Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin vào kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.48 KB, 8 trang )

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO KỸ NĂNG
LÀM VIỆC NHĨM CỦA SINH VIÊN
Hồng Thúy Hà, Nguyễn Văn Đồng
Trường Đại học Sài Gịn
Tóm tắt: Cơng nghệ kỹ thuật số làm thế nào có thể thay đổi chất lượng và hiệu suất của
các hình thức học tập; dựa trên tiêu chí nào để chúng ta có thể quyết định lựa chọn cơng cụ
thích hợp nhất trong số các cơng nghệ hiện có vào cơng việc đào tạo; đồng thời, việc sử dụng
cơng nghệ thơng tin có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên khơng? Bằng cách trình
bày một nghiên cứu kiểm tra hoạt động nhóm trong giờ thực hành kỹ năng này của sinh viên
có sử dụng cơng nghệ thông tin, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những câu hỏi vừa nêu trên.
Từ khóa: ứng dụng, cơng nghệ, kỹ năng, làm việc nhóm, sinh viên
1. Đặt vấn đề
Nền giáo dục Đại học Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể trong những năm gần đây,
một phần là nhờ vào sự thúc đẩy của các công nghệ kỹ thuật số. Trong quá trình giáo dục và
đào tạo, việc sử dụng công nghệ thông tin đã làm thay đổi hoạt động dạy và học. Việc tích hợp
các nguồn lực giáo dục và cơng nghệ mới đã tăng tính linh hoạt, cải thiện giao tiếp, củng cố sự
tương tác giữa các đối tượng khác nhau.
Để hiểu công nghệ kỹ thuật số làm thế nào có thể thay đổi chất lượng và hiệu suất của
các hình thức học tập; dựa trên tiêu chí nào để chúng ta có thể quyết định lựa chọn cơng cụ
thích hợp nhất trong số các cơng nghệ hiện có vào cơng việc đào tạo; đồng thời việc sử dụng
cơng nghệ thơng tin có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên khơng?
Bằng cách trình bày một nghiên cứu kiểm tra hoạt động nhóm trong giờ thực hành kỹ
năng này của sinh viên có sử dụng công nghệ thông tin, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những câu
hỏi vừa nêu trên bằng những nội dung sau.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã chọn thực hiện nghiên cứu 140 sinh viên đang học
năm thứ 3, ngành Quốc tế học tại Khoa Văn hóa và Du lịch, Trường Đại học Sài Gịn. Q trình
thực hiện được tiến hành trong giờ thực hành kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên, chúng tơi
tiến hành nghiên cứu của mình bằng thử nghiêm trên ba hoạt động của các nhóm sinh viên được
chọn ngẫu nhiên trên tổng số 140 sinh viên nói trên:
1/ Hoạt động thứ nhất thử nghiệm kỹ năng một nhóm 5 sinh viên cùng tạo ra một văn


bản bằng cách sử dụng công nghệ thông tin.
2/ Hoạt động thứ thứ hai, thử nghiệm, cho phép thực hiện một hoạt động cùng viết từ
xa do hai cặp sinh viên thực hiện.
3/ Hoạt động thứ ba liên quan đến việc triển khai hệ thống hợp tác trao đổi trực tuyến
trong một nhóm về một bài tập giao tiếp bằng miệng.

