Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thiết kế và tổ chức dạy và học lịch sử ở trường phổ thông việt nam nhằm phát triển năng lực với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.53 KB, 12 trang )

THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG VIỆT NAM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VỚI SỰ HỖ TRỢ
CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Bài viết phản ánh kết quả nghiên cứu của tác giả về thiết kế và tổ chức hoạt động
dạy và học lịch sử ở trường phổ thông (Việt Nam) với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin (CNTT). Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận nguồn tài liệu tham khảo mới,
tác giả đề xuất tiêu chí đánh giá việc dạy và học lịch sử khi ứng dụng CNTT thông
qua bộ công cụ Đánh giá hoạt động học tập (LAR). Đồng thời, tác giả cũng làm rõ
quy trình thiết kế và tổ chức hoạt động dạy học lịch sử ở trường phổ thông theo
hướng đã chỉ ra.
1. Giới thiệu
Từ những năm 1990, giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành xu thế
chung quốc tế. Tại Việt Nam, ngày 28 tháng 7 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã thông qua Chương trình giáo dục phổ thơng mới theo định hướng hình thành,
phát triển năm phẩm chất và ba cặp năng lực chung cho người học [1; 6-7]. Chương
trình giáo dục phổ thông mới hướng tới 5 phẩm chất (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ,
trung thực, trách nhiệm) và 3 cặp năng lực (tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác,
giải quyết vấn đề và sáng tạo). Năm học 2019-2020, chương trình giáo dục phổ
thơng mới bắt đầu được áp dụng vào thực tế, đồng nghĩa với việc giáo viên phải
tích cực tiên phong tiếp cận các nguồn tư liệu về đổi mới phương pháp dạy học
phát triển năng lực để đáp ứng yêu cầu. Để thực hiện chuyển đổi phương pháp dạy
học từ chỗ học trò biết, học trò làm được sang học trò thực hành được, giáo viên
cần tích cực sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại vào dạy học, trong
đó có CNTT. Môn Lịch sử ở trường phổ thông thuộc lĩnh vực khoa học xã hội có
nhiều thuận lợi để giáo viên vận dụng công cụ này vào việc thiết kế và tổ chức các
hoạt động trên lớp nhằm mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
nhiều giáo viên có nhận thức chưa đúng về việc ứng dụng CNTT trong môn lịch
sử, nhất là trong thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy và học lịch sử theo định hướng
phát triển năng lực với sự hỗ trợ của CNTT. 2 ,3 ,4 ,5 ,6 ,7 ,8 ... Vì vậy, trên cơ sở tiếp cận
các nguồn tài liệu có liên quan, tác giả đã chỉ rõ các bước trong quá trình hình
thành và phát triển năng lực học sinh, đề xuất tiêu chí đánh giá hoạt động dạy và


học theo định hướng phát triển năng lực ở trường phổ thông với sự hỗ trợ của
CNTT và làm rõ các thiết kế quy trình, tổ chức hoạt động dạy và học theo hướng
đã nêu (qua một ví dụ cụ thể ở lớp 11, THPT).
2. Nội dung


