Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỚI SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO TẠI TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ GIAI ĐOẠN 2010 2020 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.51 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
****🕮****

TIỂU LUẬN MƠN KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề tài

PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ TỚI SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO TẠI
TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

MỤC LỤC


1.

DANH MỤC BẢNG BIỂU

2


2. LỜI MỞ ĐẦU
“Khoảng cách giàu nghèo đang gia tăng, làm thổi bùng lên ngọn lửa giận giữ toàn
cầu”. Đây là những báo cáo mà Tổ chức quốc tế Oxfam đưa ra trong bối cảnh Diễn
đàn Kinh tế thế giới 2019 (WEF) và vẫn còn ý nghĩa cho tới hiện tại do chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của đại dịch Covid-19. Theo Oxfam, khoảng cách giàu nghèo
ngày càng gay gắt làm hủy hoại cuộc chiến chống nghèo đói, gây tổn thất cho nền
kinh tế cũng như châm ngịi cho làn sóng bất bình diễn ra trên tồn cầu. Báo cáo
cho thấy các chính phủ đang khiến cho bất bình đẳng trở nên trầm trọng hơn qua
việc đầu tư khơng thích đáng cho các dịch vụ cơng như dịch vụ chăm sóc y tế và


giáo dục, mặt khác lại áp thuế thấp cho các tập đồn và các nhóm giàu có, và thất
bại trong việc chống trốn thuế. Một mặt, các quốc gia thúc đẩy đầu tư, đưa ra những
chính sách phát triển bền vững để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác,
những nỗ lực này lại gây ra một số hệ lụy, trong đó có bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của một quốc gia xét trên khía cạnh nào
đó có liên quan tới sự phân hóa giàu nghèo.
Xét ở Việt Nam, thực trạng phân hóa giàu nghèo tuy khơng q gay gắt nhưng tiến
trình này vẫn tiếp tục bị nới rộng. Đặc biệt kể từ đại dịch Covid-19, nền kinh tế bị
gián đoạn, cung việc làm không đủ khiến cho nhiều người nghèo, ở vùng nông thôn,
vùng sâu vùng xa thất nghiệp, khơng có thu nhập trong một thời gian dài. Trong khi
đó, nhóm người giàu lại biết tận dụng điều kiện thị trường là cung lao động dồi dào,
đẩy mạnh tăng năng suất, từ đó nâng cao tổng tài sản. Từ xu hướng trên ta có thể dự
đốn tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Nếu khơng có sự can thiệp bền vững ngay
từ bây giờ từ phía Chính phủ, vấn đề giàu nghèo này có thể khó giải quyết hơn
trong tương lai và gây ra tác động nặng nề cho nền kinh tế.
Trước đây, đã có nhiều bài viết nghiên cứu về ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới
sự phân hóa giàu nghèo, tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được một xu hướng tác động cụ
thể. Bởi những nguyên nhân trên, nhóm tác giả xin lựa chọn đề tài nghiên cứu là:
“Phân tích ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới sự phân hóa giàu nghèo tại Trung
Quốc và Ấn Độ giai đoạn 2010 – 2020 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
Phương pháp nghiên cứu của nhóm là thu thập số liệu kết hợp với phân tích định
tính để đánh giá sự ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới sự phân hóa giàu nghèo
tại hai quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ - hai quốc gia có sự bất bình đẳng trong thu
nhập rõ rệt và gay gắt nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cịn đánh giá
những chính sách mà các quốc gia đã thực hiện nhằm mục tiêu giảm khoảng cách
giàu nghèo để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

3



3.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Tăng trưởng kinh tế
Có hai thước đo cơ bản thường được sử dụng để đo lường tăng trưởng kinh tế.
Tổng sản phẩm quốc dân GNP ( hay còn gọi là GNI) là tổng giá trị các hàng hoá và
dịch vụ sau cùng được sản xuất ra bởi công dân của một nước, bao gồm cả giá trị
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất bởi những cơng dân sống bên ngồi biên giới đất
nước trong 1 năm.
Tổng sản phẩm trong nước (quốc nội) (GDP) ngoại trừ việc tính đến tồn bộ sản
lượng được sản xuất ra trong phạm vi biên giới đất nước, bao gồm sản lượng được
sản xuất bởi cư dân người nước ngồi, nhưng khơng tính giá trị sản lượng của cơng
dân sống bên ngoài đất nước.
Lấy GNP hay GDP chia cho tổng dân số ta được số đo thu nhập. Một phần vì dễ
dàng theo dõi hoạt động kinh tế trong biên giới đất nước hơn, nên GDP trở thành
một số đo phổ biến hơn về thu nhập quốc dân. Khi thảo luận về các xu hướng theo
thời gian, ta liên hệ đến GDP thực và GDP thực đầu người, nghĩa là tổng sản phẩm
quốc nội đầu người đã được điều chỉnh theo lạm phát giá nội địa.
1.2 Phân hóa giàu nghèo
Sự phân hóa giàu nghèo có thể đánh giá thơng qua sự bất bình đẳng về thu nhập,
phụ thuộc vào mức thu nhập hoặc tiêu dùng trung bình trong một nước và sự phân
phối thu nhập hoặc tiêu dùng đó. Một số thước đo phổ biến là:
● Hệ số Gini
Hệ số Gini dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong thu nhập trên nhiều vùng miền,
tầng lớp của một đất nước. Nó có giá trị từ 0 (mọi người đều có mức thu nhập bình
đẳng) đến 1 (bất bình đẳng).
- Nếu G < 0.4 thì quốc gia có mức độ bất bình đẳng thấp
- Nếu 0.4 < G < 0.5 thì quốc gia có mức độ bất bình đẳng trung bình
- Nếu G > 0.5 thì quốc gia có mức độ bất bình đẳng cao

Hệ số Gini lượng hóa được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Tuy
nhiên hạn chế là có thể nhận được hệ số Gini giống nhau nhưng độ phân bố các
nhóm dân cư mức thu nhập khác nhau là không giống nhau. Ngồi ra, mặt hạn chế
là khơng cho phép phân tách hệ số Gini theo các phân nhóm nhỏ rồi sau đấy tổng
hợp lại để rút ra được hệ số Gini của một quốc gia.
● Đường cong Lorenz
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vng
mà cạnh bên là tỷ lệ phần trăm thu nhập cộng dồn, còn
cạnh đáy là biểu thị tỷ lệ phần trăm cộng dồn các nhóm
dân cư được sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần
(hình bên). Đường Lorenz càng gần đường chéo thì mức
độ bất bình đẳng càng thấp, càng xa đường chéo thì mức
độ bất bình đẳng càng cao.
4


