu nước , trải qua hàng ngàn năm, nước VN
đã xuất hiện những vị vua , vị tướng lỗi lạc tài ba , anh minh
như Lí Cơng Uẩn, Trần Quốc Tuấn trong bài chiếu dời đô, hịch
tướng sĩ.
Một trong những vị vua tài giỏi , lỗi lạc của đất nước đó là Lí
Cơng Uẩn , ông là người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lý ở
nước ta . Ơng là người thơng minh, nhân ái , u nước
thương dân , có chí lớn và lập được nhiều chiến cơng . Lí
Cơng Uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân
được ấm no, hạnh phúc . Chính vì thế , ơng nhận thấy Hoa Lư
khơng cịn phù hợp với hồn cảnh đất nước lúc bấy giờ . Vì
ơng muốn đóng đơ ở nơi trung tâm , mưu toan nghiệp lớn,
tính kế muộn đời cho con cháu nên ông đã ban bố chiếu dời
đô vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân ”
Việc định đô lập nước là 1 vấn đề trọng đại phần nào tới
tương lai đất nước
Dời đô là khát vọng mong muốn của LCU , của nhân dân, của
lịch sử dân tộc . Muốn vậy, việc dời đơ là phải tìm một nơi
trung tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi. LCU tâm
đắc nói tới cái nơi đúng ngơi ĐBNT, lại tiện hướng nhìn sơng
dựa núi, nơi đấy khơng phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một
nơi địa thế rộng,bằng , đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi
về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, việc
dời đô đã hợp với thiên thời địa lợi nhân hịa .
Dời đơ ra Thăng Long là một bước ngoặc rất lớn . Nó đánh
dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt . Kinh đô Thăng
Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời là nơi để cho
sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời
Tiếp đến là vị tướng Trần Quốc Tuấn , với LCU là một vị vua


anh minh, thương dân thì Trần Quốc Tuấn là một vị tướng
giỏi, tài ba biết lấy những suy nghĩ, việc làm của mình để
khơi dậy lịng u nước của các tướng sĩ . TQT tức Trần Hưng
Đạo , ông là một vị tướng kiệt xuất của dân tộc biết nhìn xa
trơng rộng, ơng đã nhận biết được âm mưu xâm lược của kẻ
thù .
Trần Quốc Tuấn luôn luôn khâm phục những bậc nghĩa sĩ
trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân . Ơng mượn


những tấm gương đó dí nói lên tình hình đất nước ta lúc bấy
giờ đang bị giặc Nguyên mông lăm le xâm chiếm thì rất cần
những tấm gương hi sinh vì nước để bảo vệ từng tấc đất cho
nhân dân . Ông tố cáo tội ác của kẻ thù với mọi nhân dân,
với triều đình ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài
đường, uốn lưỡi diều mà sỉ mắng triều đình, ơng tỏ rõ chúng
là thân dê chó, hổ đói . Ngày ngày nhìn sứ giặc làm nhục
triều đình TQT ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa và ông
sẵn sàng xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu qn thù dẫu cho
thân mình phải phơi ngồi nơi cỏ, nghìn xác này gói trong da
ngựa , ơng cũng cảm thấy vui lịng .
Đứng trước tình cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc , TQT
phê phán nghiêm khắc những lối sống hưởng lạc nhưng ông
cũng tỏ rõ sự quân tâm đến các tướng sĩ , ông cho họ ăn
mặc, xe cộ , thuyền ….. sự quan tâm đó sẽ thắt chặt tình
cảm giữa chư và tướng . Nếu các tướng sĩ khơng nghe theo
lời thần chư thì hiểm họa trước mắt thật đau xót : “Lúc bấy
giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết cừng nào ”
Ông đã chọn thảo cuốn binh thư yếu lược để các tướng sĩ học
theo từ bỏ lối sống xa hoa , chuyên chăm vào việc rèn luyện

