Bài giảng môn
Kiểm toán căn
bản
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Chương 1
BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN
MỤC TIÊU CHƯƠNG :
Sau khi nghiên cứu chương này, người học có thể:
- Làm rõ các khái niệm liên quan đến các từ khóa sau : kiểm tra, kiểm soát,
thanh tra, nổi kiểm, ngoại kiểm, hiệu quả, hiệu năng
- Hiểu được phương pháp và vai trò của kiểm tra kế toán trong xã hội ngày nay.
- Hiểu rõ và nắm bắt được các thông tin, số liệu liên quan đến lịch sử hình thành
và phát triển của kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam.
- Nắm rõ các quan điểm khác nhau về khoa học kiểm toán trong từng thời kỳ
phát triển
- Nắm được bản chất và chức năng của kiểm toán.
- Phân tích và hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
THỜI LƯỢNG MÔN HỌC: 8h ( 5LT + 1BT + 2TL)
NỘI DUNG:
I.LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN
1.Kiểm tra, kiểm soát một chức năng của quản lý
1.1Khái niệm quản lý
1.1.1. Khái niệm quản lý:
Quản lý là một lĩnh vực phổ biến, phong phú và phức tạp. Một nhà quản lý giỏi
phải biết vận dụng một cách tổng hợp các điều kiện xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa
vào trong quản lý.
Quản lý là quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ
sở các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Công tác quản lý bao gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
- Chủ thể quản lý: là những chủ thể tiến hành hoạt động quản lý bằng cách đề ra
các quyết định, các quy chế và các văn bản mang tính pháp lý.
- Khách thể quản lý: khách thể của quản lý đó là các doanh nghiệp, các tổ chức,
các cá nhân chiu sự tác động của hoạt động quản lý.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
2
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
- Thông tin và các tín hiệu thông báo: đây là yếu tố đóng vai trò trong việc giúp
chủ thể quản lý truyền đạt quyết định và thực hiện các quyết định đó đến các khách thể
quản lý.
1.1.2. Các giai đoạn của quản lý:
Mức độ phức tạp của hoạt động quản lý tùy thuộc vào quy mô của từng tổ chức,
từng đơn vị và trong suốt quá trình đó, kiểm tra, kiểm soát luôn luôn tồn tại trước,
trong và sau mỗi hoạt động. Về cơ bản, quy trình quản lý có thể tóm tắt qua 3 giai đoạn
sau :
- Lập kế hoạch (định hướng)
- Tổ chức thực hiện kế hoạch
- Chỉ đạo thực hiện kế hoạch
Như vậy, hoạt động kiểm tra, kiểm soát không phải là một pha hay một giai đoạn
của quá trình quản lý mà là một chức năng gắn với mọi pha hay giai đoạn của quá trình
đó. Nó sinh ra từ nhu cầu của quản lý và là một phần thiết yếu của quá trình đó. Nó hòa
vào cả ba giai đoạn của quy trình quản lý: lập kế hoạch (định hướng), tổ chức thực hiện
và chỉ đạo thực hiện.
Với việc đề ra các quyết định, quy chế, các văn bản pháp lý, tổ chức thực hiện,
tiến hành kiểm tra, kiểm soát lại việc thực hiện nhằm mục đích đạt hiệu quả cao trong
quản lý. Như vậy, muốn quản lý đạt hiệu quả thì kiểm tra, kiểm soát là một yếu tố
không thể thiếu. Kiểm tra, kiểm soát giúp cho các cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời
việc triển khai thực hiện các quyết định ban hành, xem xét các quyết định đó có đảm
bảo thời gian thực hiện, tính thách thức, khả thi và đo lường được với mục tiêu đề ra
hay không, để từ đó chấn chỉnh bổ sung kịp thời các quy chế, các văn bản không phù
hợp với tình hình mới. Ngoài ra, thông qua kiểm tra, kiểm soát nhà quản lý có thể kịp
thời ngăn chặn và sửa chữa các sai sót trong việc ra quyết định.
Nói cách khác, hoạt động kiểm tra, kiểm soát giúp nhà quản lý tiết kiệm chi phí,
sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo mang lại hiệu quả cao
nhất trên cơ sở các mục tiêu đề ra.
Như vậy, kiểm tra, kiểm soát được sinh ra nhằm mục đích làm cho hoạt động
quản lý có hiệu quả. Nó hòa vào tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý.
Cụ thể chúng ta sẽ phân tích chức năng của kiểm tra trong từng giai đoạn của quá
trình quản lý :
♣ Giai đoạn định hướng (lập kế hoạch):
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
3
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Ở giai đoạn này chức năng kiểm tra hướng vào việc soát xét và dự báo về các
nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, để từ đó xây dựng các kế hoạch phù hợp.
Mục tiêu đặt ra phải phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị và tình hình kinh tế,
xã hội. Để mục tiêu đặt ra được thành công thì mục tiêu đó phải thỏa mãn bốn yếu tổ
cơ bản sau:
- Tính thách thức: yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cao
trong một khoảng thời gian nhất định để từ đó cố gắng thực hiện và đạt được mục tiêu
đề ra. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại thời điểm
đặt ra mục tiêu .
- Tính khả thi: mục tiêu đặt ra phải phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị, phù
hợp với nguồn lực hiện có tại đơn vị.
- Tính đánh giá, đo lường và có thể định lượng được: tức mục tiêu đặt ra phải có
thể đo lường, định lượng được bằng các con số cụ thể.
- Thời gian thực hiện: mục tiêu đặt ra phải gắn liền với một khoảng thời gian cụ
thể. Thời gian thực hiện có thể nhỏ hơn 1 năm (mục tiêu ngắn hạn) hoặc lớn hơn 1 năm
(mục tiêu dài hạn). Việc xác định thời gian giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí và nhanh chóng hoàn tất mục tiêu đặt ra.
Sau khi xây dựng và kiểm tra các chương trình, kế hoạch doanh nghiệp có thể đưa
ra quyết định cuối cùng để từ đó tổ chức thực hiện.
♣ Giai đoạn tổ chức thực hiện
Ở giai đoạn này, kiểm tra hướng vào việc tập trung, bố trí nguồn nhân lực thích
hợp để từ đó kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu xét trên điều kiện hiện tại
của doanh nghiệp và điều kiện kinh tế xã hội, đồng thời thông qua đó đánh giá sự kết
hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu.
♣ Giai đoạn chỉ đạo thực hiện
Ở giai đoạn này, tập trung hướng vào việc kiểm tra diễn biến và kết quả của các
quá trình để từ đó điều hòa các mối quan hê, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên
quan điểm tối ưu hóa kết quả các hoạt động.
Như vậy, trong từng giai đoạn hoạt động quản lý muốn đạt được hiệu quả thì cần
gắn liền với chức năng kiểm tra, kiểm soát.
Tuy nhiên, mức độ phức tạp của hoạt động kiểm tra, kiểm soát phụ thuộc rất
nhiều yếu tố, đặc biệt là quy mô của doanh nghiệp. Nếu bộ máy quản lý giản đơn thì
hoạt động kinh doanh ở đó giản đơn. Ngược lại, nếu ở đó bộ máy quản lý phức tạp,
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
4
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
chặt chẽ thì hoạt động quản lý ở đó có quy mô tương đối rộng lớn. Như vậy, lúc đó ở
mức độ cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát được tách ra thành một hoạt động độc lập
và được thực hiện bằng hệ thống chuyên môn độc lập.
Kết luận:
Từ tất cả những điều phân tích ở trên chúng ta có thể rút ra kết luận: kiểm tra,
kiểm soát là một chức năng của quản lý.
Kiểm tra, kiểm soát có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Một là, kiểm tra gắn liền với quản lý, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động. Ở
đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra.
- Hai là, quản lý gắn liền với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể… Khi các
điều kiện tiền đề nói trên thay đổi thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi theo.