2.1. Các bước của quá trình hình thành và phát triển năng lực học sinh dạy
học lịch sử ở trường phổ thông
2.1.1. Khái niệm năng lực và mối quan hệ giữa các thành phần của năng lực
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “năng lực là khả năng, là điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động” [9 ; 1125]. Theo Từ điển Wiki: “năng
lực là khả năng làm việc tốt, do phẩm chất đạo đức và chuyên môn tạo ra”. Gần
đây, nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực Xã hội học, Giáo dục học, Triết học, Kinh
tế học... cũng đã thảo luận và cố gắng đi đến một định nghĩa thống nhất. Nhiều nhà
nghiên cứu trong nước coi năng lực là sự tích hợp sâu sắc của kiến thức, kỹ năng
và thái độ giúp thực hiện một công việc chuyên biệt, được thể hiện và kiểm chứng
trong một môi trường cụ thể.2 ,3 ,4 ,11 ... Tại Hội nghị chuyên đề về năng lực cơ bản
của Hội đồng châu Âu, sau khi phân tích nhiều định nghĩa, F.E. Weinert kết
luận: Xuyên suốt các môn học, năng lực được thể hiện như một hệ thống các năng
lực, trình độ hoặc kỹ năng thiết yếu giúp con người có thể đạt được một mục
đích . "Tại diễn đàn này, J. Coolahan cho rằng năng lực là " những năng lực cơ bản
dựa trên kiến thức, kinh nghiệm, giá trị và thiên hướng của một con người được
hình thành thơng qua thực hành giáo dục "12 . Ngân hàng Thế giới (WB) coi thế kỷ
XXI là kỷ nguyên của Nền kinh tế dựa trên kỹ năng và nhấn mạnh năng lực của
mỗi người được thể hiện trên ba khía cạnh " kiến thức, kỹ năng và thái độ ".11 ...
Tiếp cận các nhận thức này, chúng tôi cho rằng: Năng lực là khả năng nắm vững
các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách phù
hợp để thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả các vấn đề của
cuộc sống [13 ; 25]. Sự hình thành và phát triển năng lực ln diễn ra theo hình
xoắn ốc, trong đó năng lực đã có sẵn được sử dụng để sáng tạo tri thức mới; Đổi

lại, kiến thức mới đặt nền tảng cho sự hình thành các năng lực mới.
Giữa các thành phần của năng lực (kiến thức, kỹ năng - KN và thái độ) có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Trong đó, tri thức, kỹ năng - kỹ xảo là cơ sở
(điều kiện) cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nhất
định, nhưng không đồng nhất với năng lực. Chẳng hạn, học sinh khơng thể có năng
lực tốn học nếu khơng có kiến thức tốn học và thực hành các dạng tốn. Học
sinh có năng lực sẽ góp phần làm cho quá trình lĩnh hội tri thức, kĩ năng và kĩ năng
khi tham gia các hoạt động được nhanh chóng, thuận tiện và dễ dàng hơn. Học sinh
có năng lực (trong lĩnh vực đó) có kiến thức, kỹ năng - kỹ năng, nhưng có kiến
thức, kỹ năng - kỹ năng chưa hẳn đã có năng lực. Thực tiễn dạy học cho thấy,
người học phải vận dụng có hiệu quả kiến thức, kĩ năng, kĩ năng kết hợp với thái


độ, giá trị và trách nhiệm để thực hiện thành công nhiệm vụ và giải quyết vấn
đề. Giải quyết các vấn đề phát sinh trong bối cảnh thay đổi. Ta có thể tóm tắt mối
quan hệ giữa các thành phần của năng lực như sơ đồ dưới đây [13 ; 26]:

Rõ ràng, khơng có năng lực nào là vạn năng, chỉ có năng lực này thay thế cho mọi
năng lực khác và năng lực chỉ thực hiện một nhiệm vụ của hành vi. Trong quá trình
dạy học lịch sử ở trường phổ thơng, giáo viên cần coi trọng việc hình thành năng
lực sáng tạo để học sinh đổi mới hoạt động tự học, nhưng trước hết chúng ta cần
nắm được các bước trong quá trình hình thành và phát triển năng lực người học.
2.1.2. Các bước hình thành và phát triển năng lực học sinh
Trong q trình dạy học nói chung và dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói
riêng, để nhận thức và đánh giá đúng năng lực của học sinh, giáo viên phải dựa
trên sự hội tụ đồng thời của ba yếu tố cơ bản: kiến thức, kĩ năng - kĩ xảo và thái
độ. Tri thức là những kiến thức học sinh thu nhận được qua sách vở, từ học tập và
từ những trải nghiệm của cuộc sống. Kỹ năng là việc học sinh sử dụng ban đầu
kiến thức thu được trong thực tế để thực hiện một hoạt động. Kỹ năng thuần thục
được lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức thuần thục, cho phép người ta không tập

