Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Dạy học mỹ thuật ở trường phổ thông việt nam theo định hướng phát triển năng lực người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.68 KB, 15 trang )

DẠY HỌC MỸ THUẬT Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM THEO
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC
Ngày nay, dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là xu hướng tự
nhiên của các nước trên thế giới, nó có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành và phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cho đến nay việc
triển khai tại các trường học vẫn chưa thực sự hiệu quả dẫn đến chậm đổi mới và
ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục. Bài viết đề cập đến những khó khăn, thách
thức về chất lượng đội ngũ giáo viên Mỹ thuật ở trường phổ thông trong bối cảnh
Việt Nam hội nhập giáo dục quốc tế, đồng thời bàn về trách nhiệm của các cấp
quản lý trong việc nâng cao năng lực giáo viên.
Để khắc phục những nhược điểm này, kết quả học tập theo định hướng phát triển
năng lực; phải cơ cấu lại nội dung chương trình đào tạo; đồng thời tăng cường bồi
dưỡng, bồi dưỡng, phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho giáo viên Mỹ thuật,...)
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật ở trường phổ thông theo định
hướng phát triển năng lực trong thời kỳ quốc tế hóa hiện nay, vì đây là vấn đề then
chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục phổ
thơng ở Việt Nam. kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực; phải cơ cấu
lại nội dung chương trình đào tạo; đồng thời tăng cường bồi dưỡng, bồi dưỡng,
phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho giáo viên Mỹ thuật,...) nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật ở trường phổ thông theo định hướng phát
triển năng lực trong thời kỳ quốc tế hóa hiện nay, vì đây là vấn đề then chốt, có ý
nghĩa quyết định đối với việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông ở Việt
Nam.
1. Giới thiệu
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực (hay còn gọi là định hướng kết quả)
được nói đến nhiều từ những năm 1970 - 1980 và phát triển mạnh mẽ vào những
năm 1990 của thế kỷ 20, đến nay đã trở thành xu thế giáo dục quốc tế.
Trong thế kỷ 21, học sinh có thể tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau; họ
có thể tự học nếu họ biết cách học. Người thầy phải có khả năng hướng dẫn học
sinh cách tìm ra cái mình cần học và cách vận dụng vào thực tiễn. Vì vậy, dạy học
theo định hướng phát triển năng lực là mục tiêu cần thiết nhất để giúp người học tự


khẳng định mình trong cộng đồng và tạo khả năng thích ứng cao trước mọi tình
huống.1 .


Ở Việt Nam, dạy học theo định hướng phát triển năng lực đang là xu thế phát triển
mạnh mẽ ở nhiều cấp học. Phương pháp dạy học này được hiệu trưởng nhà trường
đưa vào thực hiện với phương châm học phải đi đôi với hành, gắn giáo dục với lao
động sản xuất, lấy lý thuyết làm thực hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo
dục gia đình và xã hội. Cách làm này đánh dấu một bước chuyển mang tính cách
mạng trong tư duy cũng như hoạt động giáo dục ở nhà trường.
Theo CT giáo dục phổ thông mới (ban hành tháng 7/2017), dạy học phát triển năng
lực là bảo đảm chất lượng kết quả dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện
phẩm chất, nhân cách và đặc biệt coi trọng vai trò của người học trong lĩnh hội tri
thức để có năng lực giải quyết các vấn đề trong học tập, trong nghề nghiệp và trong
thực tế cuộc sống2 . Tuy nhiên, đến nay việc triển khai tại các trường chưa hiệu quả
(chủ yếu do đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh), làm chậm đổi mới và ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo
dục phổ thơng.
nghiên cứu khoa học, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về dạy học theo định
hướng phát triển năng lực người học. Nguyễn Thị Côi [3 ; tr.31-34] và Hồ Thu
Quyên [4 ; tr.15-18]; Xác định các hệ thống năng lực cần thiết cho học sinh phổ
thông của đồng tác giả Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng [ 5 ; tr.30-33] và
Nguyễn Văn Cường [6 ; tr.15-18]; Nghiên cứu phát triển năng lực cho học sinh tiểu
học của tác giả Phạm Thị Thúy Hồng [7 ; tr.30-35] và Nguyễn Minh Quân [8 ; tr.3334]; Nghiên cứu về phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh trung học phổ thông
của đồng tác giả Phạm Kiều Anh và Trần Văn Giáp [ 9 ; tr.63-67]. Tác giả Đỗ
Hương Trà với cuốn sách “Dạy học tích hợp theo định hướng phát triển năng lực
học sinh”10 ; đồng tác giả Lê Đình Trung và Phan Thị Thanh Hội với “Dạy học
theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học ở trường
THPT” 1 v.v... Trong lĩnh vực mỹ thuật đề cập đến một số năng lực chuyên ngành
Mỹ thuật với các đồng tác giả Bạch Ngọc Diệp và Tạ Kim Chi [11 ; tr.54-58].