- Ba là, kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Khi nhu cầu
kiểm tra chưa nhiều và chưa phức tạp, kiểm tra được thực hiện đồng thời với chức
năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất. Trái lại, khi nhu cầu thay đổi tới
mức độ cao kiểm tra cũng cần tách ra một hoạt động độc lập và đuộc thực hiện bằng
một hệ thống chuyên môn độc lập.
Hoạt động kiểm tra phải được tiến hành bởi nhũng chủ thể quản lý có năng lực,
kinh nghiệm và khả năng ngoại giao tốt. Ngoài ra, những chủ thể quản lý này còn phải
có khả năng thẩm định các thông tin trên báo cáo, từ đó xem xét các thông tin này có
đảm bảo tính trung thực, khách quan, có phản ánh đúng tình hình kinh doanh hiện có
tại đơn vị. Kết quả kiểm tra không chỉ phản ánh tính cách, năng lực của nhà quản lý mà
nó còn ảnh hưởng đến uy tín của đơn vị.
1.2 Cách thức thể hiện của kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý:
Kiểm tra, kiểm soát được sinh ra từ nhu cầu quản lý, nhưng do hoạt động quản lý
đa dạng và phong phú nên kiểm tra cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
tùy thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền
thống văn hóa và những điều kiện kinh tế xã hội khác của mỗi nơi trong từng thời kỳ
lịch sử. Song trên thưc tế chức năng kiểm tra chủ yếu được phân theo hai lĩnh vực chủ
yếu sau: trong các cấp quản lý và trong các loại hình hoạt động.
1.2.1Trong các cấp quản lý
Trong nền kinh tế có rất nhiều mô hình quản lý khác nhau tùy thuộc vào bộ máy
Nhà nước ở mỗi quốc gia nhưng chung nhất người ta thường phân thành quản lý vĩ mô
và quản lý vi mô.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
5
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
+ Cấp quản lý vĩ mô (cấp Nhà nước)
Nói đến tầm vĩ mô là nói đến cơ quan Nhà nước. Nhà nước vừa là chủ sở hữu,
vừa là người điều tiết mọi hoạt động cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong nền
kinh tế, Nhà nước tham gia vào việc quản lý, phát triển kinh tế, tham gia vào phân phối
lần đầu và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Nhà nước có
nghĩa vụ kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp, các đơn vị trong nền kinh tế. Nghĩa vụ
đó thông qua việc kiểm tra dưới hai hình thức: kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp.
- Kiểm tra trực tiếp: đây là hình thức mà Nhà nước trực tiếp tiến hành kiểm tra
thông qua bộ máy chuyên môn của Nhà nước. Đối tượng chịu sự kiểm tra đó là các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Mục đích của việc kiểm tra này là cung cấp các
thông tin lại cho Nhà nước, từ đó giúp Nhà nước điều phối nền kinh tế.
Ở nước ta, Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu trực tiếp, người giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân sẽ tiến hành kiểm tra các nguồn lực, mục tiêu, kế hoạch,
định mức, chương trình, quá trình thực hiện và kết quả thực hiện của các đơn vị mình,
kiểm tra tính trung thực, đúng đắn của các thông tin cũng như tính pháp lý thực hiện
các nghiệp vụ, từ đó đưa ra các chính sách phát triển phù hợp.
Việc kiểm tra của Nhà nước không có thời gian quy định cụ thể, có thể thực hiện
thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất. Tính chất của kiểm tra trực tiếp đó là có ngay
các kết luận, đôi khi có ngay các quyết định điều chỉnh, xử lý. Công việc kiểm tra này
gọi là thanh tra.
- Kiểm tra gián tiếp: đây là hình thức mà Nhà nước tiến hành kiểm tra thông qua
kết quả của các chuyên gia hay một tổ chức kiểm tra độc lập mà không trực tiếp tham
gia vào cuộc kiểm tra. Mục đích chính của kiểm tra gián tiếp là giúp Nhà nước thực
hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách pháp luật phù hợp với điều
kiện thực tế.
Tính chất của việc kiểm tra gián tiếp đó là việc kiểm tra thông qua một tổ chức
bên ngoài doanh nghiệp hoặc các chuyên gia để từ đó điều chỉnh, xử lý sai phạm gọi là
ngoại kiểm
+ Cấp quản lý vi mô (cấp đơn vị cơ sở)
Nói đến tầm vi mô là đề cập đến các doanh nghiệp, các tổ chức, các đơn vị cơ sở
đang hoạt động trong nền kinh tế. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiêp trước môi trường cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi các doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động của mình phải tăng cường rà soát nguồn lực, xem xét lại các dự báo mục
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
6
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
tiêu, các định mức… để từ đó kịp thời đưa ra phương hướng phát triển kinh doanh phù
hợp với tình hình thực tế tại đơn vị cũng như nhu cầu của nền kinh tế.
Công việc kiểm tra được thực hiện bởi những người bên trong doanh nghiệp
nhằm điều chỉnh kịp thời các sai phạm trên cơ sở đảm bảo “hiệu quả hoạt động kinh
doanh và hiệu năng quản lý” gọi là nội kiểm
1.2.2 Trong các loại hình hoạt động
Trong nền kinh tế, cũng có nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Song theo mục
tiêu của các hoạt động, người ta thường phân thành hai loại cơ bản sau: hoạt động kinh
doanh và hoạt động sự nghiệp.
+ Hoạt động kinh doanh
Đây là hoạt động mà lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, lấy lợi nhuận làm mục tiêu
trong kinh doanh, coi lợi nhuận là thước đo chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Mục tiêu chủ yếu của hoạt động này đó là làm sao phải tối thiểu hóa chi phí và tối đa
hóa lợi nhuận. Do đó, kiểm tra sẽ hướng vào việc xem xét tính hiệu quả trong việc sử
dụng các nguồn lực để sản xuất kinh doanh như vốn, lao động, tài nguyên…
+ Hoạt động sự nghiệp
Nếu hoạt động kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu trong phương
hướng kinh doanh của mình, thì ngược lại hoạt động sự nghiệp lại lấy lợi ích cộng
đồng, hướng về việc phục vụ xã hội làm mục tiêu hàng đầu. Do vậy, kiểm tra hướng
vào việc xem xét sự hữu hiệu của quản lý hay nói cách khác có thực hiện tốt các nhiệm
vụ xã hội trên cơ sở tiết kiệm chi phí.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm tra, kiểm soát.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý, nó được sinh ra từ
nhu cầu quản lý. Nhưng quản lý lại gắn với cơ chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Chính vì thế, kiểm tra, kiểm soát cũng gắn liền với những tác động của các yếu tố trên.
- Về pháp lý (legal): bất kể quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt ra luật pháp
nhằm kiểm soát nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói
riêng. Doanh nghiệp nào tồn tại trong nền kinh tế đều phải hoạt động theo khuôn khổ
pháp luật của quốc gia đó. Chính vì vậy, kiểm tra, kiểm soát cũng phải dựa trên hệ
thống pháp luật. Khi pháp luật thay đổi thì kiểm tra, kiểm soát cũng phải thay đổi theo.
- Về xã hội (social): Khi nhận thức xã hội thấp thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát
phát triển ở mức thấp. Ngược lại, khi nhận thức xã hội phát triển hơn thì kiểm tra, kiểm
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
7
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
soát tiến tới một mức độ khác. Nói cách khác, hoạt động kiểm tra, kiểm soát phát triển
tương ứng với trình độ nhận thức của con người.
