Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TT Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.72 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ CẨM VÂN

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ LÝ
THUYẾT LIÊN VĂN BẢN

Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 9 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội, 2022


Cơng trình được hồn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh

Phản biện 1: PGS. TS. Trương Đăng Dung
Phản biện 2: PGS.TS. Ngô Văn Giá
Phản biện 3: PGS.TS. Lý Hoài Thu
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi .... giờ.....phút, ngày ..... tháng ..... năm 2022

Có thể tìm thấy luận án tại
Thư viện Quốc gia


Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Năm 1967, nhà nghiên cứu văn học người Pháp gốc Bulgaria:
Julia Kristeva đề xuất khái niệm tính liên văn bản (tiếng Pháp:
intertextualité; tiếng Anh: intertextuality). Ở Việt Nam, tuy đã có một số
bài dịch, bài giới thiệu, cũng có những bài viết, một số cơng trình dùng lý
thuyết liên văn bản để nghiên cứu văn chương nhưng chỉ tập trung ở một
vài tác phẩm hay một tác giả cụ thể, chưa có những cơng trình nhìn nhận
đối với một giai đoạn văn chương.
1.2. Sau năm 1986, tiểu thuyết Việt Nam đã đi trên con đường
hiện đại hóa làm thay đổi quan niệm về thể loại và về lối viết. Tư duy
tiểu thuyết có sự biến đổi sâu sắc. Những sáng tác của Bảo Ninh,
Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn
Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Thuận,… thể hiện rõ tính liên
văn bản. Trên cơ sở lý thuyết liên văn bản, luận án nối tiếp những
nghiên cứu còn rải rác theo hướng này đối với tiểu thuyết Việt Nam
đương đại từ đó phát hiện và đánh giá những giá trị sáng tạo của nhà
văn trong một cái nhìn bao quát để thấy được bước phát triển của văn
chương Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án hướng tới vận dụng lý thuyết liên văn bản như một công cụ
để tìm hiểu tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Luận án chỉ ra sự vận động của
thể loại này trong sự vận động phát triển chung của văn học Việt Nam
đương đại.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ

sau:
- Nghiên cứu những lý thuyết về liên văn bản, tìm hiểu những vấn đề
về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1


- Phân tích, lý giải các hiện tượng của tiểu thuyết đương đại Việt Nam
biểu hiện tính liên văn bản.
- Chỉ ra những thay đổi trong nghệ thuật tiểu thuyết so với trước đổi
mới từ góc nhìn liên văn bản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án trước hết là tiểu thuyết Việt
Nam đương đại về phương diện tính liên văn bản. Trong khi trình bày,
phân tích lí thuyết liên văn bản, luận án sử dụng những ví dụ từ sáng tác
của các nhà tiểu thuyết Việt Nam Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Thuận,
Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác,... và một số nhà văn khác.
Luận án tập trung vào một số thủ pháp tiêu biểu nhất như trích dẫn
và giễu nhại, viết lại, sự tương tác thể loại,…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung khảo sát và nghiên cứu những tác giả tiêu biểu theo hai
khuynh hướng chính. Đối với khuynh hướng hậu hiện đại, có các tác giả tiêu
biểu như: Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Thuận. Khuynh hướng theo lối hư
cấu lịch sử có các tác giả: Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Võ
Thị Hảo,…
Đối với thực tế văn bản nghệ thuật, luận án chủ yếu khảo sát các
bình diện diễn ngơn tư tưởng, ngơn ngữ và thể loại. Các bình diện khác
như hình tượng, cổ mẫu ít được đề cập.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích thi pháp văn bản

Tìm ra những dấu hiệu mang tính hình thức của tính Liên văn bản
(trong việc sử dụng các hình thức cụ thể như: giễu nhại, tương tác thể
loại, viết lại,...) trong việc cụ thể hóa nội dung của văn bản.
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
Hệ thống hóa các yếu tố liên văn bản có trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, xem xét mỗi văn bản như một liên văn bản trong mạng
lưới các văn bản khác.
2


- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Đặt tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong mối tương quan với tiểu
thuyết Việt Nam ở các giai đoạn trước và trong mối tương quan giữa các tác
giả, tác phẩm của cùng một tác giả.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Từ cái nhìn văn hóa để được mối quan hệ tương hỗ, biện chứng giữa
văn hóa và văn học, giữa tính liên văn bản trong cái nhìn rộng hơn của tính
liên văn hóa.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án sẽ nhận diện được đặc điểm mới của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại từ đó có những đánh giá về sự phát triển, xu hướng vận
đông của văn học Việt Nam hiện nay.
Hướng nghiên cứu của luận án sẽ tiếp tục góp phần hồn thiện về
mặt phương pháp trong việc nghiên cứu văn học từ lý thuyết liên văn
bản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: hệ thống hóa lý thuyết liên văn bản để dùng nó là cơ sở
khoa học để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tiểu thuyết Việt Nam
hiện nay.
- Về thực tiễn: Triển khai phân tích những biểu hiện của liên văn bản

trong các sáng tác của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đó có những
đánh giá khách quan những đóng góp mới của các nhà văn đương đại.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, Luận án được triển khai qua 4
chương
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Chương 3: Giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Chương 4: Viết lại lịch sử và tương tác thể loại trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại
3


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát một số điểm chủ yếu của lý thuyết liên văn bản
1.1.1. Về khái niệm tính liên văn bản
Liên văn bản là một thuộc tính của diễn ngơn văn học, làm cho
văn bản trở thành một đơn vị liên kí hiệu. Tính liên văn bản định hình ý
nghĩa của một văn bản trong mối quan hệ với những văn bản khác tạo
nên diễn ngơn về văn hóa. Do đó, ý nghĩa văn bản là vô hạn và luôn ở
dạng tiềm năng cho đến khi nó được kích hoạt bởi hoạt động đọc.
1.1.1.1. Liên văn bản và nội hàm khái niệm văn bản
Qua tác phẩm Từ, đối thoại, tiểu thuyết, Kristeva đã giới thiệu
Bakhtin đến các nước phương Tây. Trong cơng trình này, bà đã đề xuất
khái niệm liên văn bản thay thế cho tính đối thoại/ tính liên chủ thể của
Bakhtin. Kristeva viết “khám phá mà Bakhtin là người đầu tiên đưa vào
trong lý thuyết văn chương: mọi văn bản đều được xây dựng như một
bức chạm khảm những trích dẫn. Mọi văn bản đều là sự hấp thu và
chuyển hóa một văn bản khác”. [2, tr.234]; Khái niệm tính liên văn bản

từ nay thay thế cho khái niệm tính liên chủ thể.” [98]. Đối với Kristeva
thì ngữ cảnh là văn bản xung quanh nó. Từ đó, Kristeva tiến hành quy
chiếu văn bản vào một biểu đồ gồm có hai trục: trục ngang (horizotal
axis) – thể hiện mối liên hệ giữa tác giả và người đọc; và trục dọc
(vertical axis) – thể hiện cho sự kết nối một văn bản này với hệ thống văn
bản khác bao quanh nó. Kristeva đặt ra quan niệm về trò chơi tự do của
cấu trúc trong tác phẩm Kí hiệu học – Sémiotiké (1969).
1.1.1.2. Liên văn bản và tính đối thoại/đa thanh/phức điệu
Tính đối thoại/đa thanh/phức điệu của văn bản xuất phát từ Mikhain
Mikhailơvích Bakhtin qua những cơng trình chủ yếu của M. Bakhtin như
Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepski (1929), Sáng tác của Phrăngxoa Rabơle
và văn hóa dân gian thời Trung đại và phục hưng (1965), Những vấn đề văn
học và mĩ học (1975), Mĩ học sáng tác ngơn từ (1979), Những bài báo phê
bình văn học (1986),... Đây là những tiền đề cơ bản để nhiều nhà lí luận phê
4


