Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giải phẫu đại thể và cấu trúc vi thể điểm gốc mũi và góc mũi trán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.33 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 518 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2022

/>48
3. Koh K. S., Kim H. J., Oh C. S. et al (2003),
"Branching patterns and symmetry of the
course of the facial artery in Koreans", Int J
Oral Maxillofac Surg. 32(4), pp. 414-418.
4. Koziej M., Trybus M., Hołda M. et al
(2019), "Anatomical Map of the Facial Artery
for Facial Reconstruction and Aesthetic
Procedures", Aesthet Surg J. 39(11), pp.
1151-1162.
5. Lee J. G., Yang H. M., Choi Y. J. et al
(2015), "Facial arterial depth and relationship
with the facial musculature layer", Plast
Reconstr Surg. 135(2), pp. 437-444.

6. Lee H. J., Won S.Y., Jehoon O et al (2018),
"The facial artery: A Comprehensive
Anatomical Review", Clin Anat. 31(1), pp.
99-108.
7. Siwetz M., Turnowsky N., Hammer N. et
al. (2021), "A Rare Case of Facial Artery
Branching-A Review of the Literature and a
Case Report with Clinical Implications",
Medicina (Kaunas, Lithuania). 57(11), p.
1172.
8. Wang D., Xiong S., Zeng N. et al (2022),”
Facial Arterial Variations in Asians: A Study
on
Computed


Tomographic
Angiography”, Aesthetic
surgery
journal, 42(5),
pp.527–534.
/>
GIẢI PHẪU ĐẠI THỂ VÀ CẤU TRÚC VI THỂ ĐIỂM GỐC MŨI
VÀ GĨC MŨI TRÁN
Nguyễn Hồng Vũ1, Hồ Nguyễn Anh Tuấn2, Võ Văn Hải1, Phạm Đăng Diệu2,
Nguyễn Thanh Tú2, Nguyễn Vũ Quang Lâm2
TĨM TẮT

7

Mục tiêu: Xác định kích thước góc mũi trán
trên nhân trắc mô mềm, nhân trắc mô xương và
cấu trúc vi thể vùng gốc mũi.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang khảo
sát ở 3 nội dung: nhân trắc mô mền ở sinh viên
đang học tại trường, nhân trắc xương mũi và cấu
trúc vi thể da vùng gốc mũi từ xác ướp formalin

Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hồng Vũ
Email:
Ngày nhận bài: 23/7/2022
Ngày phản biện khoa học: 07/08/2022
Ngày duyệt bài: 30/08/2022
1

2

10% của người Việt trưởng thành, tại bộ môn
Giải phẫu Trường Đại học y khoa Phạm Ngọc
Thạch từ tháng 05/2019 đến tháng 01/2021. Sử
dụng phương pháp đo trực tiếp và gián tiếp qua
ảnh chụp chuẩn hóa các chỉ số nhân trắc, các chỉ
số sẽ được đo 2 lần và lấy kết quả trung bình
giữa 2 lần đo. Hình ảnh vi thể được quan sát
bằng kính hiển vi ở vật kính 4x và 10x.
Kết quả: Nghiên cứu khảo sát được 182 sinh
viên, 33 mẫu xương mũi, và 8 mẫu mô học. Kích
thước trung bình của góc mũi trán trên mơ mềm
là 136,40, và trên xương là 1540. Nghiên cứu tìm
thấy mối tương quan giữa kích thước góc mũi
trán và kích thước đoạn n – r cả trên mô mềm và
trên xương. Da vùng gốc mũi có 5 lớp: Lớp da,
Lớp mỡ nông, Lớp SMAS, Lớp mỡ sâu, Lớp