● Tỉ số Kuznets: Là tỉ số giữa tỷ trọng thu nhập của x phần trăm người giàu nhất chia
cho y phần trăm người nghèo nhất (x có thể khác y và nhận các giá trị 5, 10, 20,...).
Tỉ số này đã được đưa vào một nghiên cứu tiên phong về phân phối thu nhập ở các
nước phát triển và đang phát triển.
● Tiêu chuẩn 40 của ngân hàng thế giới
Tính bằng tỷ trọng thu nhập (chi tiêu) của 40% dân số có mức thu nhập (chi tiêu)
thấp nhất trong xã hội trên tổng thu nhập (chi tiêu) của toàn bộ dân cư. Nếu tỷ trọng
này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao về thu nhập; trong khoảng 12% - 17%
có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là tương đối bình đẳng.
1.3 Lý thuyết về ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến phân hóa giàu nghèo
1.3.1 Mơ hình chữ U ngược của Simon Kuznets
Năm 1955, Simon Kuznets đã đưa ra một mơ hình đặt nền móng cho các nghiên
cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Kuznets đã
dùng tỷ số giữa tỷ trọng thu nhập của nhóm 20% giàu nhất trong tổng dân số so với

tỷ trọng thu nhập của nhóm 60% nghèo nhất làm thước đo sự bất bình đẳng (gọi là
tỷ số Kuznets) với giả thiết: vấn đề bất bình đẳng về thu nhập sẽ tăng ở giai đoạn
ban đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi
hơn. Nếu biểu diễn mối quan hệ trên đồ thị sẽ có dạng chữ U ngược, vì vậy mơ hình
này cịn được gọi là giả thiết chữ U ngược. Lý giải nguyên nhân của hiện tượng đảo
ngược này, Kuznets cho rằng đó là do các yếu tố liên quan đến cầu. Cụ thể, tại thời
điểm bắt đầu thực hiện cơng nghiệp hóa, điều kiện và thể chế thay đổi sẽ kéo theo
nhu cầu về vốn và lao động có kỹ năng, trong khi hạ thấp vai trị của lao động
khơng có kỹ năng. Sau đó kỹ thuật mới liên tục xuất hiện cịn thể chế thì thay đổi
chậm hơn. Nhờ đó, thu nhập của đại bộ phận lao động chuyên môn kém cũng được
cải thiện bởi vai trò của yếu tố nhân lực trong cơ cấu sản phẩm được chú trọng.
1.3.2 Mơ hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis
Theo A.Lewis, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu của sự tăng trưởng bởi vì
cùng với việc mở rộng quy mơ sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu
hút vào làm việc ở khu vực này ngày càng tăng. Việc quy mô mở rộng và lao động
do công nhân mang lại tăng góp phần làm cho thu nhập các nhà tư bản tăng trong
khi mức lương của công nhân không thay đổi đã tạo nên khoảng cách xa hơn trong
thu nhập. Ở giai đoạn sau, sự bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được
thu hút hết vào khu vực thành thị để sản xuất công nghiệp và dịch vụ, lúc này, lao
động trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng
lên đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
Trong mơ hình này thì vấn đề bất bình đẳng về thu nhập không chỉ là kết quả của
tăng trưởng kinh tế mà cịn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng.
1.3.3 Mơ hình tăng trưởng đi đơi với bình đẳng của H.Oshima
H.Oshima cho rằng có thể hạn chế sự bất bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của tăng
trưởng. Trước hết, khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải
5


thiện ngay từ giai đoạn đầu, do việc tập trung phát triển khu vực nơng thơn dựa trên

những chính sách, trợ giúp của Nhà nước về giống, kỹ thuật, cải cách đồng thời việc
mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhập ở khu vực nông thôn được
tăng dần. Tiếp đó là q trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa xí nghiệp có
quy mơ lớn và xí nghiệp quy mơ nhỏ ở thành thị, giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ
ở nông thôn thông qua khả năng tận dụng cơ sở hạ tầng và áp dụng kỹ thuật mới.
1.4 Tổng quan tình hình nghiên cứu trước đây
Liên quan đến đề tài, có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự ảnh hưởng của tăng trưởng
kinh tế đến phân hóa giàu với những quan điểm khác nhau.
Đầu tiên, đồng tình với quan điểm của Kuznets, bằng cách áp dụng phương pháp
bán tham số, Chambers (2010) nhận thấy rằng tăng trưởng kinh tế làm tăng bất bình
đẳng thu nhập đối với tất cả các quốc gia trong ngắn hạn và trung hạn. Về tác động
lâu dài, tăng trưởng kinh tế làm giảm bất bình đẳng ở các nước đang phát triển
nhưng lại có tác dụng ngược lại ở các nước phát triển.
Bài nghiên cứu “Tác động của tăng trưởng kinh tế tới bất bình đẳng thu nhập ở
vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ” của Phan Thăng An (2015) đã kết hợp phương
pháp phân tích định tính và định lượng, đồng thời dựa trên cơ sở áp dụng các
phương pháp đã áp dụng trong kinh tế mà được khởi đầu bởi Kuznets (1955), cùng
các số liệu của nghiên cứu được tổng hợp từ niên giám thống kê của các tỉnh trong
Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ để đánh giá tác động trên. Kết luận của bài
nghiên cứu chỉ ra bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế là hai hiện tượng đi
liền với nhau trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia và đây là tác động là thuận
chiều. Ngoài ra, hiện tượng này có xu hướng tăng dần trong giai đoạn đầu tăng
trưởng kinh tế nhưng trong dài hạn hơn tình trạng này sẽ được cải thiện.
Thứ hai, sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao giúp nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân. Song chính điều này dẫn đến sự phân hóa rõ rệt giữa người giàu và
người nghèo. Tuy thu nhập rất quan trọng nhưng chi tiêu mới là cái phản ánh mức
sống thực tế của người dân. Nhờ tăng thu nhập làm q trình xóa đói giảm nghèo
được thực hiện tốt hơn, tuy nhiên điều này đồng thời dẫn tới khoảng cách giàu
nghèo lại tăng lên cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ giảm nghèo. Một số nghiên cứu đã
chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của tăng trưởng kinh tế và phân hóa giàu nghèo như:

Li & Zou (1998); Barro (2000); Fawaz & cộng sự (2014) hay Rubin & Segal (2015)
đề xuất giả thuyết chi trả theo đóng góp (pay for performance). Theo đó, thu nhập
của người giàu phần lớn đến từ tài sản có liên hệ chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế (ví
dụ: trái phiếu, cổ phiếu), trong khi thu nhập của người nghèo, chủ yếu có từ lương –
thước đo giá trị sức lao động và ít nhạy cảm với tăng trưởng kinh tế. Kết quả là tăng
trưởng kinh tế có thể tăng khoảng cách thu nhập, góp phần làm phân hóa tiêu dùng
của người dân. Các nhà nghiên cứu trên đo lường dòng thu nhập (được định nghĩa
là tổng của lương và thu nhập tài sản) làm biến đại diện bất bình đẳng. Theo đó, kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng tài sản của nhóm 1% giàu nhất nhạy cảm với tăng trưởng
kinh tế gấp hai lần với tài sản của nhóm 90% còn lại, và phản ứng rõ nét với biến
6


động của thị trường chứng khoán. Fawaz & cộng sự (2014) phát hiện quan hệ
dương giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1960 2010 tại 56 quốc gia thu nhập cao theo định nghĩa năm 2012 của Ngân hàng Thế
giới. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu trên cũng sử dụng phương pháp hồi quy
ngưỡng để phân loại quốc gia theo nhóm thu nhập vì phân loại của Ngân hàng Thế
giới có thể sai lệch và kết quả cũng cho ra nhận định tương tự vì gia tăng bất bình
đẳng thu nhập gắn liền với tăng trưởng kinh tế ở nhóm quốc gia thu nhập cao.
Trong đề tài “The Relationship Between Economic Growth and Income Inequality”
của Wahiba & cộng sự (2014), nhóm tác giả tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm
tại Tunisia trong giai đoạn 1984 - 2011 để đánh giá mối quan hệ giữa bất bình đẳng
thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Các kết quả chính cho thấy tăng trưởng kinh tế và
mở cửa trao đổi đã tạo thành các nhân tố làm trầm trọng thêm bất bình đẳng và
những tác động này được nhấn mạnh hơn khi quá trình tự do hóa thương mại đang
được đẩy mạnh trong nước.
Một số nghiên cứu lại kết luận ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình
đẳng thu nhập với quan điểm ngược lại. Quan điểm cho rằng tăng trưởng kinh tế có
tác động tích cực tới bất bình đẳng thu nhập. Nói cách khác, tăng trưởng làm giảm
sự phân hóa giàu nghèo. Grijalva (2011) đã phát hiện mối quan hệ hình chữ U