323


Sau đó, chúng tơi phân tích cách sử dụng mà các tác nhân phụ thuộc lẫn nhau tạo ra
trong một số hệ thống hợp tác nhất định. Kết quả của mối liên kết giữa thiết bị kỹ thuật, các yếu
tố tổ chức của bối cảnh và hành vi của các tác nhân trong tình huống.
Tiếp theo, chúng tơi sẽ xem xét việc đặt câu hỏi về bối cảnh của hành động tập thể liên
quan đến hoạt động của nhóm trong tổ chức. Cách tiếp cận lý thuyết này đã cung cấp cho chúng
tơi một tập hợp các giải thích liên quan đến hoạt động nhóm, những hành vi, thái độ, phản ứng
của một cá nhân trong một tổ chức làm việc. Ở đây, chúng tơi tập tìm hiểu bối cảnh của hành
động cá nhân bao gồm mối quan hệ giữa tác nhân và công cụ. Cách tiếp cận lý thuyết này hướng
cơng việc của chúng tơi tới tính cách tương tác và tập thể của các tình huống làm việc nhóm.
Việc phân tích ba hoạt động thực hành làm việc nhóm bằng cơng nghệ thơng tin này giúp
chúng tơi thu được các kết quả bổ sung trong chừng mực các thiết bị kỹ thuật xã hội, các nhóm
tác nhân và bối cảnh khác nhau. Điều này dẫn đến việc hợp nhất các kết quả nhất định, làm phong
phú chúng hoặc thậm chí hiểu chúng theo nhiều cách khác nhau. Việc phân tích ba trường cho
phép chúng tơi phác thảo mơ hình các hành động và mối quan hệ qua trung gian giữa các cá nhân
có vẻ phù hợp với chúng ta trong một số tình huống giao tiếp thơng qua máy tính.
3. Đặc điểm tổ chức của nhóm
Kỹ năng làm việc nhóm (Teamwork skills) là khả năng xây dựng và duy trì mối quan
hệ hợp tác giữa các thành viên trong đội để hoàn thành mục tiêu chung. Mỗi cá nhân sẽ cùng
nhau đóng góp, hỗ trợ lẫn nhau để cơng việc đạt hiệu quả cao nhất. Việc bố trí lại một nhóm
với các thành viên tham gia giao tiếp hầu như thông qua trung gian, đã mang lại khả năng làm
việc tốt nhất có thể, bất kể khoảng cách không gian và thời gian.

Thật vậy, chúng tôi quan sát thấy rằng phần mềm nhóm thơng qua máy tính, sẽ giúp cho
các thành viên khả năng của những người bạn làm việc cùng sẽ giúp đỡ. Phần mềm nhóm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc này bằng cách cải thiện thơng tin liên lạc. Mọi người sẽ đóng góp
hoặc làm việc với những gì tốt nhất của bản thân.
Hình thức giao tiếp được cung cấp bởi công cụ trực quan, thính giác, bằng miệng hoặc
chỉ bằng văn bản đã truyền tải các dấu hiệu của xã hội và hình thành một tình huống tương tự
như tình huống trực diện về lựa chọn từ vựng, vai trò mà các đặc điểm được biết là có lợi cho
giao tiếp chất lượng tốt.
Việc trung gian hóa giao tiếp này liên quan đến các kỹ năng khác như kiến thức về công
cụ, cách chia sẻ thông tin, sự tham gia hiệu quả của tất cả các bên bất chấp khó khăn khi làm
việc với cơng nghệ. Vai trị của nhóm trưởng, vẫn là một nhân vật chính yếu và cần thiết, vai
trị này ở đây càng quan trọng hơn vì các hệ thống hợp tác liên quan trên tất cả các giao tiếp và
cần phải học cách quản lý chúng.
Về nguyên tắc, các đặc điểm cụ thể của cơng cụ này có xu hướng thúc đẩy sức mạnh
tổng hợp của các kỹ năng, do đó, tổ chức mà nó được liên kết sẽ hiệu quả hơn. Chỉ trong những
điều kiện này, các hành động trong nhóm mới dẫn đến kết quả hữu ích nhất.
Ngồi những đặc điểm trên, việc sử dụng một công cụ công nghệ thông tin ở cấp độ của các
phương pháp giao tiếp có thể sửa đổi hoặc biến đổi cách thức thực hiện công việc với nhiều người.
324