- Về cơ chế kinh tế (economic mechanism): trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, kiểm tra kiểm tra do bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện vì Nhà nước
vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý nền kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế, hoạt dộng kiểm tra, kiểm soát cũng phát
triển dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ngoài ra, kiểm tra, kiểm soát còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong nền kinh
tế như lối sống, văn hóa, kinh tế…
Như vậy, kiểm tra, kiểm soát là một chức năng tất yếu của quản lý. Ở những khu
vực khác nhau thì kiểm tra, kiểm soát khác nhau. Ở đâu xã hội càng phát triển thì ở đó
sẽ kéo theo sự phát triển không ngừng của hoạt động kiểm tra, kiểm soát.
2. Kiểm tra kế toán
2.1 Khái quát chung về kiểm tra kế toán
Trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn luôn tồn tại
hoạt động tài chính, tài chính luôn là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, tổng thể các nội
dung và giải pháp tài chính, tiền tệ. Tài chính không chỉ đóng vai trò khai thác nguồn
lực mà còn giúp cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó.
Và một trong các công cụ đắc lực trong việc quản lý kinh tế, tài chính đó là hạch toán
kế toán. Nó giúp cho các doanh nghiệp điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Nó không chỉ cần thiết cho các hoạt động tài chính của Nhà nước mà còn là công cụ
cần thiết cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Nếu trước đây hoạt động kế toán chỉ ở mức độ đơn giản, chủ yếu là giữ sổ và ghi
chép sổ sách kế toán thì ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, ngày càng có
nhiều của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và phức tạp thì việc
kiểm tra, kiểm soát về kế toán ngày càng được quan tâm với mức độ cao hơn. Nói cách
khác, kiểm tra kế toán đã không còn thuần túy như trước, lúc này kế toán phải tiến
hành tổ chức hệ thống thông tin, đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin có ích
cho việc ra quyết định kinh tế.
Để thực hiện hai chức năng cơ bản của mình: thông tin và kiểm tra, kế toán cần có
một hệ thống phương pháp kế toán riêng biệt. Với một hệ thống kế toán riêng, kế toán
có thể đem lại những thông tin trung thực từ đó đảm bảo quyền lợi cho những đối
tượng cần quan tâm. Mặt khác, nó còn giúp cho quản trị đưa ra các quyết định đúng
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
8
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
đắn trong việc lựa chọn các phương hướng kinh doanh cho doanh nghiệp. Chính vì lý
do đó mà công tác kiểm tra kế toán ngày càng được chú trọng ở mọi khâu, mọi phần
hành, mọi lĩnh vực.
Kiểm tra kế toán là một hệ thống công việc được tiến hành dựa trên các phương
pháp và kỹ thuật riêng biệt nhằm đảm bảo tính trung thực, hợp lý của các thông tin tài
chính đồng thời ngăn và chấn chỉnh các sai lầm. Thông qua việc kiểm tra, một mặt Nhà
nước có thể đưa ra phương hướng phát triển nền kinh tế trên tầm vĩ mô, một mặt doanh
nghiệp có thể đưa ra được phương án kinh doanh đạt hiệu quả trong từng thời kỳ nhất
định.
2.2 Vai trò của kiểm tra kế toán
Ngày nay kiểm tra kế toán thường hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Kiểm tra việc phản ánh, ghi chép của kế toán chính xác, kịp thời đầy đủ, đúng sự
thật, rõ ràng, đúng chế độ, chứng từ, sổ sách phản ánh đúng nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá
trình kinh doanh.
- Kiểm tra việc quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, phát hiện ngăn chặn các vi phạm
tài chính
Nhìn chung, kiểm tra kế toán có những vai trò cơ bản sau:
- Thúc đẩy các cơ quan, tổ chức củng cố bộ máy tổ chức kế toán, nâng cao tinh
thần trách nhiệm của kế toán trưởng.
- Thúc đẩy kế toán thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Phản ánh tình hình tài chính tại đơn vị giúp cho nhà quản lý có thể đưa ra những
quyết định kịp thời.
- Phục vụ kịp thời công tác kiểm tra kế toán cho các tổ chức thanh tra, cơ quan
thuế và tổ chức kiểm toán.
- Phản ánh được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp Nhà nước đưa
ra các biện pháp điều tiết nền kinh tế phù hợp bằng cách sửa đổi, bổ sung và ban hành
các văn bản.
2.3 Các phương pháp kế toán
Một trong những đặc trưng cơ bản của kế toán đó là chức năng của kế toán: thông
tin và kiểm tra không chỉ trên cả chu trình kế toán mà còn ngay trên từng yếu tố của
chu trình đó. Nó được thể hiện cụ thể qua các yếu tố sau:
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
9
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
+ Phương pháp chứng từ
- Chức năng thông tin: các chứng từ truyền đạt các thông tin về các sự kiện kinh
tế phát sinh trong đơn vị, thông tin về tình hình tài chính đơn vị.
- Chức năng kiểm tra: với vai trò minh chứng về các sự kiện kinh tế đã xảy ra,
việc kiểm tra chứng từ sẽ giúp cho kế toán xem xét lại tính hợp lý, hợp lệ và hợp pháp
của chứng từ.
+ Phương pháp đối ứng tài khoản
- Chức năng thông tin: phương pháp này cung cấp những thông tin về sự vận
động và phân loại tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu.
- Chức năng kiểm tra: kiểm tra các quan hệ cân đối, xem xét một nghiệp vụ kinh
tế phát sinh có sự cân đối giữa tổng phát sinh bên Nợ bằng tổng phát sinh bên Có.
+ Phương pháp tính giá
- Chức năng thông tin: phương pháp này đòi hỏi kế toán phải thực hiện đo lường
về sự biểu hiện và tổng hợp số tiền hoặc chi phí dựa theo những nguyên lý kế toán về
tất cả tài sản cũng như nguồn hình thành tài sản đó.
- Chức năng kiểm tra: đối chiếu giữa số liệu tổng hợp và các thành phần chi tiết
cấu tạo nên con số tổng hợp đó. Kiểm tra chi phí, tài sản và nguồn hình thành nên tài
sản.
+ Phương pháp tổng hợp- cân đối
- Chức năng thông tin: cung cấp các thông tin tổng hợp về thình hình tài chính,
kết quả kinh doanh, dòng tiền của đơn vị, có ý nghĩa thiết thực đối với người sủ dụng
thông tin.
- Chức năng kiểm tra: kiểm tra kết quả cân đối trong các thông tin kinh tế như:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Như vậy, kiểm tra là thuộc tính cố hữu của kế toán. Thông qua đó các kiểm toán
viên có thể kiểm tra chéo, đối chiếu số liệu giữa các phần hành.
Nhưng đến những năm 30 của thế kỷ 20, đứng trước sự sụp đổ hàng loạt của các
công ty tài chính, các công ty bất động sản ở Bắc Mỹ, kiểm tra kế toán đã bộc lộ
những nhược điểm nhất định của mình và không đáp ứng được nhu cầu mới của nhà
quản lý.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
10
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi có một hoạt động đảm bảo cung cấp thông tin đầy
đủ, chính xác, trung thực và có khả năng kiểm tra được các hoạt động tài chính, do đó
hoạt động kiểm toán đã ra đời nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của xã hội.
3. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán
3.1 Lịch sử ra đời và phát triển của kiểm toán trên thế giới
Trong tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn luôn tồn tại hoạt
động tài chính. Đây được xem là hoạt động đòi hỏi sự kiểm tra ở mức độ cao nhất,
thường xuyên cao nhất. Nó gắn liền với mọi lĩnh vực (sản xuất hay dịch vụ), với mọi
mục tiêu (kinh doanh hay sự nghiệp công cộng), và không phân biệt sở hữu (công cộng
hay tư nhân).
Việc kiểm tra hoạt động tài chính được thực hiện bởi các kế toán tài chính tại đơn
vị thông qua hệ thống thông tin và kiểm tra tình hình tài sản bằng phương pháp kế toán
(phương pháp chứng từ, phương pháp đối ứng tài khoản, phương pháp tính giá, phương
pháp tổng hợp- cân đối), và chức năng thông tin và kiểm tra luôn tồn tại trên mỗi
phương pháp.