Tuy nhiên, để xây dựng hệ thống các giải pháp cốt lõi trong dạy học Mỹ thuật ở
trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh thì chưa có nhà nghiên
cứu nào nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tiễn giáo dục phổ thông Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học có ý nghĩa to lớn trong
việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học của giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, tồn diện nền giáo dục Việt Nam. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng
năng lực, kỹ năng dạy học của giáo viên Mỹ thuật ở trường phổ thông ngày càng


đặt ra u cầu phải có chiến lược, lộ trình thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng
cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học và
học Mỹ thuật trong nhà trường theo định hướng phát triển năng lực người học
trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
2. Nội dung
2.1. Dạy học Mỹ thuật ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng
lực người học
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là dạy học lấy việc phát
triển năng lực của học sinh làm mục tiêu, coi trọng các giai đoạn thực hành, chú ý
đến việc vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh vào thực tiễn cuộc sống.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới (ban hành tháng 7/2017) có 8 lĩnh vực, trong
đó có giáo dục nghệ thuật. Theo đó, năng lực của người học được chia thành hai
loại chính gồm năng lực chung và năng lực cụ thể. Năng lực chung là những năng
lực cơ bản, cần thiết của con người, là những năng lực sống và làm việc trong xã
hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tự học; năng lực tư duy, năng
lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất, năng lực
tin học). năng lực, năng lực ITC, v.v.) - những năng lực này được hình thành và
phát triển từ nhiều ngành học; năng lực được hình thành thơng qua các chương
trình và được thể hiện bằng nhiều tên gọi khác nhau như năng lực chính, năng lực
cốt lõi, năng lực cốt yếu, v.v.. A snăng lực cụ thể được hình thành và phát triển bởi

một ngành học cụ thể. Đây là một dạng năng lực chuyên biệt giúp người học giải
quyết các nhiệm vụ chun mơn của lĩnh vực đó.
Mơn Mỹ thuật ở trường phổ thông Việt Nam, trong CT giáo dục phổ thông mới ,
các năng lực chuyên biệt về môn học này cần được hình thành và phát triển cho
học sinh bao gồm: năng lực cảm thụ thẩm mỹ; năng lực sáng tạo; năng lực giao
tiếp nghệ thuật; năng lực phân tích; năng lực quan sát, khám phá; khả năng tạo
hình Phương tiện (tạo hình kỹ thuật số) [11 ; tr.54-58]. Trong khi đó, chương trình
giáo dục phổ thơng của nhiều nước (như Canada, Pháp, Bỉ, Đan Mạch, Nga, Hàn
Quốc, Singapore…) cũng chú trọng một số năng lực cần hình thành và phát triển
cho học sinh trong suốt quá trình học tập, đó là: năng lực giao tiếp; năng lực sáng
tạo; năng lực tư duy tưởng tượng; năng lực quan sát, khám phá; năng lực đánh giá,
năng lực định hình v.v. [11 ; tr.54-58].
Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, bài viết này chúng
tôi đi sâu vào hai năng lực cốt lõi, đặc trưng của mơn Mĩ thuật đó là năng lực cảm


thụ thẩm mĩ và năng lực sáng tạo . Đây là hai năng lực quan trọng và rất cần thiết
cho các năng lực chuyên biệt của bộ môn Mĩ thuật ở trường THPT.
* Năng lực cảm thụ thẩm mỹ của học sinh trong học tập môn Mĩ thuật
Theo Bạch Ngọc Diệp [11 ; tr.54-58], năng lực cảm thụ thẩm mỹ là mục tiêu chủ
yếu của chương trình giáo dục mỹ thuật ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy mỗi
nước có cách hiểu khác nhau (ví dụ: năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực cảm thụ
nghệ thuật, cảm nhận nghệ thuật của cá nhân…) nhưng đều đặt năng lực cảm thụ
thẩm mỹ trong mục tiêu của chương trình giáo dục nghệ thuật.
Có thể hiểu: năng lực cảm thụ thẩm mỹ là khả năng bộc lộ thái độ, cảm xúc, cử
chỉ, ngôn ngữ... của cá nhân một cách chân thực trước vẻ đẹp của tác phẩm nghệ
thuật và cuộc sống; vận dụng sáng tạo, hiệu quả những kiến thức về cái đẹp vào
thực tế, tạo môi trường thẩm mỹ lành mạnh.
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ còn thể hiện ở mắt nhìn nhận cái đẹp về hình thức, kiểu
dáng, màu sắc… trên sản phẩm mỹ thuật ứng dụng; phân biệt cái đẹp, cái xấu trong

tương quan; có gu thẩm mỹ rõ ràng; thể hiện tác phong phù hợp với thuần phong
mỹ tục.
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ thể hiện ở một số mặt: khả năng nhận biết cái đẹp; khả
năng thể hiện cái đẹp; năng lực nhận xét, đánh giá cái đẹp; khả năng vận dụng kiến
thức về cái đẹp vào cuộc sống.
Trong môn Mĩ thuật ở trường phổ thông, năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh
được thể hiện qua việc lựa chọn tác phẩm nghệ thuật; cách thể hiện sản phẩm; xây
dựng ý tưởng, sắp xếp bố cục, hình tượng, màu sắc v.v... trong quá trình tạo hình
cũng như thưởng thức tác phẩm nghệ thuật. Trong thực tiễn cuộc sống, năng lực
cảm thụ thẩm mỹ của học sinh thể hiện ở năng lực lựa chọn trang phục, lối sống
lành mạnh, giữ gìn vệ sinh, ngăn nắp, sạch sẽ, tham gia các hoạt động làm đẹp
cảnh quan môi trường.
* Năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập Mỹ thuật s
Một số nước trên thế giới, đối với chương trình giáo dục phổ thơng, năng lực sáng
tạo được chú trọng nhằm hình thành và phát triển năng lực người học nhằm giúp
người học năng động, sáng tạo trước những thay đổi của thực tiễn.
Khó có thể làm rõ các thành tố của năng lực sáng tạo, nhưng có thể xem xét năng
lực sáng tạo trên một số phương diện: khả năng có ý tưởng mới; khả năng tìm tịi,
khám phá cái mới trong cấu trúc cũ; khả năng nhìn vấn đề đa chiều; khả năng điều