trung hơn vào công việc đang làm [14 ; 121 - 122].
Trong học tập lịch sử, nói đến năng lực của học sinh là nói đến năng lực thực hiện,
nghĩa là người học không chỉ biết - nhớ, biết điều mà còn biết làm và vận dụng
kiến thức vào cuộc sống. Tất nhiên, hành động (làm, thực hiện) của học sinh phải
gắn với ý thức và thái độ, phải có kiến thức, kỹ - xảo cụ thể, khơng phải là “giáo
điều”, “tuỳ tiện” [14 ; 122]. Như vậy, năng lực của học sinh được hình thành và phát
triển phải trải qua một quá trình chặt chẽ với các nhiệm vụ học tập do giáo viên
giao. Trong một thời gian cụ thể, họ phải tham gia vào các hoạt động học tập và
thực hành, để có được kỹ năng - kỹ xảo. Điều này có nghĩa là giáo viên khi thiết kế
một hoạt động dạy và học phải chú trọng đến các bước (từ thấp đến cao) trong quá
trình hình thành và phát triển của học sinh.
Dirk Schneckenberg, Johannes Wildt và các cộng sự nghiên cứu của ông đã mơ
hình hóa q trình hình thành, phát triển năng lực học sinh và năng lực nghề
nghiệp qua bảy bậc thang từ thấp đến cao15 .



 Hình 1. Sơ đồ các bước trong quá trình hình thành, phát triển năng lực
(Theo Dirk Schneckenberg và Johannes Wildt, 2006 )
1- Tiếp nhận kiến thức/thông tin (khởi đầu của hoạt động dạy và học);
2 - Kiến thức/xử lý thông tin (thể hiện sự hiểu biết của từng học sinh tham gia hoạt
động);
3 - Vận dụng/vận dụng kiến thức (thể hiện năng lực của mỗi học sinh khi tham gia
hoạt động);
4 - Nhận thức về thái độ (biểu hiện qua hành động, cách cư xử cụ thể của học sinh
khi tham gia hoạt động);
5 - Khi HS kết hợp/đạt cả 4 bước hình thành năng lực;
Để đạt được sự chuyên nghiệp trong một lĩnh vực nào đó, người học cần bổ sung
nhiều kỹ năng kết hợp học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm mới lâu dần sẽ hình thành
năng lực chuyên môn.

6 - Thể hiện trách nhiệm tạo sự chuyên nghiệp, thành thạo;
7 - Kết hợp với kinh nghiệm/kinh nghiệm để hình thành năng lực chun mơn.
Sơ đồ trên là kim chỉ nam, định hướng PPGD cho giáo viên khi thiết kế, tổ chức
hoạt động học tập của học sinh. Nó phải gắn với các bước trong q trình hình
thành và phát triển năng lực.


2.2. Thiết kế và tổ chức hoạt động dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT
Việt
Nam
với
sự
hỗ
trợ
của
CNTT
2.2.1. Khái niệm về hoạt động dạy và học
Nhiều nhà giáo dục đã đưa ra định nghĩa về hoạt động và hoạt động dạy và học ở
trường phổ thông2 ,3 ,4 ,16 nhưng về cơ bản chúng ta có thể hiểu: hoạt động dạy và
học là những cách thức, nhiệm vụ giáo viên giao cho học sinh phải thực hiện trong
quá trình học tập một nội dung cụ thể, nhằm đạt được mục đích dạy
[14 ; tr.119]. Trong dạy học nói chung, lịch sử ở trường phổ thơng nói riêng, hoạt
động dạy và học thường do giáo viên chủ trì, có thể do học sinh tự tổ chức, thực
hiện trên lớp, hoặc dưới hình thức giao bài tập về nhà (một phần của dự án học
tập). Đối với giáo viên, việc thiết kế và đánh giá các hoạt động dạy và học là rất
quan trọng: Nó khơng chỉ cung cấp thơng tin phản hồi để giáo viên có thể điều
chỉnh cách giảng dạy của mình cho phù hợp và là một cách tốt để tìm hiểu về học
sinh, mà cịn để định hướng giáo viên cách thiết kế và tổ chức hoạt động sau này
tốt hơn, giúp học sinh tham gia tích cực vào q trình học tập.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá hoạt động dạy và học theo định hướng phát triển năng