ngược tồn tại ở bộ dữ liệu 100 quốc gia trong giai đoạn 1950 - 2007. Theo đánh giá
định lượng, thông qua việc áp dụng phương pháp moment tổng qt, trung bình hố
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khoảng thời gian 5 năm hoặc 10 năm, và sử dụng
giá trị quan sát bất bình đẳng tại năm bắt đầu của khoảng thời gian trên để giảm
thiểu vấn đề nội sinh, nhà nghiên cứu trên tìm thấy hệ số hồi quy của bình phương
bất bình đẳng âm và có ý nghĩa thống kê. Ngồi ra, sự dịch chuyển của người lao
động và mức độ nhạy cảm của các nhóm thu nhập khác nhau (tức là thu nhập cao so
với thu nhập thấp) đối với tăng trưởng kinh tế được coi là các yếu tố quyết định sự
bất bình đẳng, điều này đã tạo ra các kết quả thực nghiệm đa dạng. Nissim (2007)
đã chứng minh rằng khi kinh tế tăng trưởng, người lao động sẽ chuyển sang làm
những cơng việc có thu nhập cao hơn, giúp giảm bất bình đẳng thu nhập.
Năm 2008, Bussolo & cộng sự đã sử dụng mơ hình cân bằng chung tồn cầu
LINKAGE của Ngân hàng Thế giới và công cụ Động lực phân phối thu nhập toàn
cầu (GIDD) mới được phát triển trong bài “Global growth and distribution: Are
China and India reshaping the world?” để đánh giá những tác động mà việc mở
rộng kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ sẽ có đối với tăng trưởng toàn cầu và phân
phối thu nhập toàn cầu trong tương lai (2005-2030). Nghiên cứu chỉ ra Trung Quốc
và Ấn Độ có tốc tăng trưởng cao trong giai đoạn 2005-2030. Sự mở rộng kinh tế
mạnh mẽ này của Trung Quốc và Ấn Độ cũng góp phần làm giảm bất bình đẳng
tồn cầu trong sự phát triển của phân phối thu nhập toàn cầu giai đoạn trên.
Như vậy, qua những nghiên cứu đã có trước đây, ta có thể thấy ảnh hưởng của tăng
trưởng kinh tế đến sự phân hóa giàu nghèo vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng.
7


4.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ TỚI SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO TẠI TRUNG QUỐC,
ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

1.1 Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới sự phân hóa giàu nghèo tại Trung Quốc
giai đoạn 2010 - 2020
1.1.1 Thực trạng sự tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc giai đoạn 2010 – 2020
Trong vịng 20 năm (tính từ năm 2000), Trung Quốc đã vượt Mỹ và trở thành
quốc gia giàu có nhất thế giới, với tài sản rịng lên tới 120 nghìn tỷ USD vào năm
2020, so với 90 nghìn tỷ của Mỹ. Vượt lên là nền kinh tế có quy mô GDP lớn thứ
2 thế giới.
Trước năm 2010, mô hình kinh tế của Trung Quốc phát triển theo chiều rộng.
Đến năm 2012, sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, Trung Quốc
chính thức chuyển đổi mơ hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu với mục
tiêu tránh “tăng trưởng nóng”, định hướng phát triển nền kinh tế bền vững hơn.
Có thể thấy, giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) giảm, đạt bình quân 7,93%/ năm và tiếp tục giảm còn 6,625%/ năm (trong
khi tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2013 – 2017 chỉ đạt khoảng 2,6% và
của các nền kinh tế đang phát triển là 4%). Có thể thấy trong giai đoạn này,
Trung Quốc tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mơ hình “tăng trưởng cân bằng, tồn
diện và bền vững hơn”. Tuy nhiên, mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào
tăng trưởng kinh tế của thế giới giai đoạn 2013 – 2017 là 30% lớn nhất thế giới
và cao hơn cả tổng mức đóng góp của Mỹ, các nước khu vực đồng Euro và Nhật
Bản. Đến năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch covid làm tốc độ tăng trưởng
GDP của thế giới giảm mạnh về mức – 3.6% thì Trung Quốc vẫn giữ vững mức
tăng trưởng dương 2,3%.
Bảng 1: Giá trị GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc giai đoạn 2010 - 2020

Năm
2020
2019
2018
2017
2016

2015
2014
2013
2012
2011
2010

Giá trị GDP (tỷ USD)
14 723
14 280
13 895
12 310
11 233
11 061
10 476
9 570
8 532
7 551
6 087

8

Tăng trưởng (%)
2,30
5,95
6,75
6,95
6, 85
7,04
7,43

7,77
7,86
9,55
10,64
(Nguồn: Tổng Cục thống kê)


Biểu đồ 1: Biểu đồ giá trị GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc giai đoạn 2010 –
2020

(Nguồn: Nhóm tự tổng hợp)
Từ bảng số liệu thống kê về giá trị GDP và tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc
giai đoạn 2010 2020 do nhóm tổng hợp lại, ta thấy mặc dù Trung Quốc giữ mức
tăng trưởng giảm nhẹ, nhưng tổng giá trị GDP qua các năm đều tăng và tỷ lệ
thuận với giá trị FDI (đầu tư trực tiếp ra nước ngoài) của Trung Quốc giai đoạn
này. Giá trị trung bình của nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giai đoạn
này đạt 133,1 tỷ USD, ở mức cao trên thế giới. Đặc biệt, năm 2020, Trung Quốc
trở thành quốc gia có dịng vốn FDI lớn thứ hai trên thế giới và trở thành một
điểm thu hút nguồn vốn trên thế giới từ khi thực hiện chính sách mở cửa trong
suốt 4 thập kỷ qua.
Tóm lại có thể khẳng định, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc giai đoạn 2010 – 2020
phát triển rất ổn định và có nhiều bài học để Việt Nam học hỏi.
1.1.2 Thực trạng sự phân hóa giàu nghèo tại Trung Quốc giai đoạn 2010 – 2020
Theo dữ liệu thu thập được của The World Bank, ta có biểu đồ thể hiện sự biến
động của hệ số Gini của Trung quốc giai đoạn 2010 – 2019.
Biểu đồ 2: Biểu đồ biến động hệ số Gini của Trung Quốc giai đoạn 2010 - 2019

Căn cứ vào biểu đồ trên, ta thấy Trung Quốc giai đoạn 2010 – 2019 có mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập ở mức trung bình và có xu hướng ngày càng
giảm, tuy nhiên mức độ giảm còn nhẹ và chưa rõ rệt. Giá trị của hệ số Gini vẫn

xoay quanh ở mức 0,4, trong khi hệ số Gini trung bình của thế giới chỉ ở khoảng
0,388 trong giai đoạn này. Như vậy có thể khẳng định mức độ bất bình đẳng của
Trung Quốc là cao so với thế giới.
Sự phân hóa giàu nghèo ở Trung Quốc không chỉ giữa khu vực nông thôn và thành
thị mà cịn tồn tại giữa các vùng, gần 1/2 số nơng dân nghèo sống ở khu vực phía
Tây và chỉ khoảng 10% sống tại các tỉnh miền duyên hải. Phân hóa thu nhập cũng
diễn ra mạnh ở giữa các nhóm ngành nghề, thu nhập của các ngành như cơng nghệ,
tài chính, ngân hàng, xây dựng, dầu mỏ... cao gấp 10 lần trung bình thu nhập các
ngành trong tồn quốc.
Theo Guardian, Nikkei Asia, khoảng cách thu nhập đến 20.000 NDT (cư dân thành
thị kiếm được trung bình 43.834 nhân dân tệ (NDT) vào năm 2020 trong khi con số
đó của cư dân nông thôn chỉ là 17.131 NDT) gây ra cảnh trong khi người dân ở
Thượng Hải, Bắc Kinh có cuộc sống đầy đủ tương đương với các nước phát triển
như Thụy Sĩ, thì cư dân nhiều vùng khác ở Trung Quốc có mức sống chỉ tương
đương với những nước kém phát triển trên thế giới.
9