4. Phương thức giao tiếp
Tất cả các đặc điểm liên quan đến việc sử dụng phần mềm nhóm và bản thân phần mềm
nhóm cần được so sánh và kết hợp với các phương pháp giao tiếp khác nhau, được cung cấp
cho kỹ năng làm việc nhóm. Thật vậy, các kênh truyền thơng khơng có cùng bản chất tùy thuộc
vào phần mềm nhóm và sẽ khơng tiên liệu tạo ra các liên kết xã hội giống nhau, cho dù đó là
truyền thông đồng bộ, bán đồng bộ, hoặc không đồng bộ.
Một số phần mềm nhóm ủng hộ tính đồng bộ, nghĩa là giao tiếp tức thì. Tình huống này
có liên quan đến việc sử dụng nhiều kênh truyền thông. Những thứ này thực sự là hình ảnh hoặc
âm thanh bằng miệng. Loại thiết bị này sau đó định dạng cấu hình tình huống làm việc nhóm

gần mặt đối mặt. Về lựa chọn kênh giao tiếp, các phần mềm nhóm này cho phép các thành viên
tự quản lý hoạt động của họ trong chừng mực họ phải vật lộn để điều chỉnh cơng việc của mình
với các phương thức giao tiếp có vẻ phù hợp hoặc quen thuộc với họ. Tuy nhiên, giao tiếp đồng
bộ này trong trường hợp làm việc tập thể từ xa, các thành viên phải chọn một kênh giao tiếp
phù hợp với tất cả mọi người.
Quản lý trong khn khổ cấu trúc xác định khơng cịn có thể chỉ là một hoạt động riêng
lẻ. Nó phải trở thành thành quả của một tập thể và các thành viên phải có được quyền tự chủ
thực sự về tổ chức. Hơn nữa, khả năng lựa chọn các kênh giao tiếp tái tạo tình huống làm việc
nhóm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc thảo luận. Điều này rất có lợi cho các cuộc đối
thoại trực diện và đàm phán. Những không gian giao tiếp này thực sự cho phép đạt được một
quyền tự chủ nhận thức nhất định nhờ vào việc tích hợp kiến thức.
Một kiểu giao tiếp khác được ủy quyền thông qua việc sử dụng một số phần mềm nhóm
kiểu bán đồng bộ. Truyền thơng cho phép thông tin được trao đổi rất nhanh trong một hoạt động
nhưng trong một thời gian khơng đồng thời. Nó nhất thiết phải liên quan đến giao tiếp bằng văn
bản thuần túy. Loại thứ hai, về cơ bản khác với đặc điểm của tình huống làm việc trực diện.
Cần phải có cách tổ chức rõ ràng của hoạt động và sự phân bổ chính xác các vai trị và chức
năng của từng nhóm như vậy nhóm mới hoạt động hiệu quả. Các hệ thống hợp tác này chắc
chắn có mối quan hệ giữa năng lực quản lý và khối lượng e-mail trong nhóm. Vì vậy, giảng
viên phải hướng dẫn và định hướng cho sinh viên tìm ra cách khai thác cơng nghệ để mang lại
lợi ích trực tiếp cho nhóm.
Hiện nay, phần lớn phần mềm nhóm được sử dụng trong mơi trường chun nghiệp thúc
đẩy giao tiếp hồn tồn khơng đồng bộ. Chúng truyền tải thông tin, giống như công nghệ trước
đây đã đề cập, bằng văn bản nhưng trong thời gian trì hỗn. Các phần mềm nhóm khơng đồng
bộ này hướng dẫn hoạt động nhiều hơn so với giao tiếp bán đồng bộ. Theo chúng tôi quan sát,
các tác nhân sẽ bị hạn chế hơn so với việc sử dụng các hệ thống đa phương thức, tuân theo các
giao thức được xác định trước bởi công cụ để giao tiếp.
Do vậy, giao tiếp bằng phần mềm nhóm dường như tùy thuộc vào hệ thống tại chỗ, có
tác động kép; hoặc là nó tạo điều kiện cho các mối quan hệ giữa các cá nhân và hiệu quả trong
điều kiện các khuôn khổ hoạt động được lên kế hoạch để tổ chức vận hành; hoặc là, nó hạn chế
các mối quan hệ quá nhiều và trong trường hợp này, rủi ro chỉ tạo ra một thông tin liên lạc được

xác định trước, có thẩm quyền, làm suy giảm năng lực đổi mới trong hoạt động của nhóm.
325