53


HỘI NGHỊ KHOA HỌC HÌNH THÁI HỌC TỒN QUỐC LẦN THỨ XVIII NĂM 2022

màng xương và/hoặc màng sụn. Lớp SMAS tại
điểm gốc mũi là dạng có các sợi chạy dọc tạo
vách liên kết lên lớp bì, tách lớp mỡ nơng thành
các tiểu thùy mỡ. Có sự hiện diện của mạch máu
và thần kinh ở trên lớp SMAS.
Kết luận: Điểm gốc mũi và góc mũi trán có

vai trị rất quan trọng trong phẫu thuật tạo hình
thẩm mỹ mũi. Cần có những nghiên cứu tương tự
trên xương và mô học với số liệu lớn, hoặc
những nghiên cứu thử nghiệm các kỹ thuật cấy
ghép vật liệu nhân tạo nhằm nâng cao chất
lượng, giảm biến chứng và tăng tỷ lệ thành cơng.
Từ khóa: điểm gốc mũi, góc mũi trán, phẫu
thuật tạo hình mũi, cấu trúc vi thể, nhân trắc mũi

SUMMARY
RESEARCH ON MACROANATOMIC
AND HISTOLOGIC
CHARACTERISTICS OF NASION
POINT AND NASOFRONTAL ANGLE
Objectives: Determine the size of the
nasofrontal angle on soft tissue anthropometry,
bone tissue anthropometry and and the
histological features of the radix.
Methods: A cross-sectional study surveying
3 contents: soft tissue anthropometry in students,
nasal
bone
anthropometry
and
skin
microstructure at the nasion point from dried
Vietnameses corpses at the Anatomy Department
of Pham Ngoc Thach University of Medicine
from May 2019 to January 2021. By the direct
and indirect measurement methods through

standardized photographs of anthropometric
indicators, the indicators will be measured twice
and averaged between the two measurements.
Microscopic images were observed with a
microscope at 4x and 10x objectives.
Results: The study surveyed 182 students, 33
nasal bone samples, and 8 histological samples.
The average size of the nasofrontal angle on soft
tissue is 136.40, and on bone is 1540. The study

54

found a correlation between the size of the
nasofrontal angle and the size of the n-r segment
both on soft tissue and on bone. The skin at the
nasion point has 5 layers: skin, superficial fatty
layer, superficial musculoaponeurotic system
(SMAS) layer, deep fatty layer, and
perichondrium or periosteum. The SMAS layer
at the nasion point is a type of SMAS fibers
dividing the mimic musculature into muscular
bundles, separating the superficial fat layer into
fat lobules. The presence of blood vessels and
nerves above the SMAS layer.
Conclusion: The nasion point and the
nasofrontal angle have a very important role in
rhinoplasty. Similar studies in bone and histology
with large data are needed, or trials of
implantation techniques with artificial materials
to improve quality, reduce complications, and

increase success rates.
Keywords: nasion, nasofrontal angle,
rhinoplasty, histological, nasal anthropometry

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, nhu cầu thẩm mỹ khuôn mặt và
nghiên cứu vẻ đẹp đã trở thành vấn đề thiết
yếu của xã hội. Vẻ đẹp của khuôn mặt có
được do sự hài hịa của cấu trúc thể hiện trên
khn mặt, mà trong đó mũi, với vị trí trung
tâm của khuôn mặt, được cho là phần quan
trọng và ấn tượng nhất. Điểm gốc mũi là
điểm lõm sâu nhất của mũi, giúp phân biệt
mũi với trán và từ đó xác định góc mũi trán,
một góc quan trọng của khn mặt [8].
Khi tìm hiểu và nghiên cứu về cấu trúc
giải phẫu vùng mũi, để có một cái nhìn tồn
diện, cần đánh giá đo lường không chỉ ở các
chỉ số nhân trắc mà cịn phải phân tích các
thành phần bên dưới, có tính chất quyết định
đến các chỉ số nhân trắc này. Các thành phần
này bao gồm: tổ chức mô cứng (gồm xương
và sụn) và tổ chức mơ mềm (gồm có tổ chức