bình sau này kế thừa và đối thoại lại các vấn đề mà Bakhtin đã từng đặt ra.
Trong số đó, có khái niệm liên văn bản được Kristéva đề xuất.
Theo Bakhtin, đơn vị trực tiếp trong giao tiếp lời không phải là
“từ” hay “câu” mà chính là các phát ngơn. Với Bakhtin, văn bản thực
hiện không phải nhiều mà là vô số cuộc đối thoại khác nhau về rất nhiều
vấn đề của cuộc sống. Bakhtin chú ý đến ngữ cảnh của lời nói. Đây được
xem là tư tưởng tiến bộ của Bakhtin.
Phát triển nguyên lý carnaval (hội giả trang) trên nền tảng văn
hóa dân gian thời trung cổ và Phục hưng Châu Âu, Bakhtin gắn thuật
ngữ này với nội hàm khái niệm rộng hơn: “như là tổng thể các lễ hội
có nguồn gốc khác nhau mà đặc điểm nổi bật của nó là niềm vui hội
hè của nhân dân.” [108].
Đa thanh là một đặc điểm nổi bật nhất của tiểu thuyết mà khơng

một thể loại văn học nào có thể thay thế. Đa thanh được hiểu là tính
nhiều tiếng nói và ý thức khơng hịa làm một, một sự đa thanh thực
thụ của các tiếng nói.
Tính đối thoại/đa thanh/phức điệu là tiền đề lý luận quan trọng tạo
cơ sở cho Kristeva kế thừa và khát quát thành tên gọi liên văn bản.
1.1.2. Liên văn bản và người đọc
Tuyên cáo về cái chết của tác giả và khai sinh ra người đọc, từ đó
đặt ra những quan niệm về sự phân biệt văn bản với tác phẩm, Roland
Barthes là người đã tiếp tục khẳng định và phát triển nội hàm của khái
niệm tính liên văn bản.
Một trong những tác phẩm thể hiện rõ quan niệm của Roland
Barthes về tính liên văn bản là bài viết Cái chết của tác giả. Khai tử tác
giả, Roland Barthes khai sinh ra người đọc.
R.Barthes quan niệm “Mỗi văn bản là một liên văn bản; những văn
bản có mặt trong nó ở các cấp độ khác nhau dưới những hình thái ít
nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn hóa trước đó và những văn
bản của văn hóa thực tại chung quanh. Mỗi văn bản đều như một tấm vải
mới được dệt bằng những trích dẫn cũ.”, “Văn hóa nhân loại cũng được
5


coi như một thứ liên văn bản mà đến lượt mình, nó đóng vai trị tiền văn
bản cho bất cứ văn bản nào xuất hiện tiếp theo.” [2, tr.240].
1.1.3. Thi pháp Liên văn bản
Cơng trình Palimpsests: văn chương ở độ hai (Genette) phát triển
khái niệm tính liên văn bản thành xuyên văn bản (transtextuality).
Genette đề xuất năm loại tương tác: 1/ Liên văn bản (intertextualité) bao
gồm trích dẫn, đạo văn, ám chỉ; 2/ Cận văn bản (paratextualité) như là
mối quan hệ giữa văn bản với phụ đề, lời nói đầu, lời bạt, đề từ,...; 3/
Siêu văn bản (métatextualité) như sự chú giải hoặc viện dẫn văn bản

trước đó một cách có phê phán; 4/ Thậm phồn văn bản (hypertextualité)
như sự cười cợt hay giễu nhại của văn bản này đối với văn bản khác; 5/
Kiến tạo văn bản (architextualité) được hiểu như mối quan hệ thể loại
giữa các văn bản.
1.2. Vấn đề nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản
1.2.1. Tình hình dịch thuật lý thuyết liên văn bản
Bài nghiên cứu của tác giả người Nga do Ngân Xuyên dịch – L.P.
Rjanskaya, liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lí
thuyết của vấn đề (Nghiên cứu văn học, số 11/2007). Tiền đề lí thuyết
này có vai trò quan trọng trong việc vận dụng nội hàm khái niệm để tiến
hành nghiên cứu và giải mã văn bản.
Trong cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái
nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ 20 (chủ biên I.P. Ilin và
E.A. Tzurganova) khái niệm liên văn bản đã được lý giải khá tường tận.
Dù cịn đó những vấn đề chưa được xác quyết rõ ràng nhưng vị trí của
tính liên văn bản là không thể phủ nhận.
Bửu Nam – Phạm Thị Anh Nga dịch Lí thuyết về tính liên văn bản
của tác giả người Pháp: Pierre – Marc de Biasi. Bản dịch của Nguyễn
Văn Thuấn về bài báo của Andrea Lesis – Thomas: Đằng sau Bakhtin:
chủ nghĩa hình thức Nga và thuyết liên văn bản của Kristeva.

