Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Xây dựng nghị định về fintech cân bằng các mục tiêu ổn định tài chính, thúc đẩy sáng tạo và bảo vệ người tiêu dùng tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.64 KB, 6 trang )

Xây dựng Nghị định về Fintech: Cân bằng các mục tiêu ổn định tài chính,
thúc đẩy sáng tạo và bảo vệ người tiêu dùng tài chính

Có thể nói hoạt động Fintech (cơng nghệ tài chính) tại Việt Nam trong thời
gian qua được nghiên cứu, ứng dụng và phát triển mạnh trong cả hệ thống
ngân hàng truyền thống cũng như các tổ chức Fintech khơng ph ải ngân
hàng.
Ngày 06/9/2021, Chính ph ủ đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP về việc
thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm sốt
hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng (Ngh ị quyết 100/NQ-CP). Theo
Ngân hàng Nhà nư ớc (NHNN), Nghị định được xây dựng dựa trên một số
quan điểm, nguyên tắc định hướng, cụ thể như bám sát chủ trương của
Đảng, Chính phủ về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ 4.0, mô hình kinh doanh kh ởi nghiệp sáng tạo. Nội dung trọng tâm
Nghị định sẽ tập trung thúc đẩy các giải pháp sáng tạo, đồng thời đảm bảo
kiểm soát rủi ro, bảo vệ người tiêu dùng và duy trì ổn định tài chính.
Fintech góp phần thúc đẩy thanh tốn dùng khơng tiền mặt (TTKDTM)
và chuyển đổi số ngân hàng
Các tổ chức tài chính tại Việt Nam trong vài năm gần đây đã chủ động
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cho phát triển các sản phẩm, dịch vụ số
nói chung. Riêng đ ối với lĩnh vực thanh toán, các ngân hàng đã nghiên c ứu,
ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại, an tồn, tiện lợi (ứng dụng
Tokenization, thanh tốn di đ ộng, sử dụng mã QR Code, sử dụng các yếu tố
sinh trắc học như: vân tay, nhận diện khuôn mặt…) và được người tiêu
dùng đón nhận tích cực.
Theo Vụ Thanh tốn - NHNN, hiện nay có khoảng 80 tổ chức tín dụng
(TCTD) triển khai thanh tốn qua Internet và 44 TCTD tri ển khai thanh
toán qua Mobile, hơn 90.000 đi ểm chấp nhận thanh toán QR Code. K ết quả
TTKDTM qua các kênh trong năm 2021 có t ốc độ tăng trưởng đạt cao so
với cùng kỳ năm 2020: Qua kênh Internet đ ạt gần 707,38 triệu giao dịch
với giá trị 36,77 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 48,8% về số lượng giao dịch


và 32,6% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2020); qua kênh điện
thoại di động đạt 2,08 tỷ giao dịch với giá trị hơn 23,6 triệu tỷ đồng (tăng
tương ứng 76% về số lượng và 87,5% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ
năm 2020); qua kênh QR code đ ạt 23,59 triệu giao dịch với giá trị 21,69


nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 45% về số lượng và 125,5% về giá trị so với
cùng kỳ năm 2020).
Bên cạnh đó, việc triển khai quy định về mở tài khoản thanh toán bằng
phương thức điện tử (eKYC) đạt nhiều kết quả khả quan. Từ tháng 3/2021
đến hết tháng 12/2021, đã có 24 ngân hàng tri ển khai chính thức mở tài
khoản thanh toán eKYC, v ới khoảng 3,37 triệu tài khoản thanh toán mở
bằng phương thức này đang hoạt động.
Trong năm 2021, t ổng số lượng giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng đạt trên 156 triệu món, tương ứng với giá trị đạt 151,16
triệu tỷ đồng (tăng 6,9% về số lượng và 44,57% về giá trị giao dịch so với
năm 2020); hệ thống bù trừ điện tử và chuyển mạch giao dịch tài chính xử
lý hơn 2,46 tỷ giao dịch với giá trị giao dịch đạt gần 25,0 triệu tỷ đồng
(tăng 94,03% về số lượng và 133,37% về giá trị giao dịch).
Kết quả này đã cho thấy sự góp phần tích cực của cơng nghệ hay Fintech
nhằm thúc đẩy TTKDTM trong giai đo ạn vừa qua và là tiền đề quan trọng
để góp phần đạt được các mục tiêu về tài chính tồn diện đã được đề ra tại
Chiến lược tài chính tồn diện quốc gia trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam, các tổ chức trung gian thanh toán (TGTT) đư ợc
coi như Fintech trong lĩnh v ực thanh toán, được phép cung ứng các dịch vụ
cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử (như dịch vụ cổng thanh toán…) hay
dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (như dịch vụ ví điện tử, hỗ trợ thu hộ,
chi hộ…). Các dịch vụ này đã trực tiếp góp phần giúp các giao dịch thanh
tốn điện tử được thực hiện nhanh chóng, thơng su ốt, an toàn bảo mật. Các
tổ chức TGTT cũng đã góp phần thúc đẩy TTKDTM thơng qua m ối quan hệ