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 518 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2022

dưới da, cơ, dây chằng, …).
Về nhân trắc thì từ trước đến nay đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về các chỉ số

nhân trắc vùng mũi, tuy nhiên các nghiên
cứu này chủ yếu tập trung vào tháp mũi và
chưa có nhiều nghiên cứu về vùng gốc mũi.
Tại Việt Nam, bước đầu đã có một số nghiên
cứu có nhắc đến gốc mũi khi nghiên cứu về
cấu trúc chung của mũi như các tác giả Phan
Ngọc Toàn, Trần Thị Anh Tú, Trần Tuấn
Anh [1], Trần Thị Xen [3]. Tuy vậy, các
thông tin về gốc mũi chưa có hệ thống mà
chỉ là một phần nhỏ trong số liệu nghiên cứu
chung của tháp mũi.
Về tổ chức mô cứng thì giải phẫu học
kinh điển chỉ mơ tả cấu trúc khung xương
mũi ở mức độ đơn giản. Tại Việt Nam, theo
sự hiểu biết của chúng tơi, bước đầu chỉ mới
có một số đề tài khảo sát xương mũi một
cách đơn giản như tác giả Trần Thị Anh Tú,
chưa có nghiên cứu nào về xương vùng gốc
mũi và mối tương quan giữa các kích thước
xương mũi với các mốc xung quanh.
Về các tổ chức mơ mềm vùng gốc mũi thì
trên thế giới bước đầu đã có những nghiên
cứu về các lớp mô mềm vùng mặt; hệ thống
cân cơ nông (SMAS) vùng mũi, vai trị của
hệ thống cân cơ nơng này; sự hiện diện và
vai trò của sợi liên kết đi vào khớp mũi trán
(sợi Sharpey)... Đa số các nghiên cứu này
đều cho thấy được tầm quan trọng cũng như
tính ứng dụng của các tổ chức mô mềm trong
hiệu quả của phẫu thuật thẩm mỹ vùng mũi

mặt, đặc biệt là vùng gốc mũi. Tuy nhiên tại
Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào đề
cập đến nội dung này.
Từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát điểm
gốc mũi thơng qua kích thước góc mũi trán
trên nhân trắc mô mềm, nhân trắc mô xương
và cấu trúc vi thể vùng gốc mũi.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt
ngang.
Đối tượng nghiên cứu:
+ Nhân trắc mô mềm: sinh viên từ 18
tuổi trở lên đang học tại trường Đại học Y
khoa Phạm Ngọc Thạch (ĐHYK PNT).
+ Nhân trắc mô xương: xương mũi từ
xác ướp formalin 10% của người Việt trưởng
thành, tại bộ môn Giải phẫu Trường ĐHYK
PNT.
+ Cấu trúc vi thể: mẫu thiết đồ vùng mũi
từ xác ướp formalin 10% của người Việt
trưởng thành tại bộ môn Giải phẫu Trường
ĐHYK PNT.
Thời gian nghiên cứu: từ 05/2019 đến
tháng 01/2021.
Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu
ước lượng một số trung bình, với α = 0,05 →
Z(1-α/2) = 1,96;
+ Nhân trắc mô mềm: d = 10; chọn σ =

6,580 (độ lệch chuẩn của góc mũi trán trong
nghiên cứu của tác giả Trần Thị Xen) [3] →
n = 167. Thực tế nghiên cứu khảo sát được
182 sinh viên.
+ Nhân trắc mô xương: d = 20; chọn σ =
5,810 (độ lệch chuẩn của góc mũi trán trên
xương trong nghiên cứu của tác giả Lazovic
và cộng sự) [7] → n = 33. Thực tế nghiên
cứu khảo sát được 33 mẫu xương mũi.
+ Cấu trúc vi thể: nghiên cứu khảo sát
08 mẫu mô học lấy phần từ da đến cốt mạc
đã được nhuộm mô học tại Bệnh viện Nhi
đồng 1.
Kỹ thuật chọn mẫu: Nghiên cứu sử dụng
kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện theo tiêu chuẩn
chọn mẫu cho đến khi đủ mẫu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
+ Nhân trắc mô mềm:
Tiêu chuẩn chọn vào: là người Việt, tuổi
từ 18 trở lên, trước nay khơng có thói quen
55