5. Các quy tắc và cấu trúc của hoạt động
Trong sự tương tác qua dàn xếp về tổng thể các quy tắc, nhằm loại bỏ các nguồn gây ra
sự không chắc chắn. Quy tắc là một phương tiện trong tay người đứng ra tổ chức nhóm ở đây
là giảng viên để đạt được hành vi tuân thủ từ phía các sinh viên của mình. Các quy tắc xác
định trước sự đóng góp của những người thực hiện bằng cách xác định chính xác các nhiệm
vụ và để sửa chữa khơng gian làm việc để thực hiện quy trình quy định trong khuôn khổ công
việc hợp tác.
Việc lựa chọn phương thức làm việc hợp tác bao hàm sự phân bổ các vai trò do tổ chức
quy định trong tập thể. Chúng tương ứng với những thành viên được đầu tư cùng chúng, với
một loạt các nghĩa vụ tùy theo vị trí của họ trong hệ thống. Mục đích ràng buộc một cá nhân
với việc thực hiện một dự án tập thể. Cách thức mà một tổ chức được cấu trúc, việc thiết lập
các vai trị và quy tắc, loại hình giao tiếp được lựa chọn góp phần vào cấu thành của một tập
hợp các chuẩn mực và giá trị, các đại diện được chia sẻ về cách cảm nhận, suy nghĩ và hành
động. Thể chế tạo ra các yếu tố của sự hòa đồng, bản sắc, giá trị, ở một mức độ nhất định, cũng
có thể định hình các tác nhân hoặc ít nhất một phần xác định cách hoạt động được thực hiện.
Tất cả các ràng buộc, đặc trưng của một tình huống nhất định, các hành động và tương tác
những giải pháp này là biểu hiện của các năng lực quan hệ, nghĩa là văn hóa cá nhân. Đây là
lý do tại sao một tổ chức không thể xác định trước tất cả các điều kiện để thực hiện một hoạt
động tập thể, một cơng việc khi nó có tham vọng kết hợp một tập hợp các tác nhân phụ thuộc
lẫn nhau về mặt chuyên môn, tập thể nhưng cũng cá nhân hóa bằng kinh nghiệm của họ.
6. Tầm quan trọng của quyền sở hữu và quyền tự chủ
Các thành viên quản lý một phần hoạt động mà họ thực hiện, tùy thuộc vào việc nội bộ
hóa hoặc các giá trị của tổ chức. Tuy nhiên, giao tiếp qua trung gian trong một tập thể chuyên
nghiệp, chúng tôi tin rằng tác nhân chiếm đoạt không gian làm việc, chuyển nó vào phạm vi
riêng tư để tạo ra khơng gian làm việc của riêng mình, để lấy quyền sở hữu thứ gì đó.
Cách tiếp cận tự nguyện và hợp lý này cũng được định vị mạnh mẽ trong chừng mực