lực với sự hỗ trợ của CNTT
Hiện nay chưa có tài liệu nào cho biết chính xác các tiêu chí cụ thể để đánh giá một
hoạt động dạy và học theo định hướng phát triển năng lực với sự hỗ trợ của
CNTT. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu Đổi mới Dạy và Học (ITL) được tài trợ
bởi chương trình Microsoft Partner in Learning, The Teacher Assignment/Student
work (Bill & Melinda Gates Foundation) sẽ là một kênh thông tin cho người đăng
ký giáo dục và giáo viên lịch sử khi xây dựng tiêu chí đánh giá việc dạy và học lịch
sử. Theo đó, hoạt động dạy-học có sự hỗ trợ của CNTT đạt hiệu quả (theo định
hướng phát triển năng lực học sinh) phải được đánh giá dựa trên 5 tiêu chí, thơng
qua bộ công cụ LAR (Learning Activity Rubrics)17 ,18 :
Bộ công cụ LAR kiểm tra năm khía cạnh khác nhau của một hoạt động dạy và học,
bao gồm: (1) Xây dựng kiến thức, (2) Hợp tác, (3) Ứng dụng CNTT, (4) Tự điều
chỉnh, (5) Giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong mọi khía cạnh của bộ cơng cụ
LAR, có một thang đánh giá với các mã số điểm từ thấp đến cao, tương ứng từ 1
đến 4.
(1) Tiêu chí 1 “Hình thành tri thức” sẽ trả lời câu hỏi: Đâu là mức độ của hoạt
động học tập kích thích HS hình thành tri thức? Đó có phải là kiến thức liên mơn
khơng? Q trình hình thành kiến thức diễn ra khi học sinh gắn kết thông tin mới


với kiến thức đã có của mình để nảy sinh ý tưởng và hiểu biết mới đối với các em
bằng cách sử dụng ít nhất một trong các thao tác tư duy như giải thích, phân tích,
tổng hợp, đánh giá/đánh giá... Nếu học sinh chỉ được yêu cầu tái tạo thông tin mà
họ đã đọc hoặc nghe từ các bài giảng, sách giáo khoa hoặc thông qua tiếp xúc với
internet, phương tiện truyền thông không được coi là kiến thức.
(2) Tiêu chí “Hợp tác” sẽ trả lời câu hỏi: Hoạt động dạy và học đòi hỏi HS phải
hợp tác với người khác như thế nào? Khía cạnh này xem xét liệu học sinh có làm
việc với người khác trong hoạt động dạy và học hay không và chất lượng của sự
hợp tác (giúp đỡ lẫn nhau hoặc chia sẻ trách nhiệm với nhau khi thực hiện công
việc, hoặc đưa ra các quyết định quan trọng đối với sản phẩm chung của nhóm). ..).