HỘI NGHỊ KHOA HỌC HÌNH THÁI HỌC TỒN QUỐC LẦN THỨ XVIII NĂM 2022

đeo kiếng, còn nguyên vẹn vùng tháp mũi,
chưa có can thiệp phẫu thuật trên mũi và
khơng bị biến dạng, u bướu hay bất thường
về giải phẫu vùng mặt.
Tiêu chuẩn loại ra: sinh viên đã chích

các chất làm đầy vào vùng mũi, bị rối loạn
chuyển hóa mỡ hoặc hội chứng Cushing.
+ Nhân trắc mô xương và vi thể:
Tiêu chuẩn chọn vào: xác người Việt
trưởng thành trên 18 tuổi, còn nguyên vẹn
vùng tháp mũi và chưa phẫu thuật trên vùng
mũi.
Tiêu chuẩn loại ra: loại bỏ những xác bị
biến dạng tháp mũi, u bướu hay bất thường
về giải phẫu vùng mặt.
Phương pháp thu thập số liệu
+ Nhân trắc mô mềm: sử dụng phương
pháp đo gián tiếp các chỉ số nhân trắc gốc
mũi qua ảnh chụp chuẩn hóa bằng phần mềm
Image J tại Trường Đại học sư phạm kỹ thuật
TP Hồ Chí Minh.
Tất cả đối tượng nghiên cứu được chụp
ảnh theo nguyên tắc chuẩn hóa của Claman
và cộng sự (khoảng cách từ máy ảnh đến đối
tượng là 1,5m; sử dụng ống kính tele 70120mm; để ở tiêu cự 70mm, tùy vào ánh
sáng tự nhiên của buổi chụp như thế nào mà
sẽ có khẩu độ chụp thích hợp).
+ Nhân trắc mơ xương: Số liệu được thu
thập bằng hai phương pháp:
- Đo trực tiếp các kích thước trên khối
xương mũi từ xác người trưởng thành.
- Đo gián tiếp các góc trên khối xương
mũi từ xác người trưởng thành qua ảnh chụp
chuẩn hóa (vì các kích thước góc khó khảo
sát khi đo trực tiếp) bằng phần mềm Image J.

+ Cấu trúc vi thể: Số liệu được thu thập
bằng phương pháp quan sát hình ảnh mô học
mũi từ xác người trưởng thành sau khi đã xử
lý nhuộm mơ theo quy trình. Quan sát bằng

56

kính hiển vi Olympus BX53 ở vật kính 4x và
10x.
Các biến số cần thu thập
+ Nhân trắc mơ mềm: các kích thước
được đo bằng ảnh chụp ở tư thế nghiêng (số
liệu được đo một lần ở ảnh nghiêng trái và
một lần ở ảnh nghiêng phải và lấy trung bình
2 lần đo) gồm: chiều dài sống mũi (n – prn),
chiều cao mũi (n – sn), khoảng cách từ điểm
gốc mũi đến điểm giữa xương và sụn (n – r)
và góc mũi trán (g – n – prn).
+ Nhân trắc mô xương: khoảng cách từ
điểm N đến R trên xương được đo trực tiếp
(đo 2 lần và lấy trung bình của 2 lần đo), góc
mũi trán trên xương (DPA) được đo qua ảnh
chụp chuẩn hóa.
+ Cấu trúc vi thể: tại điểm gốc mũi
(Nasion) tương ứng trên da, tiến hành khảo
sát đặc điểm của các tổ chức dưới da gồm
lớp mỡ nông, lớp SMAS, lớp mỡ sâu, thần
kinh và mạch máu.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Các kích thước được mơ tả dưới dạng

trung bình và độ lệch chuẩn. Sử dụng kiểm
định T-test để xác định sự khác biệt về các
kích thước theo giới.
Mối liên quan giữa góc mũi trán với các
kích thước vùng gốc mũi được sử dụng mơ
hình hồi quy đa biến, các yếu tố có p < 0,05
sẽ được chọn đưa vào phương trình.
Mối liên quan giữa góc DPA đoạn N – R
trên xương mũi sử dụng hồi quy tương quan
đơn biến.
Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu đã được chấp thuận của Hội
đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
theo Quyết định số 66/HĐĐĐ ngày
10/05/2019.