hành vi của thành viên đến nhận thức về cơ hội của họ và những ràng buộc của bối cảnh hành
động. Tính hợp lý ở đây là văn hóa, ngữ cảnh và tùy cơ ứng biến. Các thành viên phụ thuộc lẫn
nhau bởi vì họ khơng tồn tại bên ngồi bối cảnh hành động mà họ phát triển và có các điều
kiện cấu trúc tính hợp lý và các hành động của họ đồng thời được định hình lại bởi chính họ.
Chúng tôi nhận thấy rằng ý tưởng được bao hàm bởi tính hợp lý có giới hạn và nằm ở vị trí,
trong đó các cá nhân, nhiệm vụ, phương thức trung gian ảnh hưởng lẫn nhau. Các cá nhân bị
đặt trong những tình huống mà hầu hết thời gian khơng có gì thuộc về họ, khơng theo quan
điểm vật chất, cũng không theo quan điểm phi vật chất: cả công nghệ và thơng tin lưu chuyển
qua đó đều khơng phải là của riêng họ. Vì vậy, có một chức năng điều tiết rõ ràng ở đây, đó là
sự can thiệp tích cực của cá nhân vào địa điểm và cơng nghệ làm việc trong chừng mực, nó ngụ
ý sự điều chỉnh giữa cá nhân và tổ chức liên quan đến bản chất và phương pháp thực hiện hoạt
động. Quyền tự chủ sau đó phát triển ở cấp độ cá nhân hoặc nhóm, ở cấp độ ý nghĩa về hoạt
động, tổ chức của nó, việc thực hiện nó, hiện thực hố nó. Do đó, điều này sẽ có thể trở thành
chủ đề đàm phán và trong trường hợp này sẽ liên quan đến quy định chung của hoạt động tập
326


thể. Trên thực tế, tập hợp các quy tắc cấu trúc nền sáng tạo tạo thành một hệ thống nhất quán.
Tiếp theo là kết quả của một quy định xuất phát từ sự tồn tại của không gian tự trị cho phép mọi
người đưa ra tính hợp lý của riêng mình, hợp pháp hóa đồng thời hệ thống quy tắc cấu trúc
hành động và quy định là một đặc tính rất chung của làm việc nhóm, nó phần lớn được cấu
thành bởi đặc tính hợp lý của nó. Trong việc cung cấp cam kết và có đi có lại mà bất kỳ sự
tương tác nào muốn thiết lập đều đòi hỏi phải có. Do đó, quyền tự chủ của cá nhân trong cơng
việc ít nhiều được tổ chức cho phép và được cá nhân tìm kiếm trong điều kiện người này cố
gắng đạt được sự cân bằng giữa kỳ vọng của chính mình và của tổ chức.
Trong bối cảnh của vấn đề, sự tự chủ này có thể được định nghĩa là năng lực hành động
được phát triển để giải phóng bản thân khỏi sự phụ thuộc vào người khác. Trên cơ sở của thỏa
thuận về một giải pháp tổ chức, có một giao dịch được trao đổi là sự thừa nhận lẫn nhau về
quyền tự chủ và kiểm soát. Từ góc độ này, chúng ta có thể coi nhóm như một tập hợp các cá
nhân mà sự phụ thuộc lẫn nhau khơng bao giờ là tồn bộ. Tất cả mọi người có quyền theo đuổi