chỉnh, đưa ra cách làm mới, tạo hiệu quả bất ngờ trong công việc. Năng lực sáng
tạo của học sinh được hiểu là thể hiện ở khả năng học sinh tư duy, tìm tịi những ý
tưởng mới nảy sinh trong quá trình học tập và trải nghiệm cuộc sống; từ đó đề xuất
những giải pháp mới gắn với tình hình thực tế, mang lại hiệu quả ngoài mong đợi
một cách thiết thực, hiệu quả. Đề xuất và triển khai ý kiến, học sinh thể hiện sự
thích thú tìm tịi [11 ; tr.54-58].
Trong chương trình Mĩ thuật ở trường THPT Việt Nam, năng lực sáng tạo được thể
hiện ở các yêu cầu về: ý tưởng về hình ảnh, cách sắp xếp bố cục hình ảnh, cách thể
hiện màu sắc trong hình ảnh, lựa chọn phong cách của hình ảnh… Tính sáng tạo

cịn thể hiện ở chỗ học sinh ln tìm đến có ý kiến và hành động kịp thời để xử lý
các tình huống phát sinh trong thực tế liên quan đến mỹ thuật; thường xuyên thể
hiện những ý tưởng mới, ấn tượng trong hoạt động văn hóa nghệ thuật; thu hút sự
chú ý của mọi người v.v... Điều này còn thể hiện ở khả năng hình dung từ các tình
huống giả định hoặc tình huống thực tế trong cuộc sống. Với yêu cầu như vậy, giáo
dục mỹ thuật ở trường phổ thơng phải chú trọng kích thích lịng ham học hỏi, kích
thích óc tị mị, óc sáng tạo để học sinh có khả năng sáng tạo tri thức và phát triển
năng lực từ những gì nhà trường mang đến cho các em. Rồi đổi mới PPDH theo
định hướng phát triển năng lực, chú trọng dạy HS cách học, cách tư duy; khuyến
khích học sinh tự học, tạo cơ sở để học sinh cập nhật kiến thức, kỹ năng và phát
triển năng lực; tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu, khám phá, nắm vững kiến thức
của bất kỳ phân môn nào một cách tự giác, tự chủ và sáng tạo... hiện đang trở
thành một yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên đối với tất cả các mơn học nói chung
và mơn Mỹ thuật nói riêng.
2.2. Thực trạng dạy học Mỹ thuật ở trường THPT theo định hướng phát triển
năng lực học sinh
Cho đến nay, việc triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
ở các trường chưa thực sự hiệu quả, còn nhiều bất cập. Biểu hiện về các vấn đề
sau:
* Chất lượng giáo viên Mỹ thuật: Giáo viên Mỹ thuật được đào tạo ở nhiều cơ sở
khác nhau, chất lượng chun mơn và trình độ sư phạm không đồng đều. Việc
nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học cũng như mức độ cập nhật những thành
tựu mới về khoa học giáo dục của giáo viên Mỹ thuật còn hạn chế. Việc dự giờ,
trao đổi kinh nghiệm về kiến thức, chun mơn cịn hạn chế... Hậu quả của những
bất cập trên thể hiện ở các mặt sau:


- Nhận thức về dạy học dưới nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học
sinh của đa số giáo viên Mỹ thuật còn hạn chế. Bản thân giáo viên Mỹ thuật chưa
sẵn sàng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo Phạm Minh