hợp tác với các ngân hàng để mở rộng cung ứng sản phẩm, dịch vụ tới các
khách hàng. Có thể ví các cơng ty TGTT như là “cánh tay n ối dài” của các
ngân hàng tới người dân thông qua vi ệc mở rộng mạng lưới giao dịch, đơn
giản hóa việc sử dụng dịch vụ tài chính, đưa d ịch vụ phù hợp hơn với từng
đối tượng… thông qua các gi ải pháp cơng ngh ệ, đây chính là một phần
quan trọng trong chiến lược tài chính tồn diện.
Trong triển khai tài chính tồn di ện, qua những phân tích ở trên về phát
triển TTKDTM, có thể thấy, Fintech đã góp ph ần tăng cường khả năng tiếp
cận dịch vụ tài chính tới một bộ phận người dân chưa có tài kho ản ngân
hàng hoặc khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng truyền
thống.


Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã và đang tác động lớn đến các nền kinh tế,
mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam
trong suốt hơn 2 năm qua. Các bi ện pháp giãn cách xã hội, hạn chế tiếp xúc
trực tiếp… đã làm gián đo ạn một số hoạt động trong nền kinh tế nói chung
và hoạt động tài chính - ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, ho ạt động Fintech
nói chung trong lĩnh vực ngân hàng đã giúp các tổ chức duy trì việc cung
ứng dịch vụ ngân hàng tới khách hàng một cách liên tục và thuận tiện, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác chống dịch Covid -19 và đảm bảo đời
sống sinh hoạt của người dân.
Có thể thấy, giải pháp Fintech ứng dụng vào dịch vụ thanh tốn của TCTD
hay các dịch vụ TGTT đã góp phần hỗ trợ nhu cầu mua sắm phi tiếp xúc
của người dân. Trước đây, người dân lựa chọn phương thức thanh toán
bằng tiền mặt khi mua hàng tại các điểm bán hàng vật lý hoặc khi nhận
hàng mua từ hoạt động thương mại điện tử (Cash on Delivery), thì nay đã
chuyển dần sang sử dụng các dịch vụ thanh toán phi ti ếp xúc như thẻ ngân
hàng, Ví điện tử, QR Code… qua các kênh thanh toán đi ện tử như Internet
hay Mobile vừa thuận tiện, vừa an toàn và tránh nguy cơ lây lan d ịch bệnh.