(3) Tiêu chí “Sử dụng CNTT” sẽ trả lời câu hỏi: Giáo viên có sử dụng CNTT để
thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập hỗ trợ học sinh hình thành kiến thức
khơng? Học sinh có thể đạt được kiến thức tương tự mà không cần sử dụng CNTT
trong hoạt động khơng? Khía cạnh này tập trung vào việc học sinh sử dụng CNTT
để hỗ trợ hoạt động kiến thức mới của mình chứ khơng phải cách giáo viên sử
dụng CNTT trong bài giảng. Mức độ sử dụng CNTT trong hoạt động dạy và học
được sắp xếp từ thấp đến cao, bao gồm:
- Học sinh chưa có cơ hội sử dụng CNTT (1,0 điểm);
- HS sử dụng CNTT để tái hiện kiến thức (2,0 điểm);
- Học sinh sử dụng CNTT để hỗ trợ kiến thức (3,0 điểm);
- Học sinh sử dụng CNTT như một công cụ để xây dựng kiến thức (4,0 điểm).
(4) Tiêu chí “tự điều chỉnh” sẽ trả lời câu hỏi: Hoạt động dạy và học kéo dài bao
lâu? Học sinh có thể lập kế hoạch và đánh giá cơng việc của chính mình
khơng? Khía cạnh này xem xét liệu hoạt động có mang lại cho người học cơ hội
rèn luyện các kỹ năng tự điều chỉnh, chẳng hạn như kỹ năng lập kế hoạch, kiểm
soát và tự đánh giá bản thân, cũng như sự tiến bộ của bản thân hay không. Các hoạt
động dạy và học đáp ứng yêu cầu đó thường là các hoạt động dài hạn, kéo dài
khoảng một tuần trở lên (với hình thức dạy học theo dự án). Giáo viên có thể tăng
cường thực hành các kỹ năng này bằng cách giao nhiệm vụ và cho phép học sinh
xác định vai trị của các thành viên trong nhóm, tự lập kế hoạch hành động. Ngoài
ra, giáo viên nên đưa ra các tiêu chí đánh giá trước để giúp học sinh định hướng và
tự đánh giá bài làm của mình tốt hơn.


(5) "Tiêu chí giải quyết vấn đề"sẽ trả lời câu hỏi: Hoạt động dạy và học có yêu
cầu giải các bài tốn thực tiễn khơng? Các giải pháp của học sinh có được triển
khai trong thực tế, có được kết nối và áp dụng vào thực tế hay không? Trước đây,
kiến thức mà học sinh tiếp thu được từ hoạt động dạy và học thường xa rời thực
tế. Do đó, khía cạnh này xem xét các hoạt động dạy và học yêu cầu học sinh giải
quyết vấn đề, sử dụng dữ liệu hoặc bối cảnh từ thế giới thực. Giáo viên giao nhiệm

vụ cho học sinh để giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn như: đưa ra giải
pháp cho một vấn đề mới liên quan đến thực tế, thực hiện một nhiệm vụ mà học
sinh chưa được dạy cách làm hoặc thiết kế một sản phẩm phức tạp cần sự hợp tác
từ nhiều nguồn và trải qua các giai đoạn từ vài ngày đến vài tuần.
2.2.3. Tiêu chí đánh giá hoạt động dạy và học lịch sử theo định hướng phát
triển năng lực với sự hỗ trợ của CNTT
Từ những phân tích về kết quả nghiên cứu các tiêu chí đánh giá một hoạt động dạy
và học ở trên và thực tiễn dạy học lịch sử ở trường THPT Nguyễn Tất Thành (Thủ
đô Hà Nội) trong nhiều năm qua, chúng tôi cho rằng để đánh giá một hoạt động
dạy và học ở hướng phát triển năng lực của học sinh với sự trợ giúp của CNTT,
giáo viên cần dựa vào những nét chính sau:
- Mục đích của hoạt động dạy và học phải là mô tả kết quả học tập mong đợi (khả
năng và khả năng học sinh đạt được sau khi hồn thành hoạt động đó), chứ không
phải là nội dung của dự án, do giáo viên đưa ra, truyền thụ sau đó. kết thúc hoạt
động;
- Các năng lực mong muốn và các năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh
được xác định rõ ràng dưới dạng động từ đo lường (cả định tính và định lượng),
yêu cầu đối với sản phẩm được quan sát, đánh giá. Chúng được coi là tiêu chí đánh
giá kết quả (đầu ra của mỗi hoạt động học tập);
- CNTT hỗ trợ thiết kế và tổ chức dạy và học nâng cao tính tương tác giữa thầy và
trị và giữa trị với trị, khuyến khích học sinh trao đổi đánh giá, chia sẻ quan
điểm/kinh nghiệm, thúc đẩy/phát huy tinh thần hợp tác, kỹ năng làm việc nhóm;
- Việc ứng dụng CNTT trong thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy và học cần tạo
môi trường học tập thân thiện, HS cảm thấy thoải mái (không bị áp đặt, khuyến
khích tự do bày tỏ/trình bày quan điểm cá nhân, HS cảm thấy ý kiến của mình
được ghi nhận, tơn trọng ). ..), phấn khởi, tự tin;