Tuy nhiên, không phải thời kỳ nào kiểm tra kế toán cũng đáp ứng được nhu cầu
quản lý. Minh chứng cho điều này là bằng sự sụp đổ hàng loạt của các công ty tài
chính, các công ty bất động sản ở Bắc Mỹ vào cuối những năm 20 của thập kỷ 20. Như
vậy, kiểm tra kế toán đã bắt đầu bộc lộ những khuyết điểm của nó và mầm mống của
kiểm toán cũng bắt đầu xuất hiện từ đây, bước đầu có thể hiểu là kiểm tra độc lập về kế
toán.
Lý giải cho điều này có hai nguyên nhân cơ bản sau:
- Một là, kế toán chỉ phản ánh những thông tin xảy ra trong quá khứ mà không
phản ánh được nhãn hiệu hàng hóa và năng lực con người tại thời điểm hiện tại và
trong tương lai.
- Hai là, do con người kế toán, kế toán viên là những người bên trong nội bộ
doanh nghiệp, chiu sự áp lực từ nhà quản lý.
Xuất phát từ nhu cầu đó đã tạo đà cho hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển
đến ngày nay nhằm đảm bảo cho người sử dụng thông tin có thể có được thông tin
trung thực và hợp lý.
Thông qua sự phát triển kiểm toán qua từng thời kỳ, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai
trò của kiểm toán trong xã hội ngày nay:
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
11
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
- Vào thời kỳ cổ đại:
Khi xã hội còn sơ khai, của cải xã hội chưa dư thừa, kế toán được thực hiện chủ
yếu bằng các hình thức khắc dấu trên sợi dây, thân cây, lá cây… Hình thức này chỉ phù
hợp trong giai đoạn đầu của xã hội do lúc này trình độ văn minh con người còn kém
phát triển, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên thông qua săn bắt và
hái lượm, người sở hữu tài sản, người quản lý tài sản là một. Chính vì vậy, có thể nói
trong thời kỳ này nhu cầu kiểm tra còn ít và ở mức độ tương đối đơn giản.
Nhưng đến cuối thời kỳ cổ đại, khi xã hội phát triển, của cải dư thừa nhiều, khi
con người tìm được nguồn thức ăn mới thông qua trồng trọt và chăn nuôi, khi họ không
còn hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên như trước thì họ trở nên khôn ngoan hơn. Lúc
này, người sở hữu tài sản và người quản lý tài sản tách rời nhau. Người sở hữu tài sản
bắt đầu muốn tìm một bên độc lập thứ ba để kiểm tra các số liệu mà người quản lý tài
sản cung cấp, xem xét sự trung thực và chính xác của các số liệu đó. Hình thức kế toán
giản đơn đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế và không còn phù hợp với nhu cầu của quản
lý. Và đó cũng là lý do một hình thức mới ra đời- hình thức kiểm tra độc lập mà khởi
nguồn là ở La Mã, Anh và Pháp.
+ Ở La Mã:
Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, các nhà cầm quyền đã tuyển dụng những
quan chức có chuyên môn chuyên trình bày lại kết quả kiểm tra trước một buổi họp
công khai. Nhiệm vụ của những quan chức này là kiểm tra sự chính xác, trung thực các
số liệu do người quản lý tài sản cung cấp, từ đó đưa ra ý kiến chấp nhận hay sửa đổi bổ
sung. Vì vậy, từ “Audit” trong tiếng Anh có gốc từ Latinh “Audire” có nghĩa là nghe
có nguồn gốc lịch sử từ đây.
+ Ở Anh:
Vua Eduoard Đệ nhất cho các nam tước quyền tuyển dụng các kiểm tra viên
(Auditors), theo văn kiện của Nghị viện. Ngoài ra, bản thân nhà vua cũng cho đối chiếu
lại tài khoản thuộc di chúc của cố hoàng hậu Eleonor của Ngài.
+ Ở Pháp:
Học hỏi tiền lệ của La Mã cổ đại, vua Charlemange (768-814) đã tuyển dụng các
quan chức cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là việc giám sát các
nghiệp vụ tài chính của các quan chức địa phương. Sau đó, các quan chức này có
nhiệm vụ trình bày kết quả giám sát được trước Hoàng đế và các vị quan cận thần. Đến
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
12
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
thế kỷ thứ III sau Công nguyên, ở Pháp đã có chuyên luận “Quản hạt quan án” khuyên
các vị nam tước hằng năm đọc công khai báo cáo về tài sản trước các kiểm toán viên.
- Từ thời Trung đại trở đi:
Đứng trước những chuyển biến phức tạp về tình hình chính trị, xã hội, tôn giáo…
thì hoạt động ngoại thương, trao đổi hàng hóa cũng có những chuyển biến đáng kể. Các
thương nhân ra sức tìm kiếm thị trường mới phục vụ cho việc trao đổi hàng hóa. Lúc
này, hình thức kế toán cũng chuyển mình để phù hợp với xu hướng đó bằng việc hai
bên giao dịch phải ghi sổ để hợp thức quan hệ đối chiếu như một hình thức kiểm tra kế
toán, tránh tình trạng gian lận.
- Đặc biệt từ thế kỷ thứ XVI trở đi:
Sự xuất hiện của kế toán kép đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của hình
thức kế toán do nhà toán học người Ý Luca Paciola tìm ra. Hệ thống kế toán kép đã
làm cho hệ thống kế toán hoàn thiện hơn bởi nó đã đáp ứng được hai nhiệm vụ cơ bản
lúc bấy giờ, đó là nhu cầu quản lý và an toàn tài sản.
- Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ thứ XX:
Hệ thống kế toán ngày càng hoàn thiện và phát triển đến mức tinh xảo trên cả hai
phương diện: phương pháp kế toán và hệ thống thông tin. “Nó” đã ngày càng đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của quản lý.
Vào những năm trước thế kỷ XX (năm 1900), kiểm toán có nhiệm vụ xác định
tính chính xác của thông tin tài chính và đảm bảo các thông tin được thực hiện đúng
pháp luật, nội quy, quy chế của đơn vị. Chủ thể kiểm toán trong giai đoạn này chủ yếu
là kiểm toán viên Nhà nước và kiểm toán viên nội bộ.
Đứng trước cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Châu Âu, nền kinh tế đã có những
bước chuyển mình cả về lượng và chất. Nhiều thành phần kinh tế bắt đầu xuất hiện,
kéo theo nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Cùng với sự phát triển của thị
trường, sự tích tụ, tập trung tư bản đã làm cho sự phát triển các doanh nghiệp và tập
đoàn ngày càng được mở rộng. Lúc này, sự tách rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và
người quản lý, người làm công ngày càng xa, đã đặt ra cho ông chủ một cách thức
kiểm soát mới. Đó là phải dựa vào sự kiểm tra của những người chuyên nghiệp hay các
kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời việc sử dụng các kiểm toán viên bên ngoài còn
tạo niềm tin cho các chủ nhà băng trong việc thẩm định các báo cáo tài chính. Vì vậy,
để đáp ứng những nhu cầu đó, kiểm toán kế toán đã ra đời (kiểm toán độc lập), mầm
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
13
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
mống của kiểm toán bắt đầu xuất hiện. Nhiệm vụ của kiểm toán độc lập lúc này là phải
cung cấp những thông tin trung thực, hợp lý cho các đối tượng quan tâm.