Bên cạnh đó, bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đặt ra nhiều khó khăn nhưng
cũng là động lực thúc đẩy chuyển đổi số do người dân, doanh nghiệp và các
TCTD phải chuyển sang giao tiếp qua kênh số. Fintech đã góp ph ần thúc
đẩy quá trình chuyển đổi số của các ngân hàng diễn ra nhanh hơn.
Tại Việt Nam, hoạt động chuyển đổi số đã và đang đư ợc các TCTD chủ
động triển khai với kết quả đáng ghi nhận. Theo Vụ Thanh toán - NHNN,
có tới 95% ngân hàng đã, đang xây d ựng chiến lược/thực hiện triển khai
chuyển đổi số; trong đó, hơn 88% có k ế hoạch số hóa tồn bộ sản phẩm,
dịch vụ từ kênh giao tiếp khách hàng (front -end) đến quản trị nghiệp vụ nội
bộ (back-end); 65% ngân hàng kỳ vọng chuyển đổi số sẽ giúp tăng trư ởng
doanh thu trên 30% trong vòng 3 - 5 năm tới; hơn 10% các ngân hàng có t ỷ
lệ khách hàng sử dụng kênh số đạt trên 80%. Hầu hết các ngân hàng đều
ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới trong hoạt động và cung
ứng dịch vụ, trong đó có 9/19 nghi ệp vụ đã được một số ngân hàng số hóa
hồn tồn (như gửi tiết kiệm; tiền gửi có kỳ hạn; mở và sử dụng tài khoản
thanh tốn; thẻ ngân hàng; ví điện tử; chuyển tiền; quản lý nhân sự; kế
tốn - tài chính...). Nhiều ngân hàng cũng đã ứng dụng các cơng ngh ệ trí
tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML) và dữ liệu lớn (Big Data) để đánh giá,
phân loại khách hàng và quy ết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy


trình thủ tục và rút thời gian giải ngân, cho vay.
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo vệ người tiêu dùng tài chính
Tại Nghị quyết 100/NQ-CP, NHNN được giao chủ trì, phối hợp với các bộ,
cơ quan liên quan xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát.
Phạm vi của Nghị định là các giải pháp cơng ngh ệ tài chính trong lĩnh vực
ngân hàng, do đó, NHNN (cơ quan qu ản lý nhà nư ớc và tiền tệ, ngân hàng)
là cơ quan phù hợp nhất trong vai trị chủ trì, đề xuất chính sách trong q
trình xây dựng Cơ chế thử nghiệm có kiểm sốt trên cơ sở góp ý, phối hợp
của các bộ, ngành, cơ quan liên quan khác.

Nghị định đưa ra các chính sách pháp lý m ới điều chỉnh hoạt động Fintech
(là hoạt động có tính chất phức tạp) với mục tiêu hướng tới thúc đẩy đổi
mới sáng tạo đi kèm với quản lý rủi ro, đảm bảo ổn định tài chính, nên các
ý kiến đóng góp từ các bộ, ngành, cơ quan liên quan là vô cùng c ần thiết để
đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật và đảm bảo có sự đánh giá
tồn diện các chính sách t ại Nghị định.
Dù vậy, việc xây dựng Nghị định cũng gặp một số khó khăn. Hiện nay, các
vấn đề phát sinh từ hoạt động Fintech là khá đa dạng và thách thức, một
vấn đề nhưng có thể thuộc sự quản lý của nhiều bộ, ngành, do vậy việc
phân định trách nhiệm giữa các bộ, ngành cần sự trao đổi, thống nhất và
phối hợp tích cực của các bộ, ngành, cũng như chỉ đạo từ Chính phủ trong
q trình xây dựng Nghị định.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP, NHNN đã thành
lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Nghị định, hiện đang hoàn thi ện dự thảo
Nghị định để lấy ý kiến rộng rãi theo quy trình xây d ựng văn bản quy phạm
pháp luật.
Theo ông Lê Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán - NHNN, Nghị
định được xây dựng dựa trên một số quan điểm, nguyên tắc định hướng, cụ
thể như bám sát chủ trương của Đảng, Chính phủ về thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0, mơ hình kinh doanh kh ởi nghiệp
sáng tạo. Bên cạnh đó, cần cân bằng giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, v ới đảm bảo ổn định tài chính, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, phòng ngừa rủi ro an ninh mạng. Đồng thời đảm
bảo cạnh tranh công b ằng, lành mạnh giữa các nhóm đối tượng khác nhau,
gồm TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT với các cơng ty Fintech có


liên quan. Hơn nữa, phải đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt
Nam là thành viên tham gia; đ ảm bảo tính cơng khai, minh b ạch trong tồn
bộ q trình xây dựng, ban hành và tri ển khai vận hành Cơ chế thử nghiệm