- Hoạt động nhấn mạnh vào tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm, đặc biệt là vận dụng
kiến thức vào các tình huống trong bối cảnh thực tế cuộc sống, trong các bối cảnh

khác nhau; Chú trọng phát triển các kỹ năng tư duy bậc cao như giải quyết vấn đề
và sáng tạo, tư duy phản biện...;
- Hoạt động dạy và học - hoạt động học công nghệ - thông tin phải được cải tiến
trong hướng dẫn học sinh học tập, học và học (thực hành, trải nghiệm, giải quyết
vấn đề, tìm kiếm/thơng tin, tự học);
- Khi hoạt động dạy và học có sự hỗ trợ của CNTT, vai trị chính của người dạy
không chỉ là cung cấp, cập nhật kiến thức mới... mà còn thay đổi người học ở mức
độ sẵn sàng tiếp thu khái niệm mới, tương tác tích cực, trải nghiệm, nghĩ về cách
nghĩ... Nâng cao hứng thú, sự tự tin, kích thích tư duy sáng tạo của người học.
- Kết thúc hoạt động, HS cảm thấy mình được thay đổi và biết cách thay đổi, tự tạo
lại mình... (đầu ra của hoạt động dạy và học đạt mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái
độ, từ đó góp phần hình thành và phát triển nhân cách người học). năng lực).
2.3. Thiết kế và tổ chức hoạt động dạy và học lịch sử ở trường trung học phổ
thông (Việt Nam) theo định hướng phát triển năng lực với sự hỗ trợ của
CNTT
2.3.1. Thiết kế hoạt động dạy và học lịch sử theo định hướng phát triển năng
lực với sự hỗ trợ của CNTT
Một hoạt động dạy và học nói chung phải được cấu trúc sao cho thể hiện được
chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia, các tương tác giữa thầy với trò,
giữa trò với trò... Với hoạt động dạy và học có sự hỗ trợ của CNTT , giáo viên cịn
phải sử dụng cơng nghệ trong quá trình thiết kế, đưa ra các ý tưởng sư phạm nhằm
nâng cao tính trực quan khi giảng dạy. Nó bao gồm:
- Tên gọi Hoạt động và Hình thức của Hoạt động: Hoạt động dạy và học phải bắt
đầu bằng một “động từ” hướng tới mục tiêu, do phúc âm đặt ra để giao nhiệm vụ
cho học sinh. Động từ chỉ hoạt động phải đo mức độ nhận thức của học sinh theo
thang 4 bậc từ thấp đến cao (nhận biết à hiểu à vận dụng bậc thấp à vận dụng bậc
cao). Như vậy, giáo viên cần gọi đúng tên động từ ở các mức độ đánh giá: nhận
biết (liệt kê, chỉ ra, tái tạo, tìm hiểu...); hiểu (phân tích, diễn giải, giải thích, chứng
minh, tóm tắt...); vận dụng và vận dụng bậc cao (nhận xét, so sánh, đánh giá, bày
tỏ quan điểm, vận dụng, thiết kế...).

Về hình thức tổ chức hoạt động dạy và học, giáo viên phải xác định rõ kế hoạch bài
dạy (nhóm - cá nhân, cả lớp - cá nhân, cặp đôi...).