- Từ những năm 30 của thế kỷ XX:
Đứng trước sự phá sản hàng loạt của các tổ chức tài chính, tình trạng khủng
hoảng kinh tế và suy thoái về tài chính ngày càng lan rộng là dấu hiệu chứng minh cho
sự yếu kém của kế toán và kiểm tra so với nhu cầu quản lý mới. Chức năng tự kiểm tra
đã không còn phù hợp với xu thế của thời đại, đặc biệt đối với các tổ chức tài chính,
doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và xí nghiệp công cộng. Lúc
này, một yêu cầu cấp thiết được đặt ra là phải có sự kiểm tra ngoài kế toán. Sự trung
thực của báo cáo tài chính đã trở thành vấn đề được đặt lên hàng đầu trong việc lựa
chọn các quyết định đầu tư tài chính và cũng chính kế từ đây, kiểm toán bắt đầu thời kỳ
thịnh vượng của mình.
+ Ở Mỹ:
Kiểm toán phát triển thành môn khoa học độc lập sau cuộc đại khủng hoảng tài
chính năm 1929-1934. Năm 1934, Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC: Securities
and Exchange Commission) đã được thành lập và ban hành quy chế kiểm toán viên bên
ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA:
American Institute of Centifield Public Accountants) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về
báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty.
Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã bắt đầu
xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ với tên gọi là
kiểm toán nội bộ. Năm 1941, trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ được thành
lập (IIA: Institute of Internal Auditors) và công bố việc xác định chính thức về chức
năng của kiểm toán viên nội bộ.
- Từ những năm 50 của thế kỷ XX (năm 1950):
Từ những năm 1950, hoạt động ngoại kiểm và nội kiểm ngày càng được chú
trọng. Về ngoại kiểm, cấu trúc, phương pháp và kỹ thuật được bổ sung liên tục. Về nội
kiểm, việc kiểm tra không chỉ còn giới hạn trong lĩnh vực tài chính mà đã mở rộng
sang việc đối soát và đánh giá cả hệ thống quản lý của doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực công cộng, đã bắt đầu xuất hiện nhiều tổ chức kiểm toán của
Chính phủ trong các lĩnh vực quân đội, hành chính và xí nghiệp công cộng. Năm 1950,
Văn phòng Tổng kế toán trưởng (GAO: General Accounting Office) đã có vai trò quyết
định trong việc mở rộng địa bàn kiểm toán. Việc công bố các chuẩn mực của GAO
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
14
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
năm 1972 và rà soát lại năm 1981 một mặt đã khẳng định lợi ích của kiểm toán trong
khu vực phi thương mại, mặt khác đã khẳng định quan điểm và phương pháp mới để
đánh giá hiệu quả của các nghiệp vụ phi thương mại.
+ Ở Pháp:
Việc kiểm tra một cách độc lập được thực hiện từ các tổ chức bên ngoài do những
người có chuyên môn tương xứng thực hiện đã được xác lập và thông qua bởi Đạo luật
về các công ty thương mại ngày 24/7/1996. Năm 1960, kiểm toán nội bộ ở Pháp đã
được hình thành chính thức ở những công ty con thuộc tâp đoàn ngoại quốc, các tổ
chức ngân hàng. Việc xuất hiện của kiểm toán viên nội bộ (Internal Auditors) là một
hiện tượng tất yếu trước sự phát triển ngày càng rộng lớn của các tập đoàn nhằm đảm
bảo sự tăng cường ổn định và hiệu quả của các xí nghiệp. Năm 1965, Hội kiểm soát
viên nội bộ của Pháp được thành lập. Đến năm 1973 thì đổi tên thành Viện nghiên cứu
kiểm toán viên và kiểm soát viên nội bộ của Pháp (IFACI).
Kiểm toán cũng có những bước phát triển trong khu vực công cộng, lúc đầu nằm
trong Ủy ban đối chiếu tài khoản của các xí nghiệp công (Commission de verification
des comptes entreprise publiques) cho đến năm 1926. Từ năm 1926 trở đi, Tòa thẩm kế
(Cour des comptes) được Đạo luật Tài chính sửa đổi ngày 22/6/1976 giao việc đối
chiếu tài khoản và quản lý các xí nghiệp công cộng.
- Những năm đầu thế kỷ XXI
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
kiểm toán xuất phát từ nhu cầu kỳ vọng về sự lành mạnh hóa nền tài chính của mỗi
quốc gia và sự hội nhập chung vào nền kinh tế toàn cầu của tất cả các nền kinh tế các
nước trên thế giới.
Các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán của các quốc gia xuất hiện và
phát triển vượt bậc cả về chất lượng lẫn quy mô mà tiêu biểu trong số đó phải kể đến
Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA), Viện kế toán công chứng Mỹ (ACPA), viện
kế toán Australia (CPAA)
Những năm đầu của thế kỷ 21 đánh dấu sự thăng hoa và phát triển của nhiều tập
đoàn kiểm toán trên khắp thế giới trong đó phải kể đến Big Four (Trước năm 2002 là
Big Five khi chưa xảy ra sự kiện tập đoàn kiểm toán Arthur Andersen bị quốc hội Mỹ
tước bỏ giấy phép hành nghề bởi sự cố Enron)
Các tập đoàn này thay nhau thống trị thị phần kiểm toán toàn cầu tận dụng vào
các phương thức hiện diện thương mại theo tiêu chuẩn của tổ chức Thương mại thế
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
15
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
giới về dịch vụ (GATS). Cho đến thời điểm hiện tại số liệu về sự phát triển của một số
các tập đoàn kiểm toán này được thu thập như sau :
Firm Revenues Employees Fiscal Year
PricewaterhouseCoopers [1 $26.2bn 163,000 2009
Deloitte Touche Tohmatsu [2] $26.1bn 169,000 2009
Ernst & Young [3] $21.4bn 144,441 2009
KPMG [4] $20.11bn 135,000 2009
(Nguồn : />***
Từ lịch sử phát triển của kiểm toán, chúng ta càng không thể phủ nhận sự cần
thiết của kiểm toán trong xã hội ngày nay. Hoạt động kiểm toán cung cấp cho các
doanh nghiệp những thông tin trung thực, hợp lý giúp cho nhà quản trị đưa ra các quyết
định kinh doanh kịp thời. Hoạt động kiểm toán có thể tồn tại ngay bên trong doanh
nghiệp thông qua các kiểm toán viên nội bộ. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan
trong quá trình kiểm tra, việc kiểm toán có thể được thực hiện từ các tổ chức bên ngoài
doanh nghiệp do các kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện.
Như vậy, kiểm toán đã ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan do nhu cầu
kiểm tra độc lập các số liệu kế toán và thực trạng tài chính của các doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển của mình, kiểm toán đã không còn giới hạn ở lĩnh vực kế
toán- tài chính mà nó còn lấn sang các lĩnh vực khác như kiểm soát, đánh giá cả hệ
thống quản lý của doanh nghiệp, không chỉ còn ở các doanh nghiệp mà ngay cả đơn vị
sự nghiệp công cộng thông qua việc đánh giá hiệu năng quản lý của các đơn vị này.
3.2 Lịch sử phát triển của kiểm toán ở nước ta những năm vừa qua cho dến nay
Nếu trên thế giới thuật ngữ kiểm toán xuất hiện từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ
thứ III trước Công nguyên và bắt đầu phát triển thành một môn khoa học độc lập sau
cuộc đại khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 1929-1934, thì tại Việt Nam kiểm toán chỉ
mới được nhắc đến nhiều và được tìm hiểu vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Việc
kiểm toán phát triển tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại mà nguyên
nhân là bắt đầu từ hoạt động kiểm tra nói chung và kiểm tra kế toán nói riêng.
Hoạt động kiểm toán đã được quan tâm ngay từ thời kỳ bắt đầu xây dựng đất
nước. Khi đất nước phát triển theo đường lối cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước
với tư cách là người quản lý vĩ mô đồng là chủ sở hữu nền kinh tế tiến hành công tác
kiểm tra thông qua vai trò của kế toán trưởng, chủ yếu là hình thức tự kiểm tra. Còn
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
16
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
kiểm tra kế toán của Nhà nước thì được thực hiện thông qua cơ chế duyệt quyết toán.