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 518 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2022

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
* Nhân trắc mô mềm
Nghiên cứu khảo sát được 182 sinh viên, trong đó nữ chiếm 55,5%; độ tuổi dao động từ 20
– 26 tuổi, trong đó chủ yếu là 20 – 23 tuổi chiếm tỉ lệ cao và không có sự khác biệt về tuổi
giữa nam và nữ (p = 0,574).
Bảng 1: Kích thước góc mũi trán (n = 182)
Chung
Nam
Nữ
Các góc (0)

Giá trị p
TB ± ĐLC
TB ± ĐLC
TB ± ĐLC
g – n – prn
136,4 ± 8,0
133,9 ± 9,6
138,4 ± 5,7
< 0,001
0
Góc mũi trán trên mơ mềm có kích thước trung bình là 136,4 , và có sự khác biệt về góc
này ở nam và nữ (p < 0,001).
Bảng 2: Mối liên quan giữa góc mũi trán với các kích thước vùng gốc mũi khi xét trong
MƠ HÌNH ĐA BIẾN (n = 182)
g – n – prn
Hệ số phương trình hồi quy đa biến
Giá trị p
Giới tính
4,29
0,001
n – prn
3,71
0,056
n–r
9,00
0,012
n – sn
- 4,00
0,092
Hằng số

123,0
< 0,001
Từ đây, chúng tôi xây dựng phương trình hồi quy đa biến giữa góc mũi trán và các kích
thước vùng gốc mũi như sau:
Góc mũi trán = 123 + (4,29 x giới tính nữ) + (9 x n – r)
* Nhân trắc mô xương
Nghiên cứu khảo sát được 33 mẫu xương mũi, trong đó có 31 xác khô và 2 xác tươi. Tỉ lệ
nữ là 45,5%, đa số là từ 60 tuổi trở lên với tuổi trung bình là 65 tuổi.
Bảng 3: Kích thước góc mũi trán trên xương mũi (n = 33)
Chung
Nam
Nữ
Đơn vị: độ (0)
Giá trị p
TB ± ĐLC
TB ± ĐLC
TB ± ĐLC
DPA (n = 33)
154,0  8,2
155,4  8,4
152,2  7,8
0,263
0
Góc mũi trán trên xương có kích thước trung bình là 154 và khơng có sự khác biệt giữa
nam và nữ.
Bảng 4: Mối liên quan giữa góc DPA và đoạn N – R trên xương mũi (n = 33)
Phương trình hồi quy
Hệ số
DPA
Giá trị p

tương quan (r)
Hệ số phương trình
Hằng số
N–R
- 0,474
- 1,29
183,94
0,017
Nghiên cứu tìm thấy mối tương quan trung bình và nghịch giữa kích thước góc mũi trán
trên xương và đoạn N – R. Từ đó, chúng tơi xây dựng được phương trình hồi quy như sau:
Góc mũi trán trên xương = 183,94 – 1,29 x N – R
57


HỘI NGHỊ KHOA HỌC HÌNH THÁI HỌC TỒN QUỐC LẦN THỨ XVIII NĂM 2022

* Cấu trúc vi thể
Nghiên cứu tiến hành khảo sát mô học tại
điểm gốc mũi trên 8 mẫu mô mềm vùng gốc
mũi của xác ướp formalin 10% của người
Việt trưởng thành, gồm 4 xác nam và 4 xác
nữ, độ tuổi trung bình là 60,5  18,2 tuổi, tất
cả đều được bảo quản khô.
100% các mẫu mô đều có 5 lớp, bao gồm:
Lớp da, Lớp mỡ nơng, Lớp SMAS, Lớp mỡ
sâu, Lớp màng xương và/hoặc màng sụn.

Hình 2. Mạch máu (hình sao) và thành
phần thần kinh (hình trịn) ở trên lớp
SMAS (hình tam giác) với lớp cơ bám da

dầy (hình chữ nhật). Các tiểu thùy mỡ
(hình thang) được phân chia bởi các vách
sợi chạy dọc (mũi tên)
IV. BÀN LUẬN

Hình 1. Cấu trúc mơ học tại điểm N: lớp
mỡ nơng dầy (hình trịn) được chia thành
các tiểu thùy mỡ với các vách sợi (mũi tên)
chạy từ hệ thống cân cơ nơng SMAS (tam
giác) với lớp cơ bám da phía dưới (hình
chữ nhật) đến lớp hạ bì (hình sao) với các
tuyến bã và tuyến mồ hôi (mũi tên đứt)
Về đặc điểm của các lớp sợi trên SMAS
thì 100% mẫu nghiên cứu của chúng tơi có
dạng tp 1, là dạng có các sợi chạy dọc tạo
vách liên kết lên lớp bì, tách lớp mỡ nơng
thành các tiểu thùy mỡ (hình 1).
Tất cả các mẫu khảo sát đều có sự hiện
diện của mạch máu và thành phần thần kinh
ở trên lớp SMAS.