- Ngày giờ diễn ra hoạt động dạy và học (dự kiến tổ chức trong bao lâu).
- Xác định mục tiêu (đầu ra) và loại sản phẩm cho từng hoạt động mà giảng viên
giao cho sinh viên phải báo cáo: Hoạt động học tập nào cũng phải có mục tiêu –
mục đích cuối cùng. Hoạt động đó trơng như thế nào? (Học sinh có thể làm được
gì trong hoạt động dạy và học này chứ không phải cung cấp hay chuyển giao kiến
thức?) Sau khi hoàn thành hoạt động này, học sinh sẽ được yêu cầu báo cáo về loại
sản phẩm nào (trả lời bằng câu hỏi, sơ đồ tư duy, hoặc báo cáo trên khổ giấy A4,
A0…).
- Thiết kế dạy và học trên máy tính bằng các phần mềm tiện ích (như Powerpoint,
Mindmap, Flash, Prezi...). Khi thiết kế các hoạt động trên phần mềm máy tính,
giáo viên phải nắm được các nguyên tắc khi ứng dụng CNTT vào dạy học, bao
gồm lựa chọn phơng chữ, hình ảnh, phối màu, hiệu ứng chuyển cảnh...
- Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật tổ chức hoạt động dạy học theo hoạt động (dự
kiến): Trong dạy học lịch sử, nội dung kiến thức nào sẽ tương ứng với việc lựa
chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học. Đồng thời, giáo viên muốn xác định năng lực
nào cần hình thành và phát triển cho học sinh thì cũng sẽ lựa chọn phương pháp
dạy học và kĩ thuật tổ chức dạy học tương ứng. Chẳng hạn, giáo viên muốn hướng
tới năng lực hợp tác thì phải lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học theo
nhóm; Những giáo viên muốn tập trung vào năng lực ngôn ngữ và năng lực giải
quyết vấn đề sẽ sử dụng phương pháp dạy học dự án kết hợp với các kỹ thuật dạy
học khác.
- Mô tả công việc cụ thể của người điều khiển và tham gia hoạt động dạy học theo
trình tự từ đầu cho đến khi kết thúc hoạt động (Bước 1..., Bước 2... Bước 3... học
sinh...). Các kịch bản “phân công” công việc của các thành viên tham gia sẽ giúp
giáo viên ln chủ động và xử lý tình huống sư phạm khi giảng dạy.
2.3.2. Quy trình hoạt động dạy và học lịch sử theo định hướng phát triển năng

lực với sự hỗ trợ của CNTT
Trên cơ sở phân biệt khái niệm hoạt động dạy và học, các tiêu chí đánh giá hoạt
động dạy và học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực với sự hỗ trợ của
CNTT, chúng tơi đề xuất quy trình tổ chức hoạt động học lịch sử theo hướng biểu
thông qua năm bước, tương ứng với các biện pháp sư phạm cụ thể:
Bước 1 : Học sinh sẽ được chiếu trên màn hình yêu cầu (tên hoạt động) để định
hướng đối tượng học sinh và đầu ra sau hoạt động dạy và học. Ở giai đoạn này, khi