võ nghệ để mọi người giỏi như Bàng Mông nhà nhà đều là
Hậu Nghệ để có thể chiến thắng được kẻ thù xâm lược. Thật
hả hê khi chúng ta chiến thắng được quân thù , chưa đánh
giặc nhưng TQT đã ca khúc khải hồn chiến thắng “chẳng
những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm
về sau tiếng vẫn lưu truyền ”. Lời tâm sự của TQT với các
tướng sĩ thật chân thành khiến các tướng sĩ một lòng khâm
phục vị tướng tài vì xã tắc mà dám hi sinh , dám chiến đấu .
LCU và TQT đều yêu nước sâu sắc, thương dân , lo lắng cho
vận mệnh đất nước . Tuy các ông đã mất , nhưng những điều
răn dạy vẫn được con cháu đời nay phát huy, và em cũng tự
hào khi được học dưới mái trường mang tên một vị vua Lê Lợi
.
Hịch tướng sĩ là một trong những áng văn yêu nước tiêu biểu
của thời đại nhà Trần nói riêng, của mọi thời đại nói chung.
Áng văn ấy được kết tinh từ một trái tim yêu nước nồng thắm
của bậc anh hùng hào kiệt văn võ song toàn: Hưng Đạo


Vương Trần Quốc Tuấn.
Biểu hiện đầu tiên và mạnh mẽ nhất của tinh thần yêu nước
trong Hịch tướng sĩ là lịng căm thù giặc, là thái độ thề quyết
khơng đội trời chung với giặc thù.
Với lịng căm giận sục sơi, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần bản
chất và tội ác tàn bạo của kẻ thù. Huống chi ta cùng các
ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy
sứ giặc đi lại nghênh ngang ngồi đường, uốn lưỡi cú diều
mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ ,
để thỏa lịng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà
thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem

thịt mà ni hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau. Thật là tội ác
trời không dung, đất không tha!
Thái độ của Trần Quốc Tuấn đối với bọn giặc là thái độ khinh
bỉ cao độ. Lòng căm giận và khinh bỉ trào ra ngịi bút khiến
ơng mơ tả sứ giặc như những loài cầm thú xấu xa, bỉ ổi nhất:
cú diều, dê chó, hổ đói. Thái độ ấy là thái độ quyết không đội
trời chung, thề sống chết cùng quân thù.
Bày tỏ thái độ của mình với quân giặc, Trần Quốc Tuấn muốn
ba quân tướng sĩ cũng nuôi dưỡng lịng căm thù và ý chí giết
giặc như ơng. Nhớ lại thực tế lich sử: năm 1277 Sài Xuân đi
sứ, buộc ta lên tận biên giới đón rước, năm 1281 Sài Xuân đi
sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cổng chính của kinh thành,
quân sĩ canh cổng ngăn lại, bị hắn đánh toạc cả đầu. Vua sai
thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra đón tiếp, Xn nằm
khểnh khơng dậy. So sánh với thực tế lịch sử ấy sẽ thấy tác
dụng của lời hịch như đổ thêm dầu vào ngọn lửa căm hờn
của nhân dân ta.
Sau khi vạch rõ tội ác và bản chất của kẻ thù, Trần Quốc
Tuấn trực tiếp bày tỏ những tình cảm của mình: “ Ta thường
tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt
đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu
quân thù. Dẫu có trăm thân này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Đây là đoạn văn
biểu hiện tập chung nhất, cao độ nhất cho lòng yêu nước,


căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn, cũng là đoạn văn tiêu biểu
cho lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Càng đọc kĩ đoạn
văn ta càng thấm thía nỗi đau xót chân thành và mãnh liệt
của Trần Quốc Tuấn trước vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Tất

cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ơng
đều được đẩy tới cực điểm: Đau xót đến quên ăn, vỗ gối, tới
mức ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, căm giận sục sơi
đến độ muốn được xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân
thù. Càng đau xót bao nhiêu thì càng căm giận bấy nhiêu. Và
càng căm giận bao nhiêu thì càng quyết tâm chiến đấu hi
sinh, xả thân vì nước bấy nhiêu, dù có phải chết trăm ngàn
lần đau đớn, phơi thân ngoài nội cỏ, xác gói trong da ngựa
cũng vẫn cam lịng. Thật cao đẹp và xúc động biết bao tinh
thần và nghĩa cử ấy!
Càng yêu nước sâu sắc, hơn ai hết Trần Quốc Tuấn càng lo
lắng cho sự an nguy của đát nước. Sáu mươi vạn quân Mông
Cổ tinh nhuệ với thế mạnh như chẻ tre, đã làm mưa làm gió
khắp Á-Âu đang lăm le ngoài biên ải. Vận mệnh dân tộc đang
ngàn cân treo sợi tóc, thế mà lại có những tư tưởng hoặc dao
động cầu hịa, hoặc bàng quan vơ trách nhiệm, hoặc lo vun
vén cá nhân. Trong tình thế nước sơi lửa bỏng ấy, ruột gan vị
chủ tướng như có lửa đốt. Người anh hùng yêu nước đã biến
hành động cho đất nước. Ơng khéo tìm cách khích lệ, động
viên tướng sĩ. Ơng nhắc lại ân tình sâu nặng của mình đối với
tướng sí để nhắc nhở họ về sự đền ơn, đáp nghĩa về trách
nhiệm của kẻ làm tơi. Ơng nêu gương các trung thần nghĩa sĩ
để kích thích họ theo gương người xưa mà hành động. Ông
chỉ ra cho họ thấy nỗi nhục của chủ quyền đất nước bị chà
đạp: Triều đình bị giặc sỉ mắng, tướng triều đình phải hầu
giặc, nhạc Thái thường thì bị đem ra để đãi yến ngụy sư…để
kích động lịng tự trọng, tự tơn dân tộc.
Đứng trên cương vị một vị chủ soái, Trần Quốc Tuấn vừa chân
tình chỉ bảo vừa nghiêm khắc phê phán thái độ bang quan,
thờ ơ của tướng sĩ: Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà khơng

biết lo, thấy nước nhục mà ko biết thẹn, làm tướng triều đình
phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái
thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm…


Cũng đứng trên cương vị của một vị chủ soái, Trần Quốc Tuấn
vừa chân tình chỉ bảo vừa nghiêm khắc phê phán những thói
ăn chơi hưởng lạc tầm thường của tướng sĩ, vui trọi gà, cờ
bạc, thích rượu ngon, mê tiếng hát, ham săn bắn, lo làm
giàu, quyến luyến vợ con… Theo quan niệm của Trần Quốc
Tuấn, thái độ bàng quan khơng chỉ là sự thờ ơ nơng cạn mà
cịn là sự vong ân bội nghĩa trước mối ân tình của chủ tướng.
Sự ham chơi hưởng lạc không chỉ là vấn đề nhân cách mà
cịn là sự vơ trách nhiệm khi vận mệnh đất nước đang ngàn
cân treo sợi tóc. Trần Quốc Tuấn cũng chỉ rõ cho họ thấy hậu
quả tai hại khôn lường : nước mất nhà tan, thanh danh mai
một, tiếng xấu để đời, đó là cảnh đau xót biết chừng nào.
Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu
xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu
Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhắm để
đánh bạt những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp
đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng. Quyết chiến
quyết thắng kẻ thù chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là
thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng u nước trong
hồn cảnh lúc bấy giờ.
Nhiệt tình u nước sôi nổi của Trần Quốc Tuấn đã truyền
sang mọi người, đã thổi bùng lên ở họ ngọn lửa yêu nước và
hành động. Người ta kể lại rằng, ngay sau khi bài Hịch được
cơng bố, cả đêm hơm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ
mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ Sát

Thát, họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc,
trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.
Nghìn năm sau tinh thần của bài Hịch vẫn nồng nàn trong
tim mỗi dân đất Việt.





×