1.1.3 Đánh giá ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến sự phân hóa giàu nghèo tại Trung
Quốc giai đoạn 2010 – 2020
Ta có thể thấy, hệ số Gini của Trung Quốc tỷ lệ nghịch với tổng GDP cả nước qua
các năm nhưng tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy có thể khẳng
định, tuy tổng GDP cả nước nói chung tăng lên, nhưng khơng có sự phát triển đồng
đều giữa các vùng.
Lý do chính dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo gia tăng là chênh lệch về đầu tư giữa
khu vực thành thị và nông thơn. Tổng lượng vốn đầu tư của chính phủ và Nước
ngoài đều rất cao, tuy nhiên lại tập trung đầu tư để phát triển các khu công nghiệp
dịch vụ tại thành thị, các dự án ở nông thôn không được đưa vào thực hiện, chất
lượng cuộc sống về y tế, giáo dục, … chưa được chú trọng đầu tư. Tăng trưởng ở
thành thị trong khi thiếu hụt đầu tư tại nông thôn, lao động nông thôn dồi dào nhưng

việc làm lại địi hỏi những người có thu nhập cao.
Ngồi ra, tình trạng thuế thu nhập cá nhân khơng minh bạch dẫn đến phân hóa giàu
nghèo ngày càng tăng. Ước tính 20% số người giàu Trung Quốc hiện nay chỉ nộp
thuế thu nhập cá nhân chưa bằng 10% tổng mức thuế thu nhập mà Nhà nước thu
được.
Thương mại tự do làm giảm khoảng cách giàu nghèo trên thế giới nhưng mặt khác
lại làm tăng bất bình đẳng thu nhập tại Trung Quốc. Khi hội nhập là cơ hội để người
giàu tăng thêm nguồn vốn của mình, thì lao động Trung quốc lại bị giảm khả năng
cạnh tranh trên thị trường lao động thế giới. Tại năm 2011, thu nhập bình quân 1 giờ
lao động của Trung quốc chỉ là 0,2 USD, trong khi các nước châu u, Mĩ là 25 – 30
USD.
1.1.4 Những chính sách, biện pháp của Trung Quốc để giảm phân hóa giàu nghèo giai
đoạn 2010 - 2020
Giai đoạn 2010-2020, Trung Quốc đã đẩy mạnh thực hiện và đạt thành tựu đáng chú
ý trong việc rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, nước này đã đề ra và thực hiện một
số biện pháp, chính sách về xóa đói giảm nghèo và phân phối lại thu nhập, cụ thể:
Biện pháp 1: Cải thiện hệ thống thuế
- Cải thiện hệ thống thuế cá nhân: thực hiện chuyển đổi thuế thu nhập cá nhân từ
thuế phân loại sang hệ thống thuế kết hợp giữa phân loại và tính tồn diện, thiết kế
hợp lý thuế suất và điều chỉnh phạm vi thuế suất.
- Đẩy mạnh cải cách thuế tiêu dùng: điều này có thể điều chỉnh sự bất công trong
phân phối xã hội ở một mức độ lớn, và bù đắp một phần cho sự thất bại của thuế thu
nhập cá nhân đối với thu nhập đen và các khoản thu nhập bất hợp pháp khác.
- Cải thiện thuế đất đai: đánh thuế tài sản đối với nhà ở riêng lẻ có thể hạn chế mua
nhà đầu cơ và làm tăng giá bất động sản. Sự gia tăng bất hợp lý và quá nhanh của
thị trường nhà ở đã tạo điều kiện cho người dân bình thường có đủ khả năng mua
nhà ở và ngăn cản "giới đầu cơ bất động sản" kiếm ngày càng nhiều tiền hơn từ thị
trường này.
10



- Nghiên cứu thu thuế thừa kế: Việc thu hợp lý của thuế thừa kế có thể đạt được
mục đích "cướp của người giàu chia cho người nghèo" một cách hiệu quả và ngăn
chặn sự tập trung liên tục của cải thơng qua tích lũy giữa các thế hệ.
Biện pháp 2: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và thúc đẩy sự phát
triển đồng bộ giữa đô thị và nông thôn và các vùng.
Từ đầu năm 2011, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, trong việc bố
trí chi tiêu tài khóa cần ưu tiên đầu tư cho “nông nghiệp, nông thôn và nông dân”,
nhất là các vùng có đơng dân cư nơng thơn. Tăng cường đầu tư tài khóa, điều phối
các chính sách tài khóa và thuế cũng như hệ thống pháp luật tài khóa và thuế để
phát triển cân bằng và đồng bộ của nền kinh tế khu vực, đồng thời tăng cường các
chính sách tài khóa và thuế và hỗ trợ tài chính cho các vùng nông thôn rộng lớn,
thúc đẩy sự phát triển của khu vực phía Tây, sự trỗi dậy của khu vực trung tâm và
sự hồi sinh của khu vực đông bắc.
Biện pháp 3: Tăng cường công tác giảm nghèo ở thành thị và nông thôn nhằm
đảm bảo mức sống cơ bản của các nhóm thu nhập thấp.
Trong giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020, Trung Quốc liên tục tăng cường bảo vệ
cư dân nông thôn, tăng mức trợ cấp cho việc gieo trồng ngũ cốc, tư liệu sản xuất
nông nghiệp, trợ cấp máy móc nơng nghiệp, mua sắm thiết bị gia dụng và mở rộng
phạm vi các dự án được trợ cấp; tiếp tục mở rộng phạm vi đảm bảo mức sống tối
thiểu của đô thị, đồng thời siết chặt và nâng cấp hệ thống an ninh khu vực.
Biện pháp 4: Cải thiện và tăng chi tiêu cho hệ thống an sinh xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, cứu trợ xã hội và chăm sóc ưu đãi xã hội
đóng vai trị quan trọng trong việc bù đắp những khiếm khuyết trong phân phối thị
trường và duy trì sự cơng bằng tương đối trong phân phối thu nhập xã hội. Do đó,
cần liên tục cải tiến hệ thống bảo hiểm xã hội như bảo hiểm trợ cấp, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương tật và thai sản, và tăng cường đầu tư tài
chính trong bảo hiểm xã hội.
Biện pháp 5: Tăng thanh toán chuyển khoản để thúc đẩy bình đẳng các dịch vụ
cơng.

Hiệu ứng rút đáy, để “tỉnh, thành phố có tiền xây quảng trường, quận, thị xã khơng
có tiền xây trường tiểu học” không phải là hiếm, đã làm giảm mạnh vai trị của tài
chính đối với điều chỉnh chênh lệch giàu nghèo và phân bổ nguồn lực một cách tối
ưu. Trung Quốc đã tăng dần tỷ lệ của chính quyền địa phương, đặc biệt là chính
quyền cấp cơ sở, trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính và tăng các khoản chi
chuyển từ chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương và từ cấp trên cho
cấp dưới, để thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bình đẳng hóa các dịch vụ công.