58

* Nhân trắc mơ mềm
Trong các góc nhân trắc, góc mũi trán là
góc được xác định bởi đỉnh là điểm gốc mũi
(n), hai cạnh là: đường thẳng nối điểm gốc
mũi (n) với điểm gian mày (g) và đường
thẳng đi qua n tiếp tuyến với sống mũi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số này

tương đương với nghiên cứu của tác giả
Choe KS trên người Hàn Quốc, nhưng nhỏ
hơn người Trung Quốc trong nghiên cứu của
tác giả He Z và lớn hơn so với nghiên cứu
của các tác giả trên người da trắng. Theo
Farkas LG, góc mũi trán dao động trong
khoảng 1280 đến 1400 trong đó góc mũi trán
lý tưởng là 1340 với nữ và 1300 đối với nam
[4]. Như vậy, góc mũi trán ở người Việt
cũng như người châu Á lớn hơn so với người
da trắng. Điều này có thể là do người Việt có


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 518 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2022

dạng mũi tẹt, lưng mũi ngắn, có độ nhơ đỉnh
mũi thấp hơn nhiều so với người da trắng.
Khi so sánh với các tác giả tại Việt Nam,
kích thước góc mũi trán của chúng tơi khá
tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác
giả Trần Tuấn Anh [1] và một số một số tác
giả trước đây như: Võ Trương Như Ngọc,
Trần Thị Anh Tú. Tuy nhiên, kết quả của
chúng tôi khá khác biệt với nghiên cứu của
tác giả Đinh Sỹ Mạnh [2], lý do có thể là vì
đối tượng trong nghiên cứu của tác giả Đinh
Sỹ Mạnh chủ yếu có dạng mặt theo phân loại
Martin là dạng mặt rất rộng, hàm dưới rộng,
dạng mũi rộng, tầng mặt dưới chiếm tỉ lệ lớn
nhất, còn đối tượng trong nghiên cứu của

chúng tơi lại có tỉ lệ tầng mặt giữa chiếm ưu
thế.
Khi xác định mối liên quan giữa góc mũi
trán với các kích thước vùng gốc mũi, nghiên
cứu tìm thấy góc mũi trán trên nhân trắc sẽ
thay đổi tùy theo giới, trong đó nữ sẽ có góc
này lớn hơn nam. Bên cạnh đó, góc này cịn
thay đổi tùy theo kích thước đoạn n – r và
khơng phụ thuộc vào chiều dài sống mũi hay
chiều cao mũi. Các nhà phẫu thuật thẩm mỹ
cần chú ý đến đặc điểm này khi thực hiện
nâng mũi.
* Nhân trắc mơ xương
Góc mũi trán trên xương của chúng tơi có
kết quả tương đồng với tác giả Lazovic và
cộng sự [7]. Và khi tiến hành phân tích sâu
hơn thì góc này cũng có liên quan đến đoạn
N – R, tương ứng với mối tương quan khi
phân tích trên nhân trắc mơ mềm. Như vậy

có thể thấy góc mũi trán dù trên mơ mềm
hay mơ xương đều có liên quan đến kích
thước của xương mũi.
Từ trước đến nay, những nhà phẫu thuật
thẩm mỹ khi lên kế hoạch phẫu thuật thường
có xu hướng khơng phân biệt các chỉ số về
kích thước nhân trắc trên da và trên xương.
Việc nhầm lẫn này có thể sẽ dẫn đến những
can thiệp thiếu chính xác và mang lại những
kết quả khơng mong muốn.