Công tác kiểm tra kế toán của Nhà nước được tiến hành trên hai loại hinh doanh nghiệp
sau:
- Đối với các doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước):
Hằng năm, các cơ quan cấp dưới tiến hành so sánh giữa phần thu và phần chi, sau
đó lập báo cáo tài chính và gửi về cho các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan tài
chính xem xét. Các cơ quan này có nhiệm vụ xét duyệt quyết toán để từ đó cấp kinh
phí hoạt động cho cấp dưới.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Việc tiến hành kiểm tra báo cáo tài chính được thực hiện bởi hội đồng quyết toán.
Thành phần của hội đồng này bao gồm cơ quan thuế, cơ quan chủ quản và quản lý vốn.
Do hội đồng bao gồm nhiều thành phần khác nhau nên việc đưa ra ý kiến thường
không đồng nhất và quyết định cuối cùng chỉ mang tính hình thức, còn kết quả thực sự
thì chưa được quan tâm đúng mức. Báo cáo tài chính quý này thì quý sau mới được xét
duyệt, công tác kiểm tra thì hoàn toàn dựa trên giấy tờ. Như vậy, thời kỳ này công tác
kiểm tra đi sau một bước so với thực trạng tài chính của đơn vị.
Từ những năm 90, sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung đã không còn phù hợp nữa. Hòa nhập với xu hướng của thời
đại, Việt Nam cũng bắt đầu chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường, kéo theo sự chuyển mình trong công tác kiểm tra. Lúc này,
công tác kiểm tra đòi hỏi phải có một tổ chức độc lập đứng ra kiểm tra các thông tin tài
chính nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng quan tâm. Do đó, kiểm toán độc lập
được hình thành, kiểm toán Nhà nước cũng được thành lập.
Năm 1989, trước những nhu cầu có tính chất cách mạng trong cơ chế quản lý, cơ
chế kinh tế, nền kinh tế sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, Chính phủ đã ra quyết
định ban hành chế độ kế toán cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, bản thân chế
độ này vẫn còn tồn tại một số nhược điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và làm
cho nó chưa bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Đứng trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chỉ thị và chỉ đạo công
tác cải tổ chế độ kế toán năm 1994. Tháng 12 năm 1995, hệ thống kế toán tài chính
doanh nghiệp được ban hành. Có thể nói, hệ thống kế toán mới này đã đáp ứng được
nhu cầu của nền kinh tế thị trường và thông lệ kế toán quốc tế. “Nó” đảm bảo cho Nhà
nước trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
17
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Đứng trước bối cảnh hội nhập, việc đảm bảo thông tin tài chính trung thực, hợp lý
nhằm mục đích tạo niềm tin cho các đối tượng sử dụng thông tin là hết sức cần thiết.
Với lý do ấy, việc kiểm toán ra đời và phát triển đến ngày nay tại Việt Nam là một nhu
cầu tất yếu của xã hội. “Nó” ngày càng rộng rãi, đa dạng và phong phú.
Một vài sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự ra đời và phát triển của kiểm toán
đến ngày nay:
3.2.1. Đối với kiểm toán độc lập :
- Khi nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường vào đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, kiểm toán độc
lập xuất hiện ở nước ta. Ngày 13/05/1991 được sự chấp thuận của Chính phủ, Bộ Tài
Chính ký quyết định thành lập hai công ty kiểm toán: Kiểm toán Việt Nam (VACO) và
Dịch vụ kế toán Việt Nam (ASC) sau này đổi thành Dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán
và kiểm toán (AASC).
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành NĐ 105-2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 nêu
rõ quyền hạn, trách nhiệm của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế. Đến ngày
31/10/2005 ban hành thêm NĐ 133/2005/NĐ-CP bổ sung sửa đổi một số điều trong
Nghị định 105. Và gần đây nhất, ngày 30/03/2009 Chính phủ ban hành NĐ 30/
2009/NĐ- CP tiếp tục sửa đổi bổ sung một số điều trong NĐ 105-2004/NĐ-CP.
Đối với kiểm toán độc lập ở nước ta đã có gần 19 năm hình thành và phát triển.
Do đó có thể tóm lược một số nét chính như sau :
Đã phát triển nhanh chóng về số lượng và quy mô các tổ chức kiểm toán
độc lập
Những năm đầu khi chuyển sang kinh tế thị trường, cùng với chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đã phát sinh hàng loạt nhu cầu được cung cấp
dịch vụ kế toán, kiểm toán trong mọi lĩnh vực. Trước yêu cầu đó, năm 1991, Bộ Tài
chính đã thành lập 02 doanh nghiệp kiểm toán là DNNN chính thức đánh dấu sự ra đời
của hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Để khai thác khả năng tiềm tàng của thị
trường kiểm toán trên cơ sở cạnh tranh về chất lượng và giá phí trong môi trường pháp
lý bình đẳng, Nhà nước khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế và hợp
tác với nước ngoài. Vì thế, nhiều doanh nghiệp kiểm toán thuộc các thành phần kinh tế,
dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau đã lần lượt ra đời.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
18
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 1999, số lượng các doanh nghiệp kiểm toán
thành lập mới tăng nhanh (cuối năm 1999 thành lập 2 công ty; năm 2000: 7 công ty;
năm 2001: 20 công ty; năm 2002: 10 công ty; năm 2003: 14 công ty; năm 2004: 10
công ty) nhưng sau khi có Nghị định số 105 năm 2004, chỉ cho phép thành lập mới
doanh nghiệp kiểm toán là công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân nên số lượng
các doanh nghiệp kiểm toán thành lập mới tăng chậm so với trước. Từ tháng 4/2003
đến 10/2005 (18 tháng) chỉ có 8 công ty được thành lập. Có 3 công ty ngừng hoạt động
hoặc thôi cung cấp dịch vụ kiểm toán, 1 công ty có vốn đầu tư nước ngoài chấm dứt
giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, từ khi có Nghị định số 133 năm 2005 cho phép tiếp tục
thành lập công ty TNHH thì số lượng các doanh nghiệp kiểm toán lại tăng rất nhanh:
Năm 2005 tăng 14 công ty, năm 2006 tăng 40 công ty, năm 2007 tăng 16 công ty, năm
2008 tăng 15 công ty, năm 2009 tăng 16 công ty. Trong các năm qua, đặc biệt là trong
năm 2009 có một số các công ty nhỏ đã sáp nhập nên đến 6/2010 cả nước đã có 162
doanh nghiệp kiểm toán với trên 6.700 người làm việc.
Về chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp kiểm toán: Theo Nghị định số
105 và Nghị định số 133 thì các doanh nghiệp kiểm toán chỉ được hoạt động dưới 3
hình thức là công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Đến cuối năm
2007 đã có 15 công ty Cổ phần và 5 DNNN đã hoàn thành việc chuyển đổi thành công
ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên.
Theo chiến lược phát triển ngành kiểm toán, năm 2001 dự kiến đến năm 2010
có 100 công ty nhưng đến tháng 06/2010 đã có 162 công ty (vượt trên 60%) gồm 151
công ty TNHH, 5 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, 2 công ty có vốn đầu tư nước
ngoài, 4 công ty hợp danh.
Năm 2001 chỉ có 3/34 công ty được công nhận là thành viên của hãng kiểm toán
quốc tế thì đến tháng 06/2006 có 11/105 công ty và đến tháng 06/2010 có thêm 15
công ty tổng cộng đến nay có 26 công ty là thành viên Hãng kiểm toán quốc tế.