11


1.2 Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới sự phân hóa giàu nghèo tại Ấn Độ giai
đoạn 2010 - 2020
1.2.1 Thực trạng sự tăng trưởng kinh tế tại Ấn Độ giai đoạn 2010 – 2020
Ấn Độ là một trong những nền kinh tế lớn ở châu Á nói riêng và trên thế giới nói
chung. Xét theo GDP danh nghĩa, cho đến năm 2019, Ấn Độ đạt mức 2.94 nghìn tỷ
đồng, vượt Anh và Pháp để trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trên thế giới. Xét theo
GNI đầu người, số liệu mới nhất của World Bank (2020), Ấn Độ được xếp vào danh
sách các quốc gia có thu nhập trung bình cao, với GNI đầu người là 6440 USD.
Như vậy, nền kinh tế của Ấn Độ lớn thuộc hàng đầu trên thế giới, tuy nhiên Ấn Độ
lại chưa phải là quốc gia có thu nhập cao. Điều này được thể hiện qua so sánh giữa
GDP thực và GDP đầu người của Ấn Độ qua từng năm giai đoạn 2010-2020.
Biểu đồ 3: Biểu đồ thể hiện GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Ấn Độ giai đoạn 2010 - 2020

(Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ số liệu của World Bank về Ấn Độ)
Có thể thấy, nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ trong giai đoạn
2010-2020 ở mức cao. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình qn đạt
6.5%, cịn giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP đạt 6.4%.
Năm 2020, Ấn Độ là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
đại dịch Covid-19 bởi vậy nên tốc độ tăng trưởng kinh tế là tốc độ tăng trưởng âm ở

mức cao -8%. Ngồi ra, bình quân của tốc độ tăng trưởng của 2016-2020 thấp hơn,
ở mức 3.52%. Tính trong cả giai đoạn từ 2011-2020 thì nền kinh tế Ấn Độ tăng
trưởng vào khoảng 5%/ năm. So sánh với các quốc gia phát triển ở Châu Á cũng
như trên thế giới, mức tăng trưởng này ở mức cao, vượt một mục tiêu tăng trưởng
mà Ấn Độ đã đề ra cho nền kinh tế của mình.
Biểu đồ 4: Biểu đồ thể hiện GDP đầu người và tốc độ tăng GDP đầu người của Ấn Độ

Xét về GDP bình quân đầu người, từ 2011 đến 2020, GDP bình quân đầu người có
xu hướng tăng (năm 2011: 1458.10 USD - năm 2020: 1900.71 USD, tăng 442.61
USD/người). Mức tăng bình quân trong giai đoạn 2011 -2015 là 49.6 USD/ người,
còn giai đoạn 2016-2020 là 59.02 USD/ người, cao hơn giai đoạn 2011 -2015. Năm
2020, GDP có mực sụt giảm rõ rệt do ảnh hưởng của đại dịch nên GDP bình quân
đầu người cũng có một mức giảm sâu tương tự.
Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2011 - 2015 là 3.48%, năm 2016
-2019 là 7.06%. Nhìn chung, tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của Ấn Độ
trong tồn giai đoạn là 3.53% . Ta có thể thấy tốc độ này nhỏ hơn so với tốc độ tăng
GDP. So sánh với một số quốc gia lớn trên thế giới, ta thấy tốc độ này không tăng
đồng đều cũng như ở một số năm, tốc độ này là rất thấp (2012 là -0.98%, năm 2013
là 0.4%, năm 2018 là 0.82%).
Như vậy, tăng trưởng GDP của Ấn Độ không có sự tương xứng với tăng trưởng của
GDP đầu người. Giải thích cho vấn đề này, một số chuyên gia nhận định đó là do
12


Ấn Độ có dân số q đơng ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người. Dân số
Ấn Độ là 1,3 tỷ người, đứng thứ hai thế giới, mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm dần
đến 1%. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khác cho rằng, mặc dù dân số cũng đóng góp
một phần vào GDP đầu người thấp, có nhiều yếu tố khác dẫn đến tình trạng này.
Thứ nhất là trong giai đoạn này cũng như các giai đoạn trước đó, Chính phủ thường
đưa giá nơng sản xuống thấp khiến cho doanh thu của người nông dân thấp. Thứ

hai, tỷ trọng lao động trong ngành nơng nghiệp cịn rất cao, quá trình chuyển dịch
lao động sang những ngành sản xuất có giá trị cao hơn cịn diễn ra rất chậm.
Chỉ thực hiện so sánh giữa GDP và GDP đầu người, ta cũng phần nào thấy được
tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ chưa thực sự đi kèm với phát triển.
1.2.2 Thực trạng sự phân hóa giàu nghèo tại Ấn Độ giai đoạn 2010 – 2020
Biểu đồ 5: Biểu đồ về hệ số Gini của Ấn Độ giai đoạn 2010 - 2020

(Nguồn: World Bank)
Trong giai đoạn 2011 - 2020, hệ số Gini luôn tăng, và thực tế là trong 10 năm, hệ số
này đã tăng hơn 2 lần từ 0.36 (2011) đến 0.82 (2020). Giai đoạn 2011-2013, tốc độ
tăng bình quân của hệ số Gini là 19.17%. Từ 2013-2016, hệ số Gini tăng với tốc độ
23.53%. Giai đoạn 2016-2020 chứng kiến mức tăng cao nhất của hệ số này,
30.16%. Đến năm 2020, Ấn Độ trở thành một trong những quốc gia có hệ số Gini
cao nhất. Điều này chứng tỏ sự bất bình đẳng giàu nghèo ở Ấn Độ khơng chỉ tăng
mà cịn tăng với tốc độ rất nhanh.
Bảng 2: Phần trăm thu nhập quốc dân nắm giữ giữa 10% người giàu nhất và 50% người
có thu nhập thấp nhất tại Ấn Độ, giai đoạn 2011-2020
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020


Top 10% giàu nhất
53.32
55.17
56.03
56.27
57.13
57.13
57.13
57.13
57.13
57.13
57.13

Top 50% nghèo nhất
14.33
13.73
13.46
13.39
13.13
13.13
13.13
13.13
13.13
13.13
13.13

(Nguồn: Nhóm tự tổng hợp từ World Bank)
Xét trong giai đoạn từ năm 2011 -2014 theo bình quân, top 10% người giàu nhất
nắm giữ khoảng 56.15% thu nhập quốc dân, trong khi đó 50% người có thu nhập
thấp nhất lại chỉ nắm giữ khoảng 13.43% thu nhập quốc dân. Sự nắm giữ này cũng

có xu hướng tăng với nhóm 10% người có thu nhập cao nhất (55.17% năm 2011 và
57.13% năm 2014 - tăng 1.96%) và giảm với nhóm 50% người nghèo nhất (13.73%
năm 2011 và 13.13% năm 2014 - giảm 0.6%). Từ năm 2014 đến 2020, tỷ lệ nắm giữ
13