6


Năm 2011, Lã Nguyên dịch bài viết Một nền thi pháp học sụp đổ
của Julia Kristéva. Nội dung bài dịch đã khái quát nguồn gốc và sự vận
động trong tư tưởng, các ngun tắc trong lí luận phê bình của Bakhtin.
Năm 2013, Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu công trình Thi pháp
chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu Petrescu (Rumani). Tuy khơng phải là
cơng trình dành riêng cho liên văn bản nhưng trong sự kiến giải các vấn

đề của chủ nghĩa hậu hiện đại, tác giả có đề cập đến vấn đề liên văn bản
trong diễn ngơn văn học.
Ngồi các sách lý thuyết liên văn bản, một số những cơng trình của
các nhà khai sáng thuyết liên văn bản cũng đã được dịch ở Việt Nam dù
chúng không chuyên bàn về liên văn bản. Trước hết đó là cơng trình
Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của Saussure rồi các cơng trình cơ
bản của Bakhtin (Những vấn đề thi pháp Đốt-xtơi-épxki, Lí luận và thi
pháp tiểu thuyết, Sáng tác F.Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ
và Phục hưng), các cơng trình của R. Barthes (Cái chết của tác giả, Từ
tác phẩm đến văn bản, Vương quốc ký hiệu), của J. Derrida (Về văn
phạm học, Chữ ký – sự kiện – bối cảnh), của Eco (Đi tìm sự thật biết
cười),… Tuy nhiên, ở Việt Nam, những cơng trình này chỉ được tiếp
nhận như là những cơng trình thuần túy ngơn ngữ học, thi pháp học, lí
thuyết thể loại, ký hiệu học, triết học,… mà chưa được nhận diện như là
những cơng trình đặt nền móng và phát triển lí thuyết liên văn bản.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam, việc tìm hiểu lí thuyết này được thực hiện
xen kẽ trong q trình nghiên cứu lí thuyết chung của lí luận văn học,
trong mối tương quan với lí thuyết hậu hiện đại.
Thuật ngữ liên văn bản được giới thiệu sớm nhất tại Việt Nam
trong một số cơng trình của Giáo sư viện sĩ Hồng Trinh. Cơng trình Từ
kí hiệu học đến thi pháp học (1993). Hoàng Trinh phân biệt sự khác
nhau giữa thuật ngữ liên văn bản với thuật ngữ tính đối thoại của
Bakhtin. Trong cơng trình của Hồng Trinh, thuật ngữ liên văn bản chỉ
được nhắc đến một cách khái quát, chưa có hệ thống.
7


Cơng trình thứ hai có nhắc đến thuật ngữ liên văn bản là bài giới
thiệu Bakhtin của Trần Đình Sử (Những vấn đề thi pháp Đốt-xtôi-épxki 1993). Năm 1995, trong cơng trình Lí luận phê bình văn học, Trần Đình