Các công ty chủ yếu được thành lập trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến
năm 2006 (130 công ty). Cho tới nay, trong 156 doanh nghiệp kiểm toán đã đặt 192
văn phòng, chi nhánh, ngoài ra còn có trên 40 văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
19
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
phố trong cả nước, trong đó có các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài, công ty kiểm
toán lớn của Việt Nam và các công ty quy mô vừa được thành lập nhưng có lợi thế là
thành viên của Hãng kiểm toán quốc tế hoặc ban lãnh đạo và KTV là người đã từng
hành nghề ở các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài hoặc từ công ty lớn của Việt Nam
chỉ chiếm khoảng 20% số lượng công ty nhưng doanh thu lại đạt tới 76% doanh thu
toàn ngành, do các công ty này luôn quan tâm đến chất lượng quản trị, điều hành và
kiểm soát chất lượng dịch vụ, tình hình hoạt động của công ty khá ổn định, kiểm soát
chất lượng tốt, tuyển dụng và đào tạo nhân viên có bài bản, chú trọng vào đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị, tạo điều kiện làm việc tốt cho nhân viên theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp đã tăng nhanh và chiếm tỷ trọng khá cao so
với tổng số nhân viên chuyên nghiệp, chính sách tuyển dụng, đào tạo và cơ cấu lao
động của các công ty đã được nâng cấp và hoàn thiện đáng kể, tuy nhiên còn rất khác
nhau
Ngay từ khi thành lập, các doanh nghiệp kiểm toán đều đã rất chú trọng đến việc
tuyển chọn KTV và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên. Tháng 10/1994, lần đầu
tiên Bộ Tài chính tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ đặc cách cho 49 người đủ điều
kiện, tiêu chuẩn KTV chuyên nghiệp. Đến tháng 6/2010, Bộ Tài chính đã tổ chức 15 kỳ
thi tuyển KTV cho người Việt Nam và 10 kỳ thi sát hạch cho người nước ngoài và đã
cấp khoảng 1.800 chứng chỉ KTV cho những người đạt kết quả thi. Đến 06/2010, trong
162 doanh nghiệp kiểm toán có khoảng 1.200 KTV đủ điều kiện đã đăng ký hành nghề,
trong đó có hơn 1.000 người là hội viên của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam,
chiếm 83% số kiểm toán viên đăng ký hành nghề. Đến tháng 6/2010, ở Việt Nam có
480 người có chứng chỉ KTV nước ngoài.
3.2.1.2 Đối với kiểm toán Nhà nước :
-Ngày 11/07/1994, Chính phủ ra Nghị định số 70/CP thành lập kiểm toán Nhà nước.
Sau này, Chính phủ ra Nghị định số 93/2003/NĐ-CP thay thế cho NĐ 70/CP. Hiện
nay, văn bản pháp quy cao nhất và quan trọng nhất của kiểm toán Nhà nước là Luật số
37/2005/QH11 ban hành ngày 24/06/2005. Tính đến thời điểm hiện nay, cơ cấu của
Bộ máy Kiểm toán Nhà nước được chia nhỏ thành 7 đơn vị kiểm toán chuyên ngành
(Kiểm toán ngân sách Nhà nước, Kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước, Kiểm toán các
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
20
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
chương trình đặc biệt ) ; 9 đơn vị kiểm toán khu vực: Khu vực I (Hà Nội), khu vực II
(Vinh), khu vực III (Đà Nẵng) và khu vực IV (TP.HCM), khu vực V (Cần Thơ), khu
vực VI (Quảng Ninh), khu vực VII (Yên Bái), khu vực VIII (Nha Trang) và khu vực
IX (Mỹ Tho); 3 đơn vị hành chính sự nghiệp (Trung tâm tin học, Trung tâm khoa học
và bồi dưỡng cán bộ, Tạp chí kiểm toán); 6 đơn vị tham mưu ( Văn phòng kiểm toán
Nhà nước, Vụ tổng hợp, Vụ pháp chế, Vụ tổ chức cán bộ, Vụ chế độ và kiểm soát chất
lượng kiểm toán ) ( Nguồn: website kiemtoannn.gov.vn ).
- Năm 1996, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Quốc tế các Cơ
quan Kiểm toán tối cao – INTOSAI :International Organization of Supreme Audit
Institutions - 178 thành viên)
- Năm 1997, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức các Cơ quan Kiểm
toán tối cao châu á (Asian Organization of Supreme Audit Institutions - ASOSAI).
- Các nhiệm vụ quan trọng của KTNN là :
KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề
có liên quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không những ở chừng
mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà cả trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình với tư cách là cơ quan ban hành Luật NSNN và các đạo luật
chuyên môn có hiệu lực tài chính.
KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính
phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của những biện pháp đề
ra.
KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe những biểu
hiện tham nhũng, lãng phí và những hành vi lạm dụng nguồn lực tài chính của Nhà
nước
KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử
dụng các nguồn lực tài chính của Nhà nước.
3.2.1.3. Đối với Kiểm toán nội bộ
- Ở Việt Nam, kiểm toán nội bộ bộ phận xuất hiện muộn nhất trong hệ thống kế
toán. Tháng 11/1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP và Bộ Tài Chính ban
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
21
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
hành QĐ 832/TC/QĐ-CĐKT quy định quy chế kiểm toán cho các doanh nghiệp nhà
nước (SOE).
II.BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN
1.Bản chất của kiểm toán
1.1 Các quan điểm khác nhau về kiểm toán
Nếu trên thế giới thuật ngữ “kiểm toán” xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công
nguyên, thì tại Việt Nam nó chỉ xuất hiện và được sử dụng vào đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX. Như vậy, tính đến thời điểm này, kiểm toán đã phát triển gần 20 năm tại nước
ta. Trong quá trình phát triển đó, tương ứng với từng thời kỳ khác nhau có mỗi quan
niệm khác nhau về kiểm toán. Có thể khái quát thành 3 quan niệm cơ bản sau:
- Theo quan điểm thứ nhất: Kiểm toán đồng nghĩa với kiểm tra kế toán
Đây là quan điểm truyền thống, chỉ phù hợp trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung.
Theo quan điểm này, kế toán sẽ tiến hành rà soát lại chứng từ, hạch toán tổng hợp
đến bảng cân đối kế toán. Như vậy, việc kiểm tra gắn liền với hoạt động kế toán, sử
dụng phương pháp kế toán để tiến hành kiểm tra và được thực hiện bởi những người
bên trong đơn vị là kế toán trưởng (còn mang tính chất nội kiểm). Nhưng kiểm toán là
một hoạt động độc lập, có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng.
- Theo quan điểm thứ hai: Kiểm toán đồng nghĩa với kiểm toán bảng khai tài
chính.
Theo quan điểm này, kiểm toán phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ
chế thị trường, bảng khai tài chính là các bảng kê khai thông tin có tính pháp lý và sử
dụng thước đo giá trị, trong đó bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất là báo cáo tài
chính. Chính vì vậy, đối tượng của kiểm toán là bảng khai tài chính, trong đó đối tượng
trực tiếp và thường xuyên của kiểm toán là báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính được
xem là tài liệu quan trọng nhất đối với người sử dụng bên ngoài. Do vậy, họ cần một tổ
chức độc lập tiến hành kiểm tra các thông tin trên bảng khai tài chính nhằm đảm bảo
tính trung thực và hợp lý.
Kiểm toán được định nghĩa tại các nước như sau:
+ Tại Anh, trong lời mở đầu “Giải thích các chuẩn mực kiểm toán” nêu:
“Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và sự bày tỏ ý kiến về những bảng khai tài
chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những
công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
22
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
+ Tại Hoa Kỳ:
“Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập có nghĩa vụ tập hợp và
đánh giá rõ ràng về thông tin có thể lượng hóa có liên quan đến một thực thể kinh tế
riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin có
thể lượng hóa với những tiêu chuẩn đã được thiết lập”.