ở hai nhóm này khơng có sự thay đổi. Đến năm 2020, tỷ lệ chiếm giữ thu nhập quốc
dân của nhóm người giàu nhất gấp khoảng 4 lần so với nhóm người có thu nhập
thấp. Sự chênh lệch này được coi là rất lớn so với một số quốc gia đang phát triển
khác.
Qua hai nhóm dữ liệu phân tích nêu trên, có thể thấy tình trạng phân hóa giàu nghèo
ở Ấn Độ đang ở mức rất cao và sự bất bình đẳng trong thu nhập khơng có xu hướng
giảm. Một số ngun nhân nổi bật giải thích cho tình trạng này có thể kể tới: các
chính sách về kinh tế nói chung và thuế nói riêng của chủ nghĩa tân tự do với xu
hướng giảm sự điều tiết của chính phủ khiến cho sự tập trung tài sản khơng kiểm
sốt của khu vực tư nhân; thiếu khả năng tiếp cận giáo dục và y tế chất lượng đối
với người nghèo; chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực
khác chậm,...
1.2.3 Đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế đến sự phân hóa giàu nghèo tại Ấn Độ
giai đoạn 2010 – 2020
Ta có thể thấy, hệ số Gini của Ấn Độ tỷ lệ thuận với tổng GDP cả nước qua các
năm. GDP cả nước tăng thì hệ số Gini cũng tăng. Điều này chứng tỏ rằng tăng
trưởng kinh tế ở Ấn Độ có tác động cùng chiều với sự bất bình đẳng giàu nghèo.
Khơng chỉ vậy, mỗi khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh thì hệ số Gini cũng bị đẩy lên
mạnh. Tăng trưởng kinh tế khơng những khơng làm giảm đi sự bất bình đẳng giàu
nghèo mà còn đang khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng bị kéo giãn ra. Kết
luận tương tự khi liên hệ với GDP đầu người của Ấn Độ trong giai đoạn này.
Nhóm nghiên cứu đã có đưa ra một số giải thích cho hiện tượng này ở phía trên,
một trong số những nguyên nhân đó là rất nhiều lao động ở Ấn Độ vẫn thuộc lĩnh
vực nông nghiệp, sự chuyển dịch sang các lĩnh vực ngành nghề khác tạo giá trị cao

hơn diễn ra rất chậm. Thu nhập của các lao động này bởi vậy cũng sẽ có mức tăng
rất thấp, trong khi nhóm người giàu thuộc các lĩnh vực ngành nghề tạo giá trị cao
hơn sẽ có mức tăng thu nhập cao hơn. Điều này cũng góp phần giải thích cho tình
trạng top những người giàu chiếm thu nhập quốc dân với tỉ trọng ngày càng tăng
trong khi với những người có thu nhập thấp, tỷ trọng này lại bị giảm.
1.2.4 Những chính sách, biện pháp của Ấn Độ để giảm phân hóa giàu nghèo giai đoạn
2010 - 2020
Với mức độ chênh lệch khủng khiếp giữa người giàu và người nghèo ở Ấn Độ,
công cuộc giảm chênh lệch là một nhiệm vụ trải dài qua nhiều thập kỷ. Trong những
năm 2010, Ấn Độ đã đưa ra nhiều nỗ lực nhằm hạn chế khoảng cách này.
Biện pháp 1: Đầu tư vào chăm sóc sức khỏe, giáo dục và bảo trợ xã hội
Chính phủ Ấn Độ đã có những nỗ lực đáng kể trong việc đầu tư vào các dịch vụ
công miễn phí, tạo điều kiện cho người nghèo khơng phải sử dụng thu nhập ít ỏi của
họ để trả cho những dịch vụ thiết yếu nhất. Điều này có thể tăng đáng kể thu nhập
khả dụng của họ. Chi tiêu xã hội cũng có thể làm giảm cơng việc chăm sóc khơng
được trả cơng do phụ nữ thực hiện - bằng cách phân bổ lại các dịch vụ chăm sóc trẻ
14


em và người cao tuổi, chăm sóc sức khỏe và lao động giúp việc gia đình khác. Chi
tiêu xã hội đã được chứng minh là làm giảm 20% bất bình đẳng ở các nước OECD.
Biện pháp 2: Cải thiện hệ thống thuế
Đánh thuế những người giàu trong xã hội nhiều hơn người nghèo là một biện pháp
trực tiếp làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Nếu các khoản thuế này được đầu tư vào
các dịch vụ cơng, chúng có thể làm giảm bất bình đẳng một cách nhanh chóng hơn
nữa. Hệ thống thuế cũng có thể được sử dụng để ngăn cản các hoạt động làm trầm
trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, ví dụ chính phủ có thể giảm thuế cho các doanh
nghiệp trả lương cao và chia sẻ nhiều lợi nhuận với nhân viên.
Biện pháp 3: Trả lương cho phụ nữ bình đẳng với nam giới.
Một trong những vấn đề còn nhức nhối trong xã hội Ấn Độ là vấn đề bình đẳng

giới. Bất bình đẳng giới đã kéo theo bất bình đẳng thu nhập giữa nam và nữ - làm
trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo ở Ấn Độ khi lực lượng lao động nữ giới
chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm người nghèo. Nghiên cứu cho thấy mức lương cao hơn
và quyền lao động mạnh mẽ hơn đối với lao động nữ, những người có xu hướng
làm những công việc được trả lương thấp nhất và không an tồn nhất, là chìa khóa
để giảm bất bình đẳng của Ấn Độ. Cụ thể, nếu chính phủ Ấn Độ đảm bảo phụ nữ
được trả số tiền tương đương với nam giới cho cùng một công việc, thu nhập của
phụ nữ sẽ tăng gần một phần ba.
Biện pháp 4: Đầu tư phát triển nơng nghiệp
Nơng nghiệp là lĩnh vực góp phần quan trọng cho nền kinh tế phát triển mạnh và ổn
định dân sinh, tăng thu nhập cho bộ phận người có thu nhập thấp góp phần rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo. Năm 2017, ở Ấn Độ vẫn còn khoảng 58% hộ dân tại nông
thôn phụ thuộc vào nông nghiệp. Những chính sách tạo điều kiện cho phát triển
nơng nghiệp được chính phủ tích cực đẩy mạnh và thơng qua, kết hợp nông nghiệp
với các tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó làm gia tăng thu nhập của bộ phận người
dân phụ thuộc vào nông nghiệp đồng thời thúc đẩy tăng trưởng của lĩnh vực này,
đưa Ấn Độ trở thành một trong những nền nông nghiệp lớn nhất thế giới.
1.3 Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới sự phân hóa giàu nghèo tại Việt Nam giai
đoạn 2010 - 2020
1.3.1 Thực trạng sự tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020
Biểu đồ 6: Biển đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

(Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê)
Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này được duy trì ở mức độ
khá cao. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân 5,9%/năm,
giai đoạn 2016 - 2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, bình quân giai đoạn 2016 - 2020
đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng GDP đạt
khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế
giới. Cụ thể, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Thống kê Liên hợp
15



quốc, tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2017 cao hơn mức bình qn
của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (5,4%) và các nước Đơng Nam Á (5%).
Tính riêng năm 2020, Việt Nam là nền kinh tế duy nhất trong nhóm ASEAN 6 tăng
trưởng dương với tốc độ 2,91%, quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỷ USD năm
2010 lên 268,4 tỷ USD, vượt mặt Singapore (337,4 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ
USD) để nắm giữ vị trí thứ 4 trong danh sách 11 nền kinh tế của Đơng Nam Á.
Tuy nhiên, GDP tăng bình quân khoảng 5,9%/năm giai đoạn 2011 - 2020 thấp hơn
so với mục tiêu Chiến lược là 7-8%/năm và thấp hơn so với hai giai đoạn trước (giai
đoạn 1991-2000, tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,56%/năm; giai đoạn 2001-2010,
tăng trưởng bình quân đạt 7,26%/năm).
Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này đạt được nhiều tiến bộ, kinh tế vĩ mô ổn
định và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng được
kiềm chế và đạt mục tiêu Quốc hội đặt ra dưới 4%. Tăng trưởng GDP của Việt Nam
chủ yếu là đóng góp từ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực
dịch vụ, do đó đã tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu của nền kinh
tế.
Biểu đồ 7: Cơ cấu GDP theo giá hiện hành năm 2011 và năm 2020 (%)