sở thích của họ. Có được quyền tự chủ kiến thức, tăng sự thoải mái của một người, sự tự do của
một người. Điều này nhất thiết dẫn đến một khoảng cách giữa hành động thực sự được thực
hiện và các phương pháp thực hiện do tổ chức xác định. Do đó, quyền tự chủ có được giải phóng
cá nhân khỏi hành vi được quy định cho một quy trình nhất định và nới lỏng các ràng buộc do
tổ chức đặt ra. Có thể hình dung được rằng do đó nó có thể trở thành điều kiện để đạt được hiệu
quả của công việc trong phạm vi một tập thể khi nó cho phép điều tiết giữa tập thể và cá nhân.
Trong quá trình triển khai các hệ thống cộng tác, việc tìm kiếm sự chiếm đoạt của máy móc
thiết bị cơng nghệ thơng tin dường như là một hành vi phản ứng với một tình huống cơng việc
mới. Do đó, sự phù hợp của hệ thống kỹ thuật công nghệ thông tin cũng là một dấu hiệu của
chiến lược hành động cá nhân đối mặt với công việc được quy định và bối cảnh của nó. Bởi vì,
các cá nhân trước hết là các cấu trúc xã hội, cách tiếp cận hành động của họ được liên kết với
các điều kiện vật chất, cấu trúc và con người trong bối cảnh xác định và hướng dẫn tính hợp lý
của họ. Những yếu tố này hình thành trong mắt của các cá nhân nhiều khn khổ mà theo đó
họ phát triển một chiến lược hành động.
7. Giải quyết các xung đột trong nhóm
Các tình huống xung đột rất thường xuyên xảy ra trong bối cảnh của các hệ thống hợp
tác công nghệ thông tin, nơi giao tiếp thường được chính thức hóa, quản lý và kiểm soát. Đây
là lý do tại sao cá nhân sẽ có xu hướng sửa đổi việc sử dụng cơng nghệ theo quy định, để phá
vỡ các quy tắc được xác định trước và tạo ra hệ thống quy định của riêng mình. Ngồi ra, xung
đột giữa các cá nhân và thể chế, hoặc giữa họ, có thể xuất hiện ở các cấp độ khác nhau. Trên
thực tế, trong chừng mực một hành động tập thể liên quan đến một mục tiêu cần đạt được, quy
định của nó do đó bị giới hạn trong một lĩnh vực cụ thể, nó huy động hay loại trừ cá nhân này
và cá nhân khác. Lĩnh vực hành động của nhóm được phân định bởi tổ chức. Nếu xung đột
được phát hiện, nó có thể được giải quyết bằng cách phát triển một quy trình thương lượng.
Đây có thể được coi là là một quá trình thường xảy ra trong một mối quan hệ xung đột, trong
đó các trao đổi được thiết lập, để giải quyết các vấn đề chống lại chúng và xác định các điều
khoản quan hệ có thể chấp nhận được. Sự điều chỉnh được tìm kiếm giữa hành động cá nhân
327



tự chủ và hành động cá nhân được quy định trong một hoạt động nhóm do đó bao hàm một
chiều hướng của hành động tập thể.
Nhìn chung, chúng tơi đã thấy rằng đối tượng nghiên cứu nằm ở cấp độ của một hoạt
động qua trung gian máy tính, trong đó giao tiếp ít nhiều được quy định và chính thức hóa. Đó
là một hoạt động kết nối các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của từng cá nhân.
Khái niệm về quyền tự chủ cũng đặc biệt thú vị đối với vấn đề này. Làm sâu sắc thêm
cách thức mà quyền tự chủ này được đề xuất cho các cá nhân phối hợp các nhiệm vụ và được
họ sắp xếp lại. Sự hợp tác của các tác nhân trong hoạt động làm cho nó có thể thúc đẩy tính
hiệu quả. Để phá vỡ các quy tắc đã quy định, nhóm phải phát triển một hệ thống thông tin liên
lạc không chính thức khơng nhất thiết phải tương ứng với logic ban đầu được tổ chức xác định.
Tuy nhiên, hiện tượng này thể hiện năng lực tập thể tham gia một cách cụ thể vào các mục tiêu
của tổ chức chính thức. Chúng ta có thể khẳng định rằng các chuẩn mực ngầm được thiết lập
bởi cá nhân hoặc tập thể của các cá nhân là chỉ số của một quy định tự quản về phía họ. Họ có
lợi ích gấp đôi nhằm loại bỏ các nguồn không đảm bảo (xác minh, hiểu rõ, kiểm soát), tuy
nhiên, chúng đồng thời là nguồn gốc của các yếu tố không chắc chắn khác. Do đó, sự khơng
chắc chắn đóng vai trị là cơ sở cho hành động chiến lược của tác nhân. Chính trong khơng gian
ít nhiều được xác định trước, quyền thương lượng phải được thiết lập. Quyền lực này phục vụ
lợi ích của cá nhân ngay cả trước khi phục vụ cho tổ chức. Cá nhân sẽ triển khai logic hiệu quả
của riêng mình và theo đó tạo ra một sự sắp xếp tổ chức thích hợp. Tuy nhiên, một hệ thống
làm việc hạn chế mạng lưới các cá nhân quá nhiều có nguy cơ làm thay đổi quy trình giao tiếp
theo quy định nhiều hơn nữa vì lợi ích của một hoạt động tập thể không lường trước được phát
sinh từ chính các tác nhân. Do đó, chính sự hội tụ giữa mục đích của hành động và quy định
của nhóm có thể tạo ra một q trình điều tiết. Sự hội tụ này phải xuất phát từ ý chí của tổ chức
và ý chí của các thành viên. Nó dựa trên một tập hợp các quy tắc, chính thức và khơng chính
thức, liên kết với quy đinh của một nhóm. Chúng tạo thành bản sắc sự đa dạng của của nhóm.
Từ nhóm này, một thành quả dần dần xuất hiện và phát triển, trong đó quản lý tất cả các chiến
lược cá nhân và điều chỉnh sự tương tác của các tác nhân.
8. Sự tương tác
Cuối cùng, các phân tích thực tiễn đã giúp chúng tơi làm nổi bật các đặc điểm chung
của giao tiếp qua trung gian và việc xây dựng mối liên kết giữa các cá nhân. Đặc biệt, các phân