+ Tại Cộng hòa Pháp, trong giáo dục và đào tạo kiểm toán định nghĩa như sau:
“Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức
do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định
rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế không che dấu sự
gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
Nhìn chung, các định nghĩa trên có khác nhau về mặt từ ngữ diễn đạt nhưng về
cơ bản đều bao hàm 5 yếu tố sau:
1 ) Chức năng kiểm toán: xác minh và bày tỏ ý kiến (hay nghiên cứu và kiểm tra).
Đây là yếu tố cơ bản chi phối cả quá trình kiểm toán.
2) Đối tượng của kiểm toán: là các bảng khai tài chính (hay tài khoản niên độ) của
các tổ chức hay một thực thể kinh tế. Các bảng khai này thường được hiểu là một bảng
tổng hợp kế toán (bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng báo cáo
lưu chuyển tiền tệ…)
3) Khách thể kiểm toán: được xác minh là một thực thể kinh tế hoặc một tổ chức.
Thực thể hay một tổ chức ở đây là một thực thể pháp lý (1 công ty, 1 đơn vị của chính
phủ, 1 chủ sở hữu) hoặc một bộ phận phụ thuộc thậm chí có thể là một cá nhân.
4) Chủ thể kiểm toán: là những người thực hiện hoạt động kiểm toán. Họ là những
kiểm toán viên độc lập, có nghiệp vụ. Độc lập ở đây có nghĩa là có thái độ độc lập hay
tính độc lập về nghiệp vụ, còn trình độ nghiệp vụ thường được giải thích thông qua
việc lựa chọn và tập hợp các bằng chứng kiểm toán.
5) Cơ sở thực hiện kiểm toán (Cơ sở pháp lý): là những luật định tiêu chuẩn hay
chuẩn mực chung. Các chuẩn mực hay luật định này bao gồm cả lĩnh vực kế toán hay
kiểm toán hoặc rộng hơn thì tùy theo từng cuộc kiểm toán.
Về cơ bản, các định nghĩa này đã bao hàm khá đầy đủ đặc trưng của kiểm toán.
Tuy nhiên, các quan niệm này lại đi sâu vào kiểm toán tài chính do các kiểm toán viên
độc lập thực hiện nhằm xác định tính trung thực, hợp lý của các thông tin tài chính trên
cơ sở các chuẩn mực chung.
- Theo quan điểm hiện đại:
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
23
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
Bước vào nền kinh tế thị trường, thực hiện đa phương hóa toàn cầu, đa dạng hóa
các thành phần kinh tế, Nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất. Lúc này, việc tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư là hết sức cần thiết. Như vậy, người quan tâm đến thông tin
kế toán không chỉ có Nhà nước mà còn có ngân hàng, các nhà đầu tư, những nhà quản
lý…Xuất phát từ nhu cầu đó, công tác kiểm tra cần được tiến hành một cách khoa học,
khách quan nhằm mục đích cuối cùng là tạo niềm tin cho các đối tượng quan tâm.
Trong điều kiện như vậy, việc phát triển kiểm toán thành một môn khoa học độc lập là
một xu hướng tất yếu của thời đại.
Ngày nay, kiểm toán không chỉ dừng lại ở kiểm toán tài chính, “nó” đã lấn sang
các lĩnh vực khác tạo nên sự đa dạng, phong phú trong lĩnh vực kiểm toán như hiệu quả
của hoạt động kinh tế, hiệu năng của quản lý xã hội, hiệu lực của hệ thống pháp lý
trong từng loại hoạt động. Về cơ bản, tuy phạm vi của kiểm toán rộng nhưng thường
bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
+ Lĩnh vực về kiểm toán thông tin (Information Audit):
Hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu làm cơ sở
pháp lý để giải quyết các mối quan hệ kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan
tâm đến tài liệu kế toán. Trong kế toán có hai loại thông tin: thông tin tài chính và
thông tin phi tài chính. Vì vậy, kiểm toán thông tin cũng có hai mảng là kiểm toán
thông tin tài chính và kiểm toán thông tin phi tài chính.
1) Thông tin tài chính: phản ánh các hoạt động tài chính dưới hình thái bằng tiền
do hoạt động tài chính cung cấp.
2) Thông tin phi tài chính: sử dụng thước đo hiện vật thay thế cho thước đo tiền
tệ. Thước đo hiện vật có thể là sản phẩm, kg, tấn, tạ… để kiểm tra về chất lượng sản
phẩm, về nhân viên trong công ty, hay về công nghệ… nhằm đảm bảo tính trung thực
và tính pháp lý của thông tin.
Thực trạng hoạt động tại doanh nghiệp phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Một là, chất lượng thông tin.
Nếu thông tin đầu vào tốt thì đầu ra tốt. Điều này có nghĩa là nếu doanh nghiệp
làm ăn có lãi, tiết kiệm chi phí thì doanh nghiệp có một tình hình tài chính tốt đẹp.
- Hai là, hệ thống bên trong xử lý thông tin.
Điều này có nghĩa là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng lại muốn tạo tình hình
tài chính tốt đẹp bằng cách ghi tăng doanh thu hoặc giảm chi phí. Và ngược lại, doanh
nghiệp làm ăn có lãi nhưng laị muốn trốn thuế nên tăng chi phí, giảm doanh thu.
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
24
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Bộ môn Kiểm toán – Khoa Kế toán
+ Lĩnh vực về kiểm toán quy tắc
Tập trung vào việc đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, các chế độ, luật pháp
của đơn vị được kiểm tra trong quá trình hoạt động.
+ Lĩnh vực về kiểm toán hiệu năng
Đối tượng trực tiếp của lĩnh vực này là sự kết hợp giữa các yếu tố, các nguồn lực
trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua sắm, sản xuất hay dịch vụ, kiểm toán loại
này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho
việc hoàn thiện và cải tổ hoạt động kinh doanh trong đơn vị cần được kiểm toán.
+ Lĩnh vực kiểm toán hiệu năng
Chủ yếu được thực hiện ở khu vực công cộng, nơi mà lợi ích và hiệu quả không
phải là vấn đề quan tâm hàng đầu như trong các doanh nghiệp, nơi mà mục tiêu chủ
yếu là việc đánh giá toàn diện năng lực quản lý và bồi bổ thường xuyên nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý của đơn vị được kiểm toán.
Hiệu năng là khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra, nó khó có thể định lượng được
và phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nhà quản lý.
Các quan niệm trình bày trên đây không hoàn toàn đối lập nhau mà phản ánh quá
trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán, và mang tính kế thừa.
1.2 Khái niệm kiểm toán
Thông qua việc phân tích ba quan niệm về kiểm toán, có thể rút ra được một số
nhận xét sau:
1) Kiểm toán là hoạt động độc lập, có đối tượng và phương pháp nghiên cứu
riêng. Chức năng cơ bản của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến nhằm mục đích
cuối cùng là tạo niềm tin cho những người quan tâm trên tất cả các lĩnh vực kiểm toán
như kiểm toán thông tin hay kiểm toán hiệu quả hoạt động Trong đó, chức năng xác
minh là chức năng đánh dấu sự ra đời và quyết định sự tồn tại của kiểm toán. Thông
qua việc xác minh, kiểm toán viên sẽ trình bày ý kiến của mình về lĩnh vực được kiểm
tra.
2) Kiểm toán phải tiến hành mọi hoạt động kiểm tra, kiểm soát trên tất cả các vấn
đề có liên quan đến thực trạng tài sản, các nghiệp vụ tài chính, sự phản ánh của nó trên
sổ sách kế toán và hiệu quả đạt được.
3) Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là thực trạng hoạt động tài chính. Kiểm toán
viên sử dụng phương pháp kiểm toán chứng từ đối với những thực trạng đã được phản
Giảng viên : NCS.ThS Phan Thanh Hải
25