Đánh giá tăng trưởng kinh tế theo GDP bình qn đầu người, có thể thấy
GDP/người tăng từ 1.331 USD (2010) lên khoảng 2.750 USD (2020). Tốc độ tăng
trưởng GDP/người của Việt Nam đạt 1.98% trong năm 2020, giảm 71 USD/người
so với con số 2.715 USD/người của năm 2019. GDP bình quân đầu người năm 2020
tăng thêm khoảng 1.420 USD so với năm 2010, thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
Biểu đồ 8: Biểu đồ thể hiện GDP/người của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020

1.3.2 Thực trạng sự phân hóa giàu nghèo tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020
Năm
Cả nước

Thành thị
Nông thôn

Bảng 3: Hệ số GINI tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020
2010
2012
2014
2016
2018
0.433
0.424
0.430
0.431
0.42
0.402
0.385
0.397
0.391
0.373
0.395
0.399
0.398
0.408
0.408

2020
0.373
0.325
0.373


(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tình trạng chênh lệch thu nhập của cả nước thể hiện qua hệ số Gini có xu hướng
giảm trong giai đoạn 2010-2020, từ 0,433 năm 2010 xuống còn 0,373 năm 2020.
Đây là dấu hiệu khả quan bởi so với giai đoạn trước đó, 2002-2010, hệ số Gini có
xu hướng tăng nhẹ từ 0,420 năm 2002 lên 0,433 năm 2010. Ngoài ra, khi so sánh
với quốc tế cũng như so với một số quốc gia trên thế giới, thì hệ số Gini ở mức thấp
hơn 0,4 cho thấy bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam nằm trong ngưỡng an toàn,
hiệu quả, phù hợp cho mục tiêu tăng trưởng cao. Tại khu vực thành thị, người dân
bình đẳng và dễ dàng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ học vấn,
kỹ năng làm việc thơng qua giáo dục nên bất bình đẳng về thu nhập ln thấp hơn
16


khu vực nông thôn. Năm 2016 hệ số GINI ở khu vực thành thị là 0,391 giảm còn
0,325 năm 2020, chỉ số này tương ứng ở khu vực nông thôn là 0,408 và 0,373.
Năm
Bình Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm
(a)
(b)
qn
1
2
3
4
5
2010
1387
369
669
1000

1490
3410
3041
9.24
2012
2000
512
984
1500
2222
4784
4272
9.34
2014
2637
660
1314
1972
2830
6413
5753
9.72
2016
3098
771
1516
2301
3356
7547
6776

9.79
2018
3760
931
1808
2774
4110
9175
8244
9.86
2020
4230
1139
2508
3509
4887
9108
7969
7.99
Ghi chú: (a) Khoảng cách thu nhập giữa Nhóm 5 và Nhóm 1; (b) Số lần chênh lệch thu
nhập giữa Nhóm 5 (giàu nhất) và Nhóm 1 (nghèo nhất)

(Nguồn: Tổng cục Thống kê và Báo cáo hàng quý của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội)
Thu nhập bình qn/tháng cả 5 nhóm đều tăng qua các năm, trong đó thu nhập bình
qn đầu người một tháng năm 2020 gấp 3,04 lần so với năm 2010. Bên cạnh đó, số
lần chênh lệch thu nhập giữa Nhóm 5 và Nhóm 1 giai đoạn 2010-2020 ln ở mức
khá cao nhưng có sự thay đổi rõ rệt trong năm 2020 so với các năm trước. Cụ thể,
từ năm 2010-2018, chênh lệch thu nhập giữa Nhóm 5 và Nhóm 1 có xu hướng tăng
liên tục trong bối cảnh mơi trường kinh tế diễn ra khơng có cú sốc nào. Năm 2010,

thu nhập Nhóm 5 gấp 9,24 lần so với Nhóm 1, đến năm 2018 thu nhập Nhóm 5 gấp
9,86 lần so với Nhóm 1. Điều đó có nghĩa là khoảng cách thu nhập giữa nhóm
người có thu nhập thấp nhất và nhóm người có thu nhập cao nhất ngày càng gia
tăng, chứng tỏ Việt Nam đang dần trở thành nước có chênh lệch giàu nghèo cao kéo
theo sự bất bình đẳng về thu nhập tăng nhanh.
Năm 2010, thu nhập bình qn 1 người/1 tháng của nhóm hộ nghèo nhất (Nhóm 1)
đạt 369 nghìn đồng, tăng bình qn 9,7% trong giai đoạn 2010-2018 và của nhóm
hộ giàu nhất (Nhóm 5) đạt 3.410 nghìn đồng tăng bình qn 10,7%. Tốc độ tăng thu
nhập của Nhóm 1 chậm hơn nhóm 5 làm cho khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng.
Tuy nhiên, đến năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch Covid-19 và hiệu quả của
các chính sách an sinh xã hội tới các đối tượng là người nghèo, gia đình chính sách
nên nhóm thu nhập thấp có tốc độ tăng thu nhập 7,6%, nhanh hơn mức tăng 3,3%
của nhóm thu nhập cao nhất. Điều đó đã kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa 2
nhóm này chỉ cịn 7,99 lần có nghĩa là chênh lệch giàu nghèo năm 2020 đã cải thiện
đáng kể.
1.3.3 Đánh giá ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến sự phân hóa giàu nghèo tại Việt
Nam giai đoạn 2010 – 2020
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế thì tình trạng chênh lệch giàu nghèo lại có xu
hướng gia tăng. Khoảng cách thu nhập giữa các vùng, các nhóm dân cư ngày càng
lớn và diễn ra gay gắt.
17


Tăng trưởng kinh tế đã giúp người dân có mức thu nhập cao hơn, từ đó mức chi tiêu
cũng lớn hơn. Tuy nhiên, khoảng cách chi tiêu giữa thành thị và nơng thơn có xu
hướng ngày càng tăng. Điều này xuất phát từ sự tăng trưởng kinh tế không đồng
đều giữa đơ thị và nơng thơn. Có thể thấy, từ năm 2011 đến 2020, tỷ trọng ngành
dịch vụ đã tăng lên trong khi tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong cơ
cấu GDP giảm xuống. Trong khi đó, ngành dịch vụ đặc biệt phát triển ở thành thị,

nơi có dân cư đơng đúc, nhu cầu tiêu dùng lớn, vì thế người lao động nơi đây có thể
tìm được nhiều việc làm, từ đó nâng cao thu nhập. Ngược lại, ở nông thôn, người
lao động chủ yếu làm nông nghiệp, nguồn thu nhập chính chủ yếu phụ thuộc vào
việc buôn bán nông sản và dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh hay mất mùa,
được mùa rớt giá,... Các khu công nghiệp tại các vùng nông thôn đều được xây
dựng với quy mô vừa và nhỏ, tuy nhiên người lao động tại các vùng quê có kĩ năng
tay nghề cịn hạn chế, chưa được đào tạo chính quy nên được trả lương thấp. Chính
những điều này đã làm gia tăng mức chênh lệch giữa thành thị và nông thơn.