Hùng [12 ; tr.81-85], điều băn khoăn nhất là nhiều giáo viên Mỹ thuật hiểu sai về
khái niệm năng lực. Đặc biệt, hầu hết giáo viên được khảo sát đều hiểu năng lực là
năng lực và thuộc tính cá nhân. Các giáo viên này đều quan niệm dạy học dưới nhà
trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh là lấy phát triển năng lực học
sinh làm mục tiêu dạy học, coi trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái
độ của học sinh; quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động của học sinh. Một số
quan điểm đáng lưu ý của giáo viên về dạy học dưới nhà trường theo định hướng
phát triển năng lực học sinhlà sự thay thế tri thức, kỹ xảo, kỹ xảo bằng năng
lực; chỉ chú trọng phát triển năng lực mà không phát triển các yếu tố khác; tập
trung hoàn toàn vào kết quả của học sinh). Điều này chứng tỏ nhiều giáo viên
chưa nắm vững khái niệm năng lực. Hậu quả của những quan niệm sai lầm này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến việc dạy học của các em trong nhà trường phổ thông theo
định hướng phát triển năng lực học sinh. (Tương tự, đối với mơ hình VNEN, có
giáo viên ngây thơ cho rằng mơ hình VNEN là để học sinh tự học nhóm với nhau,
giáo viên khơng cần dạy. Quan niệm sai lầm như vậy rất nguy hiểm, sẽ làm cho
học sinh càng tự ti hơn).
- Mục tiêu dạy học: Vẫn còn nhiều giáo viên lúng túng khi thiết kế bài dạy theo
định hướng phát triển năng lực học sinh. Cụ thể: Trước đây, mục tiêu dạy học là
kiến thức, kĩ năng và thái độ. Hiện nay, mục tiêu dạy học là năng lực chung và
năng lực chuyên biệt cần hình thành ở người học sau khi dạy từng nội dung.
- Sử dụng phương pháp dạy học : Đánh giá chung về những tồn tại, yếu kém của
giáo dục phổ thông về dạy học và đổi mới phương pháp dạy học, Vụ Giáo dục
Trung học phổ thông (thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã tổng kết như sau: “Việc
đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền
thụ kiến thức một chiều vẫn là cách dạy chủ yếu của nhiều giáo viên. Ít giáo viên
chủ động, sáng tạo trong việc kết hợp các PPDH cũng như sử dụng các PPDH
phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của HS. Việc dạy học còn nặng về kiến thức
lý thuyết truyền thụ. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết tình huống
thực tế cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức chưa thực
sự được quan tâm. Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, sử dụng

phương tiện dạy học chưa được triển khai rộng rãi và hiệu quả ở trường THPT”13 .
Đánh giá trên được thể hiện rất rõ đối với giáo viên phổ thông. Chi tiết:


+ Phương pháp trình bày áp đặt, một chiều vẫn chiếm ưu thế trong giờ dạy của một
số giáo viên. Mơ hình giờ dạy Thầy nói, trị nghe; Tình trạng thầy đọc, trò
chép vẫn tiếp tục diễn ra - nhất là ở vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh. Vì vậy, việc học
giống như những lời độc thoại của giáo viên. Số giáo viên sử dụng kết hợp phương
pháp thuyết trình với các phương pháp khác (vấn đáp, trực quan, nêu vấn đề, thảo
luận nhóm…) cịn ít và chưa thường xuyên.
+ Một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã được lưu ý và vận dụng nhưng
chưa thường xun, liên tục; cịn nặng về hình thức, thậm chí chỉ để thể hiện (nhất
là ở các giờ dạy mẫu và các cuộc thi giáo viên giỏi).
+ Phương pháp giảng dạy của nhiều giáo viên chưa gắn với thực tế cuộc
sống. Giáo viên chưa chú ý hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
hình thành qua bài học để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân khiến học sinh không hứng thú với môn học lẽ ra phải
rất hấp dẫn, thú vị và có tác dụng bởi sự sáng tạo của nó.
- Sử dụng phương tiện dạy học: Hiện nay đa số giáo viên Mỹ thuật đã có ý thức tốt
về vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng phương tiện dạy học. Hầu hết các
trường không cịn tình trạng giáo viên Mỹ thuật “dạy thiếu cơ sở”. Tuy nhiên, việc
sử dụng phương tiện dạy học hiện đại của một số giáo viên chưa mang lại hiệu quả
cao. Nhiều giáo viên còn rất lúng túng trong việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin
vào q trình dạy học. Nhiều giáo viên chưa biết khai thác, tận dụng tính năng, tác
dụng của từng phương tiện dạy học; chưa chú ý sử dụng phương tiện dạy học để
khơi dậy hứng thú, nâng cao tinh thần chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập.
- Kiểm tra đánh giá kết quả theo định hướng phát triển năng lực học sinh của
nhiều giáo viên còn hạn chế. Đặc biệt, họ chưa hiểu rằng một khi mục tiêu kiểm
tra, đánh giá thay đổi kéo theo sự thay đổi về phương pháp, hình thức kiểm tra

đánh giá - nhiều giáo viên Mỹ thuật còn bỡ ngỡ, chưa hiểu rõ bản chất của vấn đề
nên chưa thực hiện tốt.
Việc gắn phương pháp dạy học với kiểm tra đánh giá (đặc biệt là đánh giá một q
trình) của giáo viên cịn mờ nhạt. Hầu hết các tiết dạy ít thể hiện sự đánh giá của
giáo viên và sự tự đánh giá của học sinh (rõ nhất là đối với giáo viên vùng sâu,
vùng xa).
- Nhiều giáo viên mỹ thuật có óc thẩm mỹ hạn chế: Dạy học Mĩ thuật ở trường phổ
thông là dạy cho học sinh nhận biết cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp và biết sáng tạo