tổ chức hoạt động, giáo viên cần trả lời: Mục đích của hoạt động này là gì, hướng
tới phát triển năng lực cho học sinh (ngồi mục đích trang bị, cung cấp kiến thức gì
cho học sinh như trước)? Ở đây, giáo viên cần nghiên cứu kỹ kiến thức (kiến thức,
kĩ năng mà chương trình yêu cầu) để xác định mục tiêu hướng tới năng lực là gì
(năng lực hình thành ở học sinh kiến thức, kĩ năng – thủ thuật và thái độ). Đây là
cơ sở để giáo viên lựa chọn phương pháp cho hoạt động.
Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ và tổ chức, hướng dẫn, định hướng cho học sinh
cách tiếp cận nguồn tài liệu. Học sinh phải được giáo viên thu nhận, giao nhiệm vụ
trong hoạt động học tập đầu tiên là học và học, và tiếp cận các nguồn lực để giải
quyết vấn đề. Không tiếp cận được các nguồn tài liệu, học sinh không thể giải
quyết các nhiệm vụ được giao trong hoạt động dạy và học. Có nhiều cách giáo viên
hướng dẫn học sinh tiếp cận các nguồn tư liệu như quan sát băng hình, tranh ảnh,
sơ đồ chiếu, tư liệu cảm thụ trong sách giáo khoa, phiếu học tập, trên mạng
Internet...
Bước 3 : Giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề, học sinh trả lời để kiểm
tra các nguồn tài liệu dựa trên khả năng tiếp cận. Các tài nguyên/thông tin do giáo
viên cung cấp sẽ được học sinh xử lý khi giải quyết nhiệm vụ học tập, nhưng sẽ
phụ thuộc vào khả năng xử lý của từng cá nhân. Học sinh sẽ có thể giải quyết vấn
đề một cách dễ dàng và nhanh chóng nếu giáo viên có phương pháp giảng dạy,
nghiệp vụ sư phạm tốt và học sinh cũng phải có thái độ tích cực, tích cực tham gia
các hoạt động.

Bước 4: GV cho HS trình bày và báo cáo kết quả - nhiệm vụ đã giải quyết. Thông
qua phần báo cáo của sinh viên (từ chất lượng sản phẩm, phương pháp - kỹ năng
và hành động báo cáo), giáo viên sẽ có cơ sở để đánh giá sinh viên có đạt được
năng lực hay khơng, đang ở mức độ nào trong sơ đồ trên.
Bước 5 : Giáo viên nhận xét, đánh giá, tổng kết hoạt động dạy và học. Ở bước này,
giáo viên sẽ nhận xét về tinh thần, thái độ tham gia hoạt động của học sinh; đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ do giáo viên giao; Đồng thời kết luận và tổng hợp
vấn đề lên màn hình cho cả lớp theo dõi và trang bị thêm cho học sinh những thông
tin, kiến thức khoa học mà học sinh chưa hiểu. Giáo viên phải làm nổi bật tính ưu
việt của cơng nghệ thơng tin trong việc tổng kết hoạt động dạy và học về tính xác
thực, thẩm mỹ trực quan, tính thẩm mỹ, logic… Kết thúc bước 5, giáo viên sẽ đánh
giá sản phẩm đầu ra của hoạt động dạy và học, liệu học sinh có đạt được mục tiêu
hay khơng.


2.4. Ví dụ minh họa quy trình thiết kế và tổ chức hoạt động dạy và học lịch sử
ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực với sự hỗ trợ của
CNTT
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, chúng tơi đưa ra ví dụ cụ thể khi
dạy học phần II. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 (Bài 13, Nước Mĩ giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939), SGK Lịch sử lớp 11, chương trình chuẩn),
GV thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy và học như sau:
 Cái bàn

Như vậy, việc thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy và học với sự hỗ trợ của CNTT
phải hướng tới mục tiêu cao nhất là rèn luyện và phát triển năng lực học tập cho
học sinh chứ không phải chuyển từ “đọc chép” sang “chép cho xem”. Nhưng giáo
viên cần lưu ý rằng khi thiết kế và tổ chức hoạt động, chúng ta đã xác định rõ mục
tiêu (kết quả đầu ra), khả năng đạt được, nên dễ dàng lựa chọn hình thức, phương
pháp tổ chức dạy-học trên lớp và đánh giá kết quả. hiệu quả của hoạt động đó.

3. Kết luận
Thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy và học ở trường phổ thông với sự hỗ trợ của
CNTT là một vấn đề mới do chưa có cơng trình nào nghiên cứu. Vì vậy, nội dung
bài viết tác giả cần tiếp tục nghiên cứu, cả từ cách tiếp cận, các căn cứ để xác định


tiến trình và cấu trúc của hoạt động dạy và học. Chỉ khi thống nhất, có tiếng nói
chung, chúng ta mới đề ra những hình thức, cách thức, phương pháp đổi mới phù
hợp, hiệu quả, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.



×