(Nguồn: Tính tốn từ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư)

Điều này có thể thấy rõ trên đồ thị, từ 2010 - 2018, nền kinh tế Việt Nam đặc biệt
phát triển, chênh lệch thu nhập giữa 2 khu vực cũng liên tục tăng. Chỉ đến năm
2020, do tác động của dịch Covid, nền kinh tế phát triển tương đối chậm, Nhà nước
cũng đưa ra các gói hỗ trợ người dân khiến mức chênh này giảm so với năm 2018
những vẫn cao hơn năm 2016.
Khi nền kinh tế đô thị phát triển mạnh mẽ, người lao động từ các vùng quê bắt đầu
di chuyển lên các thành phố để tìm việc làm, tăng thu nhập. Lượng người lao động
tại thành thị tăng mạnh trong khi nguồn cung về việc làm có hạn đã làm giảm tiền
lương của người cơng nhân, thậm chí cịn có thể thấp hơn so với thu nhập ở nông
thôn. Không chỉ vậy, tỷ lệ thất nghiệp ở các thành phố cũng vì thế mà tăng cao.
Biểu đồ 9: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của cả nước giai đoạn 2010 - 2020

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
18


Quan sát trên đồ thị, ta thấy tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị luôn cao hơn so với ở nông
thôn. Điều này cũng xuất phát từ việc người lao động tại các vùng q ln có sẵn
ruộng đất để canh tác và kiếm sống. Năm 2020 với nhiều biến động về kinh tế,

nhiều nơi cắt giảm nhân sự khiến tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố ở mức cao nhất trong
10 năm qua. Nhiều người lao động vì để giữ việc mà chấp nhận làm với mức lương
tương đối thấp. Khi đó, người giàu được sử dụng nguồn lao động giá rẻ khiến cho
họ ngày càng giàu hơn, còn người nghèo càng trở nên nghèo hơn.
1.3.4 Những chính sách, biện pháp của Việt Nam để giảm phân hóa giàu nghèo giai đoạn
2010 - 2020
Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ về kinh tế, chính trị và
xã hội để thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo.
Về mặt kinh tế, đẩy mạnh ổn định tái cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng để
hiệu quả của nền kinh tế tốt hơn và mang lại lợi ích cho tồn xã hội nhiều hơn. Đào
tạo việc làm cho người nông dân ở nông thôn miền núi, điều tiết thu nhập qua thuế
tốt hơn, an sinh xã hội có nhiều trụ cột khác nhau, đảm bảo quyền lợi cần thiết cho
người dân phải được tiến hành mạnh mẽ hơn, nhất là hỗ trợ tín dụng cho người
nghèo mạnh mẽ hơn.
Về mặt chính trị, ổn định chính trị là việc vô cùng quan trọng, tạo môi trường đầu
tư kinh doanh tốt, dân chủ công khai để mọi người dân có cơ hội vươn lên và tạo
điều kiện cho người dân làm chủ cũng là một thể hiện của giảm chênh lệch. Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng khẳng định: “Có nhận thức tốt, có hành động tốt, có
chính trị tốt, có kinh tế tốt thì mới có thể giải quyết tốt vấn đề khoảng cách chênh
lệch này” .
Về mặt xã hội, năm 2011, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày
09/11/2011 về Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015, trong đó
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững được ưu tiên hàng đầu.
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm
nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 và Thủ tướng phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2012-2015. Theo đó Thủ
tướng Chính phủ u cầu tiếp tục đẩy nhanh rà sốt, sửa đổi, bổ sung chính sách
giảm nghèo, tích hợp chính sách thuộc các lĩnh vực bảo đảm đồng bộ, hiệu quả, dễ
theo dõi, dễ thực hiện; trong đó tập trung vào 3 nhóm chính sách: Hỗ trợ phát triển
sản xuất, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo; hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo tiếp cận

các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các dịch vụ gắn với tiêu chí nghèo đa chiều
như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin; phát triển hạ tầng các
vùng khó khăn, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động hỗ
trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, ưu tiên người nghèo vùng
đồng bào dân tộc thiểu số thơng qua hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành và
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững nhằm cải thiện việc tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp
dụng giai đoạn 2016-2020; từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong việc
19


hưởng thụ dịch vụ công và phúc lợi xã hội, trong thu nhập và đời sống giữa thành
thị và nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ngân sách nhà nước cần cho xã hội
hóa mạnh mẽ hoạt động giảm nghèo, giúp đỡ người dân vùng thiên tai, khơi dậy
một tinh thần trách nhiệm xã hội, tinh thần vượt khó, nhân rộng các mơ hình thốt
nghèo hiệu quả.
1.4 Kết luận
1.4.1 Thành tựu
Trung Quốc:
Trong tuyên bố của mình vào tháng 2/2021, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình cho
biết, 98,99 triệu người nghèo theo tiêu chuẩn hiện hành ở nông thôn nước này đã
thoát nghèo, 832 huyện và 128.000 làng nghèo đã được xóa khỏi danh sách đói
nghèo. Trung Quốc đã hồn thành trước 10 năm mục tiêu xóa nghèo trong Chương
trình Nghị sự về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc đến năm 2030. Cùng với
đó, thu nhập khả dụng bình qn đầu người của cư dân nơng thơn các vùng nghèo ở
nước này đã tăng từ 6.079 nhân dân tệ (khoảng 900 USD) vào năm 2013 lên 12.588
nhân dân tệ (hơn 1.800 USD) vào năm 2021, mức tăng trung bình hàng năm là
11,6%. Tỷ lệ phổ cập giáo dục bắt buộc 9 năm ở các huyện nghèo đạt 94,8%, 99,9%
người nghèo được tham gia bảo hiểm y tế cơ bản.
Ấn Độ:

Ấn Độ không phải một nước thành công trong công cuộc xoa dịu khoảng cách giàu
nghèo. Tuy nhiên Ấn Độ vẫn có một vài thành cơng trong một số mặt nhất định:
- Hợp tác với UNDP để đạt được những thành tựu trong xóa đói giảm nghèo, tăng
cường khả năng tiếp cận của nhà nước, kêu gọi sự tham gia chặt chẽ hơn và phản
ứng nhanh hơn với các ưu tiên phát triển của quốc gia.
- Chính phủ, các cấp chính quyền và bản thân người dân đã ý thức được sự cần thiết
của việc coi trọng sử dụng và phát triển lao động nữ; đã có nhiều chương trình
hướng nghiệp được tổ chức nhằm mục đích phát triển cơ hội nghề nghiệp và khuyến
khích lao động nữ tham gia vào thị trường lao động.
- Cải thiện chất lượng dịch vụ hệ thống chăm sóc sức khỏe địa phương, nhất là các
vùng quê nghèo, thay mới các thiết bị y tế nhằm đảm bảo sức khỏe cộng đồng, đặc
biệt đối với bộ phận người nghèo khơng có đủ tài chính cho việc khám chữa bệnh.
1.4.2 Hạn chế
Trung Quốc:
- Thuế thu nhập cá nhân:
Hai vấn đề trong hệ thống thuế của Trung Quốc đã làm suy yếu nghiêm trọng vai trò
của thuế thu nhập cá nhân. Một là, cơ cấu hệ thống thuế của họ chưa hợp lý, nguồn
thu thuế dựa quá nhiều vào thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế kinh doanh,
trong khi thuế thu nhập cá nhân, là loại thuế trực thu, chiếm quá ít trong quốc gia;
hai là, bản thân hệ thống thuế riêng lẻ cũng có những khiếm khuyết rõ ràng.
- Thuế tiêu thụ:
20



×