Tuy nhiên, khi so sánh thì góc mũi trán
trên xương lớn hơn góc trên da rất nhiều,
điều này là do ảnh hưởng của các tổ chức mơ
mềm (gồm có tổ chức dưới da, cơ, dây
chằng, …) của mũi. Do đó mà trong nghiên
cứu này chúng tơi đã thực hiện khảo sát cả
cấu trúc vi thể của điểm gốc mũi để có cái
nhìn tồn diện hơn.
* Cấu trúc vi thể
Sau khi khảo sát 8 mẫu mô mềm ngay tại
điểm gốc mũi tương ứng trên da, chúng tôi
nhận thấy rằng 100% các mẫu đều có 5 lớp.
Kết quả này hồn tồn trùng khớp với những
nghiên cứu trước đây. Có rất nhiều tác giả từ
trước đến nay khi nghiên cứu về giải phẫu và
mô học vùng mũi cũng đều khẳng định điều
này như tác giả Toriumi D.M, Wu W.T,
Saban Y. Gần đây nhất, vào năm 2018,
nghiên cứu của tác giả Jeong J.Y và cộng sự
cũng kết luận là tổ chức mô mềm vùng mũi
có năm lớp, bao gồm da, lớp mỡ nơng, lớp
cơ sợi (SMAS), lớp mỡ sâu, và lớp màng
xương hoặc màng sụn [6].

59


HỘI NGHỊ KHOA HỌC HÌNH THÁI HỌC TỒN QUỐC LẦN THỨ XVIII NĂM 2022

Hình 3. Các lớp mơ mềm vùng gốc mũi

*Nguồn: Rebuilding nose: rhinoplasty for Asian, Jeong J.Y (2019) [6]
Bên cạnh đó, chúng tơi nhận thấy 100%
các mẫu mơ này đều có lớp mỡ nơng và lớp
mỡ này khá dày, kết quả này hoàn toàn trùng
khớp với các nghiên cứu trên thế giới đã
được công bố trước đây. Lớp mỡ nông vùng
gốc mũi bao gồm các tế bào mô mỡ được
phân biệt thành các tiểu thùy mỡ về mặt mô
học bởi các vách sợi dọc xen kẽ nhau, được
gắn chặt với lớp da bằng các sợi liên kết dọc
và được nuôi bởi mạng mạch máu dưới da.
Trong các nghiên cứu gần đây, các tác giả
tìm ra rằng tồn tại 2 loại SMAS. Theo đó,
dạng 1 là dạng SMAS phổ biến nhất, có các
vách sợi nối những cơ mỏng lên trên da và
thường được tìm thấy ở vùng trán (điểm G),
vùng gò má và vùng dưới ổ mắt. Lớp SMAS
mũi ở những vùng gần gốc mũi thì là dạng 1.
Dạng SMAS loại 2 thì bao gồm các tổ chức
mơ sợi dày nằm trong lớp SMAS và loại này
thường tập trung ở phần dưới mũi và đỉnh
mũi [5]. Trong nghiên cứu này, chúng tơi
cũng tìm thấy loại mơ của SMAS tại điểm
gốc mũi đúng theo mơ tả trên, có dạng các
sợi chạy dọc tạo vách liên kết lên lớp bì (loại
1).

60

Về vị trí của các bó mạch và thần kinh so

với lớp SMAS, chúng tôi khảo sát thấy 100%
các mẫu nghiên cứu đều có các bó mạch và
thần kinh ở trên lớp SMAS. Ngồi ra, cịn có
sự xuất hiện của các bó mạch thần kinh này
ở trong lớp SMAS với tỉ lệ là 33,3%.
V. KẾT LUẬN
Điểm gốc mũi và góc mũi trán có vai trị
rất quan trọng trong phẫu thuật tạo hình thẩm
mỹ mũi, tuy nhiên những nghiên cứu về lĩnh
vực này tại Việt Nam hiện nay cịn hạn chế.
Vì vậy cần có những nghiên cứu tương tự
trên xương và mơ học với số liệu lớn, hoặc
những nghiên cứu can thiệp, thử nghiệm các
kỹ thuật cấy ghép vật liệu nhân tạo trong
phẫu thuật nâng mũi nhằm nâng cao chất
lượng, giảm biến chứng và tăng tỷ lệ thành
công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Tuấn Anh (2017) Nghiên cứu một số
đặc điểm hình thái, chỉ số đầu – mặt ở một
nhóm người Việt độ tuổi từ 18-25 có khớp
cắn bình thường và khn mặt hài hòa, Luận



×