cái đẹp theo cách nghĩ, cách cảm, cách diễn giải của mình. Nói cách khác, người
giáo viên Mỹ thuật phải dạy cho học sinh của mình một cảm thụ thẩm mỹ
tốt. Muốn làm tốt công tác giáo dục thẩm mĩ bằng mĩ thuật điều kiện tiên quyết là
người giáo viên phải có cảm thụ thẩm mỹ tốt. Tuy nhiên, do đội ngũ giáo viên
được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau dẫn đến chất lượng chun mơn và trình
độ sư phạm không đồng đều. Đặc biệt giáo viên Mỹ thuật ở vùng sâu, vùng xa rất
hạn chế về mặt thẩm mỹ (thậm chí khơng phân biệt được bức tranh đẹp hay khơng
đẹp). Vì vậy,
* Trách nhiệm của các cấp quản lý trong việc nâng cao năng lực dạy học của
giáo viên Mỹ thuật: Việc chuẩn bị dạy học theo định hướng phát triển năng lực
người học của các cấp quản lý - nhất là của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn thiếu
chuyên nghiệp: thể hiện ở việc thực hiện này mơ hình chưa bài bản, đồng bộ; lộ
trình chưa hợp lý, chưa khoa học; quyết định quá vội vàng khi các điều kiện cần và
đủ chưa chín muồi... nên hiệu quả đạt được chưa cao như mong muốn. Chi tiết:
- Công tác bồi dưỡng giáo viên các môn học nói chung và mơn Mỹ thuật nói riêng
đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai trong những năm học qua nhưng vẫn
theo chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành. Đây là khó khăn cho các trường
trong cơng tác quản lý chuyên môn và khiến giáo viên rất lúng túng khi thực hiện
(tháng 7/2017 mới có quyết định chính thức về mặt pháp lý dự thảo chương trình
này để các trường THPT thực hiện). Do việc triển khai chưa đồng bộ và khoa học

dẫn đến nội dung bồi dưỡng giáo viên Mỹ thuật chủ yếu ở lĩnh vực nhận thức, lý
thuyết mà chưa có mơ hình cụ thể, chưa vận dụng vào các bài cụ thể cũng như chủ
đề dạy học của mơn học. chương trình.
- Chương trình, sách giáo khoa Mĩ thuật hiện hành chỉ phỏng theo một giai đoạn
lịch sử nhất định. Vì vậy, sau một số năm thực hiện, có thể dễ dàng nhận thấy
những ưu điểm của sách giáo khoa, nhưng cũng cần khắc phục những tồn tại, hạn
chế. Trong khi chưa thực hiện chương trình mới, việc tổ chức dạy học Mỹ thuật ở
trường phổ thơng cịn gắn với các mơn học cụ thể, giáo viên dạy chưa chú ý đến
tính hệ thống, nhóm bài, chủ điểm... để hình thành và phát triển năng lực cho sinh
viên. Kiến thức, kĩ năng thu được từ bài học chưa thể hiện tính liên hệ, kế thừa,
củng cố và nâng cao. Vì vậy, học sinh chủ yếu ghi nhớ kiến thức của từng bài mà
chưa rèn luyện kỹ năng cho từng bài toán.
* Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học của các trường phổ thông hiện nay chưa đáp
ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh (trang thiết bị,
phịng học chưa đảm bảo, lớp q đơng học sinh…).


Trước những tồn tại, bất cập đó, cần tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao
chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, đáp ứng nhu cầu
của xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh
* Nâng cao nhận thức cho giáo viên Mỹ thuật về sự cần thiết phải dạy học theo
định hướng phát triển năng lực học sinh: Chuyển từ dạy học theo nội dung sang
dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là đổi mới căn bản, cốt lõi
nhất của giáo dục phổ thông. cơ hội để nâng cao chất lượng dạy học và thách thức
lớn đối với giáo viên phổ thông khi nhận thức về dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh của đa số giáo viên còn hạn chế [ 14; tr.11-14]. Vì vậy, giáo
viên phải hiểu bản chất của dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh,
đó là: tổ chức, chỉ đạo việc lựa chọn nội dung, sử dụng phương pháp, hình thức tổ

chức dạy học đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh. Nắm bắt được bản chất
giáo viên biết mình cần tập trung vào những khâu then chốt nào của quá trình dạy
học? Những phương pháp và hình thức nào cần tham gia vào quá trình dạy
học? v.v… Giáo viên mỹ thuật cần hiểu rõ dạy học theo định hướng phát triển năng
lực không chỉ chú trọng tích cực hóa hoạt động trí tuệ của học sinh mà còn chú
trọng giải quyết các vấn đề gắn với tình huống cuộc sống và nghề nghiệp, đồng
thời gắn hoạt động trí tuệ với thực tiễn ; nâng cao tinh thần đồng đội,.
* Đổi mới căn bản phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh:
Khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, phương pháp dạy học
và hình thức tổ chức dạy học giữ vai trò quan trọng. Sự gắn kết giữa phương pháp
dạy học và hình thức tổ chức dạy học sẽ tạo cho học sinh nhiều cơ hội học tập, trải
nghiệm, kích thích hứng thú và mong muốn thể hiện năng lực của các em. Tuy
nhiên, để các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học có thể thực hiện tốt vai trị
của nó thì bản thân chúng phải là những phương pháp, hình thức dạy học tích cực,
có khả năng phát huy tính chủ động, sáng tạo và vận dụng tri thức, kĩ năng của học
sinh; Điều quan trọng là tập trung vào việc dạy học sinh cách suy nghĩ; khuyến
khích học sinh tự học, tạo cơ sở để học sinh cập nhật kiến thức, kỹ năng và phát
triển năng lực; tổ chức đa dạng các hình thức học tập, quan tâm đến các hoạt động
xã hội, ngoại khóa v.v [15 ; tr.49-53].
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn mĩ thuật không chỉ chú
trọng phát huy tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh mà còn rèn luyện kĩ