tích cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của việc cấu hình lại các phương pháp thiết lập các
liên kết giữa các cá nhân theo cách cụ thể đối với mơi trường làm việc nhóm thơng qua cơng
nghệ thơng tin. Trên thực tế, ngồi các mối quan hệ giữa các cá nhân trong quá trình làm việc
nhóm, việc thực hiện thành cơng hoạt động dựa trên xây dựng mối quan hệ cá nhân với tập thể
rất hiệu quả.
Hơn nữa, các phân tích đã cho thấy cách tiếp cận chủ động của các tác nhân, của một tổ
chức công việc mạch lạc, chúng tôi thấy rằng việc làm việc chung cho một số hoạt động nhất
định có sự tham gia của công nghệ thông tin sẽ rất thú vị. Tuy nhiên, ý tưởng về công việc tập
thể phải có sự hợp tác, ít nhất cũng bao hàm một cấu trúc các hoạt động cũng như quy trình
giao tiếp - thuyết phục để thu thập kiến thức và phát triển các kỹ năng mới. Các quá trình giao

328


tiếp gắn kết mọi người trong một hoạt động chuyên mơn là cần thiết, trong một hoạt động có
sự tham gia của cơng nghệ thơng tin. Các q trình này giúp chúng ta có thể tái tạo một tình
huống càng gần càng tốt với một tình huống đối mặt các cuộc thảo luận và được coi là một hình
thức thích hợp để tổ chức công việc tập thể. Các cấu trúc giao tiếp là vật trung gian của các dấu
hiệu xã hội được chuyển tải trong mọi hoạt động tập thể, chúng rất cần thiết cho việc tổng hợp
kiến thức. Các cấu trúc giao tiếp này liên kết mọi người theo cách mà một mạng lưới thực sự
được tạo ra. Chúng tôi biết rằng, bất kỳ sự thay đổi tổ chức kỹ thuật nào cũng đòi hỏi một sự
đầu tư của các tác nhân đối với việc sử dụng thiết bị, sự cam kết trong các thủ tục làm việc mới,
bao hàm động lực và sự tham gia của mỗi người mà nếu khơng có việc tổ chức lại các mối quan
hệ trong một tổ chức của công việc sẽ không thể thành công một cách trọn vẹn.
Định đề này cũng thể hiện ở cấp độ các kỹ năng cần thiết để duy trì hoạt động của một mạng
truyền thơng, cho dù đó là các kỹ năng liên quan đến thiết bị kỹ thuật hay các kỹ năng liên quan
đến trung gian kiến thức. Do đó, nó cũng là một vấn đề phản ánh tầm quan trọng của việc thu nhận
các kỹ năng mới để thành công trong khoảng cách từ các phương tiện truyền thơng.
Trong làm việc nhóm, chúng ta biết rằng đó một hoạt động cá nhân liên quan đến công
việc của nhiều người. Sự hợp tác phối hợp sẽ tạo ra các mức độ thành công khác nhau của