có kiểm sốt sau khi Ngh ị định được ký ban hành. Như vậy, nội dung trọng
tâm Nghị định sẽ tập trung thúc đẩy các giải pháp sáng tạo, đồng thời đảm
bảo kiểm soát rủi ro, bảo vệ người tiêu dùng và duy trì ổn định tài chính.
Theo Ban soạn thảo Nghị định, việc xây dựng Nghị định nhằm mục đích
thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt
Nam dựa trên cơng nghệ và mơ hình kinh doanh mới, góp phần nâng cao
khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế và xã hội; tăng cường
khả năng hội nhập quốc tế của hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam
trong bối cảnh phát triển của khoa học và công nghệ; tạo lập khuôn khổ
giám sát và quản lý việc thử nghiệm hoạt động của các công ty Fintech
trong lĩnh vực ngân hàng khi chưa có khn kh ổ pháp lý chính thức nhằm
hạn chế rủi ro và sự cạnh tranh không lành m ạnh, các hành vi vi ph ạm pháp
luật, cũng như bảo vệ lợi ích của người sử dụng dịch vụ. Trên cơ sở đó,
hồn thiện và bổ sung những quy định pháp lý để điều chỉnh hoạt động
chính thức của các loại hình cơng ty cung ứng giải pháp Fintech; góp ph ần
bảo đảm sự an tồn và hiệu quả của hệ thống tài chính - ngân hàng, giữ
vững sự ổn định của an ninh tiền tệ quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ngăn
ngừa các rủi ro mang tính hệ thống, bảo vệ quyền lợi của người dân; phục
vụ mục tiêu phổ cập tài chính đến các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng
xa nơi người dân khơng có tài khoản tại ngân hàng với sự tham gia của các
tổ chức không phải là ngân hàng cung cấp dịch vụ Fintech hiện đại với chi
phí hợp lý trên cơ sở phù hợp với pháp luật hiện hành, giúp khách hàng
được lựa chọn và tiếp cận với nhiều sản phẩm dịch vụ an toàn và tiện lợi.
Cũng theo Ban soạn thảo Nghị định, Nhà nước sẽ tạo ra một cơ chế để
khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức nghiên cứu, phát triển các
giải pháp tài chính - ngân hàng mới dựa trên thành tựu cơng nghệ của Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư; cho phép đư ợc thử nghiệm các giải pháp
Fintech chưa có khn kh ổ pháp lý điều chỉnh nhưng đảm bảo không vi
phạm quy định pháp luật hiện hành; hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp khởi nghiệp; đảm bảo sự cơng bằng, bình đẳng và cạnh

tranh lành mạnh giữa các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực Fintech; đảm
bảo đội ngũ cán bộ, công chức tham gia quản lý, vận hành có đầy đủ kiến
thức nghiệp vụ về quản lý, tài chính, pháp lý, k ỹ thuật và tận tâm, liêm
chính khi thực hiện nhiệm vụ, chủ động hội nhập quốc tế, áp dụng các tiêu
chuẩn và chuẩn mực quốc tế mới trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại


Việt Nam.
Để được tham gia áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm sốt, khơng phải
Fintech nào cũng được áp dụng mà cần thỏa mãn các điều kiện cụ thể như:
Các giải pháp Fintech sáng t ạo lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam
hoặc giải pháp Fintech đư ợc ứng dụng cho dịch vụ mới, có tính sáng t ạo
cao; giải pháp được thiết kế quản lý rủi ro tốt, có phương án xử lý, khắc
phục các rủi ro xảy ra trong quá trình th ử nghiệm; giải pháp đã đư ợc công
ty Fintech hoặc TCTD thực hiện các biện pháp đánh giá phù h ợp và chính
xác chức năng, cơng dụng và tính hữu ích; giải pháp có tính kh ả thi và tính
thương mại cao, có kế hoạch cung ứng ra thị trường cụ thể sau khi hồn
thành q trình thử nghiệm; giải pháp mà hồn tồn chưa có ho ặc một phần
chưa có quy định pháp lý điều chỉnh.
Tài liệu tham khảo:
sbv.gov.vn



×