năng giải quyết vấn đề gắn với các tình huống trong cuộc sống, trong thực
tiễn. Giáo viên ln khuyến khích học sinh tạo ra những sản phẩm/bản phác thảo
sáng tạo của riêng mình, khơng lặp lại hướng dẫn của giáo viên, không giống bạn
bè và hơn nữa, không lặp lại chính mình. Trong q trình dạy học giáo viên cần
chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi để vận dụng phù hợp các phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh phát huy năng lực sáng tạo, năng lực làm

việc cá nhân và hợp tác giải quyết vấn đề; khuyến khích học sinh ln có nhu cầu
học tập, tìm tịi sáng tạo và thể hiện năng lực của mình16 .
Theo Chương trình giáo dục phổ thơng mới, đổi mới PPDH trong dạy học Mĩ thuật
chủ yếu là thực hành trực quan, sáng tạo thông qua các chủ đề học tập phù hợp với
lứa tuổi và phù hợp với điều kiện CSVC của trường, lớp. Mỗi chủ đề được giải
quyết bằng một chuỗi các bài tập tạo hình được thiết kế nhằm hình thành cho học
sinh kỹ năng tạo hình bằng cách nhận diện, phân tích, xử lý màu sắc, đường nét,
hình khối, cơng nghệ số để thể hiện cảm xúc cá nhân. Tại các trường tiểu học, tăng
cường hoạt động trải nghiệm nghệ thuật sáng tạo theo nhóm bên cạnh các hoạt
động độc lập cá nhân của học sinh; đa dạng hóa khơng gian học tập (học trong và
ngoài lớp). Ở trường trung học cơ sở, tăng cường các hoạt động cá nhân để học
sinh có cơ hội thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo cá nhân;2 .
* Cần cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học các bài học trong CT hiện hành
theo định hướng phát triển năng lực học sinh: Cụ thể: rà soát ưu, nhược điểm
của CT, SGK hiện hành; trên cơ sở đó tái cơ cấu cho phù hợp; thiết kế các chủ đề
từ các ngành học hiện tại; xây dựng kế hoạch dạy học mới; tổ chức và thực hiện
dạy thí điểm trong một số năm đầu tiên và tiến tới dạy đại trà trong những năm tiếp
theo.
* Tăng cường bồi dưỡng, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho giáo viên Mĩ
thuật: Giáo dục Mĩ thuật có ưu điểm là hình thành và phát triển cho các em các
phẩm chất: nhân văn, bao dung, tự lập; các năng lực: thẩm mỹ, giao tiếp, hợp tác,
cảm thụ, hiểu và thực hành nghệ thuật; định hướng thẩm mỹ, bồi dưỡng hứng thú
cho học sinh khi tiếp xúc với hoạt động nghệ thuật; giáo dục lòng yêu quý, thái độ
trân trọng, ý thức bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống đi đơi với
sáng tạo trong q trình hội nhập và giao thoa văn hóa2 .
Để đánh giá đúng giá trị thẩm mỹ phải có cảm quan thẩm mỹ đúng đắn. C.Mác đã
từng nói: “Muốn thưởng thức nghệ thuật thì trước hết phải là người có học về
nghệ thuật”. 17. Nhiệm vụ giáo dục mĩ thuật được thực hiện bởi nhiều chủ thể trong đó có giáo viên Mĩ thuật ở trường phổ thông. Đối với học sinh phổ thông,