cơng việc tập thể. Tính chi tiết này được tạo ra bởi thiết bị kỹ thuật được sử dụng để thực hiện
công việc, khả năng thực hiện một hoạt động liên quan đến số lượng người lớn hơn một người
hoặc một hoạt động tập thể. Hoạt động hợp tác liên quan đến công việc chung, một phần phụ
thuộc vào hệ thống cộng tác trong chừng mực các thiết bị kỹ thuật không đồng bộ và thiết bị
đồng bộ không tạo ra các liên kết có cùng bản chất giữa các cá nhân, tương tác giữa họ. Các
mối quan hệ này ít nhiều đều dày đặc và khơng có chất lượng giống nhau. Các mối quan hệ
này phụ thuộc vào việc thực hiện cùng nhau nhiều hay ít của hoạt động, nghĩa là việc xây
dựng một tác nhân tập thể.
Có thể hiểu đơn giản, cách hệ thống làm việc hợp tác có thể là cơng cụ giúp cấu trúc các
hoạt động chuyên môn của một tập thể làm việc. Chúng ta biết rằng phần mềm nhóm liên quan
đến một hệ thống trao đổi được quy định để tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau về thông tin và nhận
thức. Về mặt logic, những điều này khuyến khích sự hợp tác giữa các cá nhân, từ đó cải thiện
hiệu suất làm việc và thông qua phản hồi làm giảm sự không chắc chắn của tổ chức. Cấu trúc
bối cảnh hành động này kết hợp các hành vi cá nhân và tập thể.
9. Kết luận
Trong đào tạo kỹ năng làm việc nhóm, việc vận dụng công nghệ được gọi là thông tin
và truyền thông sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho các liên kết giữa các cá nhân. Các công cụ cụ thể
như phần mềm Collaborative Work nhằm hỗ trợ làm việc nhóm một cách chính xác hơn, các
dạng cơng việc có sự hỗ trợ của máy tính tạo thành các hệ thống thông tin dành cho công việc
điện tử. Sự xuất hiện của cơng nghệ thơng tin cũng đồng thời có một sự thay đổi có thể xảy ra
trong cách làm việc và trong việc xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân liên quan đến việc sử
dụng các công nghệ mới. Việc sử dụng này sau đó được coi là một cấu trúc được liên kết: tình
trạng của kỹ thuật, trạng thái của các đối tượng và hiện trạng của hoạt động tính đến cơng nghệ
thơng tin liên quan đến thực tiễn.

329


Khơng riêng gì việc đào tạo kỹ năng mềm, ở đây là kỹ năng hoạt động nhóm, trong giáo
dục đại học ở Việt Nam, công nghệ thông tin và truyền thông cũng đã dẫn đến những thay đổi

sâu sắc. Chúng tác động đến cả lĩnh vực sư phạm, các nhiệm vụ hành chính và các phương pháp
quản lý tổ chức trong các cơ sở đại học nhằm mục đích chính chắc chắn tìm sự cải thiện trong
kết quả và hiệu suất của sinh viên.
Tài liệu tham khảo
1. Galegher C. Kraut K. Egido C. (1995), Modèles de contact et de communication dans
la collaboration de recherche scientifique. Nouvelle chemise: Travail de groupe intellectuel.
2. Crozier M. Friedberg E. (1977), Acteur systémique Les contraintes sont des actions
organisées. Paris: Seuil.
3. Opper S. Fersko-Weiss H. (1992), Technologie pour les groupes. New York: Van
Nostrand Reinhold.
4. Finholt T Sproulll L Kiesler S. (1995), Communication et performance dans les
équipes de travail ad hoc, les groupes de travail intellectuels. LÉA New Jersey.
5. Reynaud.JD. (1993), Règles du jeu, action collective et régulation sociale. Paris:
Armand Collin.

330



×