nhiệm vụ đầu tiên của giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật là giáo viên phải bồi
dưỡng cho học sinh một cảm thụ thẩm mỹ tốt. Như vậy yêu cầu đầu tiên của một
giáo viên Mĩ thuật là phải có óc thẩm mỹ tốt; họ phải biết nhận thức đúng đắn về
thị hiếu thẩm mỹ, nhận thức và rung cảm trước những giá trị thẩm mỹ đích
thực. Nếu khơng có “gu” thẩm mỹ tốt, giáo viên sẽ mất định hướng trong việc dạy
cho học sinh cách thưởng thức cái đẹp và sáng tạo cái đẹp đích thực, dẫn đến thậm
chí có thể làm tổn hại đến tính độc đáo trong cảm thụ thẩm mỹ của trẻ (vì tâm hồn
trẻ trong sáng như tờ giấy trắng). Nếu học sinh được hướng dẫn bởi những giáo
viên thẩm mỹ giỏi thì năng khiếu và cảm thụ thẩm mỹ của trẻ sẽ được hình thành
và phát triển một cách tích cực; trong tương lai, những sinh viên này sẽ có gu thẩm
mỹ và lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn, tinh tế. Ngược lại, chẳng may đứa trẻ dưới sự
hướng dẫn của thầy cơ có tật xấu, tờ giấy trắng sẽ mang vết hằn, rất khó tẩy
xóa. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật phải có cơ sở khoa học, trong đó
lấy cảm giác thẩm mỹ làm kim chỉ nam, là phương tiện duy nhất để điều khiển cảm
giác thẩm mỹ và sáng tạo (vì giáo dục thẩm mỹ là quá trình hình thành ở học sinh
năng lực nhìn nhận, đánh giá, đánh giá, sáng tạo). và hành động dưới cái đẹp).
Trong lĩnh vực giáo dục phổ thơng nói chung và giáo dục thẩm mỹ nói riêng, giáo
dục thẩm mỹ có những nhiệm vụ sau:
- Rèn luyện cho học sinh năng lực cảm thụ, đánh giá, thưởng thức cái đẹp trong
thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật.
- Rèn luyện cho học sinh năng lực đánh giá cái đẹp về tự nhiên, xã hội và nghệ
thuật; Nhận biết cái đúng, cái tốt, cái đẹp.
- Giáo dục học sinh tình yêu, thị hiếu thẩm mỹ phù hợp với các giá trị văn hóa, văn
minh
- Rèn luyện cho học sinh năng lực sáng tạo cái đẹp trong sinh hoạt, trong lao động,
trong học tập và trong sinh hoạt tập thể - cái đẹp vật chất, cái đẹp tinh thần, cái đẹp
nghệ thuật.
- Làm cho mỗi học sinh hướng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp. Quan trọng
nhất là tu dưỡng đạo đức, tạo nên nét đẹp trong nhân cách phẩm giá.
Tóm lại, một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục thẩm mỹ bằng

nghệ thuật cho trẻ lứa tuổi học đường là giáo dục cho các em cảm thụ thẩm mỹ và
óc sáng tạo. Mục tiêu đó sẽ khơng thể thực hiện được nếu kiến thức thẩm mỹ của
giáo viên không tốt.


* Tạo điều kiện cho giáo viên Mỹ thuật làm quen với kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực: Đánh giá kết quả học
tập của học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến cách dạy và học. Theo quan điểm phát
triển năng lực, đánh giá kết quả học tập không lấy kiểm tra năng lực tái hiện kiến
thức đã học làm trung tâm đánh giá mà cần chú trọng năng lực vận dụng sáng tạo
kiến thức vào các tình huống ứng dụng khác nhau.
Đến nay mơ hình dạy và học để thi vẫn tồn tại.Dạy học theo định hướng phát triển
năng lực, nếu giáo viên và học sinh không thay đổi cách dạy và học sẽ không thể
đáp ứng yêu cầu đánh giá. Việc đầu tiên cần làm khi thực hiện đánh giá năng lực là
xây dựng hệ thống bài tập, bài tập thực hành theo định hướng phát triển năng
lực. Đây là công cụ luyện tập để học sinh phát triển năng lực, đồng thời cũng là
công cụ giúp giáo viên đánh giá sự phát triển năng lực của học sinh, đánh giá mức
độ chuẩn hóa nội dung dạy học. Khi xây dựng bộ bài tập hoặc bài thực hành, giáo
viên cần thiết kế những bài tập yêu cầu học sinh vận dụng các kiến thức khác nhau
để giải quyết một vấn đề mới gắn với tình huống thực tế. Các bài tập và bài thực
hành cần đảm bảo tính phân hóa ở các cấp độ nhận thức khác nhau (ví dụ: sinh sản,
* Bồi dưỡng, bồi dưỡng giáo viên Mỹ thuật nhằm nâng cao năng lực dạy học
theo định hướng phát triển năng lực học sinh:
- Để có thể nhanh chóng thích ứng với chương trình, sách giáo khoa mới (xây dựng
theo hướng tiếp cận phát triển năng lực học sinh), địi hỏi giáo viên Mỹ thuật phải
có năng lực dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.. Tổ chức và
nâng cao năng lực dạy học để giáo viên thích ứng nhanh với chương trình, sách
giáo khoa mới. Vì vậy, việc bồi dưỡng, bồi dưỡng giáo viên Mỹ thuật phải hướng
tới những mục tiêu khác nhau. Trước mắt phải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thơng, trong đó tập trung điều chỉnh nội dung, hình thức tổ chức dạy học của

chương trình, sách giáo khoa hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học
sinh; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học; đồng thời đổi mới
phương pháp và hình thức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh, thành phố,
các trường và đội ngũ giáo viên thiết kế lại chương trình dạy học trên cơ sở chương
trình phổ thơng hiện hành, đó là: Từ các bài học cụ thể, xây dựng thành các chủ
đề/chủ đề, qua đó các kỹ năng, năng lực được hình thành. phát triển cho học
sinh. Có thể nói, đây là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp giáo viên bước
đầu đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.


- Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh cần
tiến hành dạy học Mĩ thuật theo hướng tích hợp. Quan điểm tích hợp sẽ làm thay
đổi mục tiêu môn học. Mặt khác, tích hợp cịn thể hiện ở sự gắn kết giữa kiến thức
trong sách vở với tri thức trong cuộc sống, gắn kết giữa môn mỹ thuật với các môn
khoa học xã hội và nhân văn khác nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, rèn luyện
kỹ năng tồn diện, góp phần giáo dục phẩm chất và nhân cách học sinh vào hình
mẫu mới: năng động, chủ động, sáng tạo, tự tin hành động.
- Dạy học tích hợp cũng cần gắn với dạy học phân hóa. Phân hóa là việc chia học
sinh thành các nhóm khác nhau, mỗi nhóm do một giáo viên giảng dạy theo một
chương trình phù hợp với đặc điểm tâm lý, năng lực và nhịp độ học tập; phù hợp
với nhu cầu học tập của học sinh, trên cơ sở đó phát triển tối đa năng lực của từng
học sinh. Dạy học phân hóa thể hiện ở việc tạo điều kiện cho mỗi học sinh thể hiện
sở trường, năng lực và sở thích cá nhân trong việc tự xây dựng kiến thức (thơng
qua thảo luận nhóm), khuyến khích cá nhân tìm tịi, suy nghĩ và suy luận từ các
góc độ khác nhau trong q trình học tập. Thơng qua q trình dạy học, học sinh sẽ
có nền tảng kiến thức, kỹ năng và phương pháp học tập để đáp ứng những thách
thức đặt ra trong học tập và trong cuộc sống.
2.4. Bàn luận
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là bước chuyển đổi từ

chương trình hiện hành (phần lớn tiếp cận nội dung kiến thức bằng phương pháp
dạy học một chiều thủ công, học sinh ít chủ động sáng tạo) sang chương trình dạy
học mới theo định hướng phát triển năng lực người học và trình độ (Mục tiêu chính
là tăng tính tự chủ, chủ động, sáng tạo, tăng khả năng giao tiếp, tương tác giữa
học sinh thông qua việc tự học và lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo
viên - đây là điểm yếu không chỉ của học sinh mà của người Việt Nam nói chung
như cách dạy truyền thống)
Tuy nhiên, một mơ hình giáo dục tốt được áp dụng thành cơng hay thất bại cịn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố:
- Thứ nhất, giáo viên là nhân tố quan trọng nhất quyết định thành công của đổi mới
giáo dục. Bất kỳ chương trình giáo dục hay mơ hình giáo dục nào dù tiên tiến đến
đâu cũng không giải quyết được vấn đề nếu người thực hiện (người thầy) trình độ
kém. Nếu đổi mới giáo dục không gắn với nâng cao tay nghề, khơng coi trọng chất
lượng giáo viên thì đổi mới giáo dục sẽ thất bại. Đây là điểm yếu cố hữu đã có từ
hàng chục năm nay, rất đáng lo ngại về chất lượng đội ngũ giáo viên khi ngành
giáo dục thay đổi chương trình. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người


học, giáo viên sẽ phải thay đổi giáo án, thay đổi phương pháp, hình thức dạy học
và quan trọng hơn là thay đổi cách tư duy - yếu tố tạo nên sự bứt phá của mỗi con
người.
- Thứ hai, trên thực tế dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học có
nơi đạt kết quả nhưng có nơi hiệu quả chưa tốt. Thực trạng cho thấy, nguyên nhân
chủ yếu là do công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chưa tốt
dẫn đến tình trạng hiểu sai, hiểu chưa đầy đủ dẫn đến giáo viên không đáp ứng
được yêu cầu.
- Thứ ba, do đất nước trải dài từ nhiều vùng địa lý khác nhau, có nhiều thành phần
dân tộc khác nhau, có điều kiện kinh tế, xã hội, nền tảng giáo dục khác nhau... nên
chương trình, sách giáo khoa mới phải đặc biệt chú ý đến tính chất vùng miền, địa
phương và nội dung giáo dục địa phương .

- Thứ tư, để việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học đạt hiệu
quả cao thì vai trị quản lý của lãnh đạo có ý nghĩa quyết định, trong đó hạt nhân
của nó là thúc đẩy phát triển chương trình nhà trường (tăng cường tính chủ động
vận dụng linh hoạt, sáng tạo theo vào điều kiện thực tế của các trường trên cơ sở
khung chung).
Từ thực trạng và những bất cập trong việc triển khai dạy học theo định hướng mơ
hình phát triển năng lực người học, Bộ GD-ĐT cần rút kinh nghiệm gì khi triển
khai chương trình giáo dục phổ thơng mới? Cần có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về
cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, đặc biệt cần có thời gian đào
tạo đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Mặt khác, việc triển khai cần có lộ trình
hợp lý, bước đi phù hợp; khơng hấp tấp; phải có tinh thần cầu thị lắng nghe, kịp
thời rút kinh nghiệm để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu thực tế.
3. Kết luận
Đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực
người học là bước chuyển đổi từ chương trình hiện hành sang chương trình giáo
dục mới được thiết kế theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người
học. Đây là bước căn bản, triệt để nhất của giáo dục phổ thông. Động thái này vừa
là cơ hội nâng cao chất lượng dạy học, vừa là thách thức đối với giáo viên phổ
thông.
Để sự đổi mới này đạt hiệu quả, cần có sự nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan
trọng của môn học đối với việc thực hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam
khơng chỉ có kiến thức, năng lực chuyên môn… đồng thời, cần được Nhà nước, Bộ


Giáo dục và Đào tạo, cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, phụ huynh và toàn xã hội
thực hiện.




×