Sử tuy khơng nhắc đến lí thuyết liên văn bản, nhưng tác giả đã phân
tích một cách thấu đáo tư tưởng đối thoại của Bakhtin và chỉ ra những
sai lầm của nghiên cứu lí luận phê bình những năm đầu thế kỉ XX khi
độc tơn vai trị của tác giả. Năm 2008, trong giáo trình Lí luận văn
học (Tập 2) Tác phẩm và thể loại văn học, ơng có cập nhật ngắn gọn
lí thuyết liên văn bản khi diễn giải quan niệm của Kristeva và
R.Barthes về văn bản và tác phẩm văn học.
Đỗ Đức Hiểu, trong cuốn Thi pháp hiện đại cho thấy các quan
niệm về tính đa thanh, tính đối thoại của Bakhtin cũng là những quan
niệm khác nhau của tính liên văn bản. Đỗ Đức Hiểu đã tiếp cận liên văn
bản đối với văn học Việt Nam qua các bài viết: Những lớp sóng ngơn từ
trong Số đỏ, Phiên chợ Giát, Đọc Phạm Thị Hồi, Thân phận tình u
của Bảo Ninh,… Đỗ Đức Hiểu là người viết mục Tính liên văn bản trong
Từ điển văn học (Bộ mới).
Trên tienve.org, Nguyễn Minh Quân có bài Liên văn bản – sự triển
hạn vô cùng của tác phẩm văn học (2001). Nguyễn Hưng Quốc có các
bài viết Văn bản và Liên văn bản (2005), Mấy vấn đề phê bình và lí
thuyết văn học (2007). Nguyễn Nam (Viện Harvard-Yenching) quan tâm
đến việc nghiên cứu liên văn bản ở Mỹ và Trung Quốc. Những bài viết
tiêu biểu của Nguyễn Nam: Cái bóng và những khoảng trống trong văn
chương (Đọc Chuyện người con gái Nam Xương) (Nghiên cứu văn học,
số 4/2004), Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo, Liên văn bản trong văn chương
và điện ảnh (Nghiên cứu văn học, số 12/2006), Người đọc am tường, liên
tưởng mở rộng, điểm qua mấy hướng tiếp cận Liên văn bản ở nước ngồi
(Tạp chí Đại học Sài Gịn, số chuyên đề 2011), Sự thực tuyệt đối trong tự
sự: Tiếp nhận và cải biên Rashõmon ở Việt Nam (Nghiên cứu văn học số
8/2012).
8



Trương Đăng Dung, trong cơng trình Tác phẩm văn học như là
quá trình, các bài viết: Khoa học văn học hiện đại – hậu hiện đại, Tri
thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại đã đề cập đến một vài khía
cạnh và nguồn gốc của lí thuyết liên văn bản. Những phân tích của
Trương Đăng Dung hướng đến việc nghiên cứu vấn đề tính liên văn bản
như một sự đọc.
Trịnh Bá Đĩnh là một trong những nhà lí luận có nhiều nghiên cứu
về lý thuyết tính liên văn bản. Các bài nghiên cứu Nguyên lí đối thoại
của Bakhtin trong hệ hình lí luận đương đại, Về các kiểu quan hệ Liên
văn bản (Hay là “nghiên cứu văn học ở cấp độ 2”) vạch ra hướng thực
hành tiếp cận lý thuyết liên văn bản vào trong nghiên cứu văn chương.
Trong một cơng trình nghiên cứu dài hơi khác “Liên văn bản: Lí luận và
thực tiễn văn học Việt Nam”, có thể xem là cơng trình có tính hệ thống
về lý thuyết Liên văn bản.
Năm 2019, Nguyễn Văn Thuấn xuất bản Giáo trình Liên văn bản.
Cơng trình thể hiện sự dày công nghiên cứu của tác giả khi đặt ra các vấn
đề về lý thuyết cũng như thực tiễn nghiên cứu tính Liên văn bản trên thế
giới và sự vận dụng ở Việt Nam. Sự xuất hiện của cuốn giáo trình này đã
góp phần cho việc nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản và ứng dụng lý
thuyết này vào thực tiễn lý luận phê bình văn học ở Việt Nam.
1.3. Tình hình vận dụng lý thuyết Liên văn bản trong nghiên
cứu tiểu thuyết
Trong cuốn Văn học hậu hiện đại diễn giải và tiếp nhận (Kỷ yếu
hội thảo khoa học quốc gia năm 2011) có các bài nghiên cứu: “Yếu tố
liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu của Võ Thị Hảo”
(Nguyễn Văn Hùng), “Liên văn bản trong tiểu thuyết chân dung cát của
Inrasara” (Nguyễn Thị Quỳnh Hương), “Liên văn bản trong nhan đề và
đề từ tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ và khi tôi hấp hối của William
Faulkner” (Hoàng Thị Quỳnh Trang), “Liên văn bản: từ Mikhai Bakhtin
đến Julia Kristéva” (Nguyễn Văn Thuấn).

Năm 2013, Nguyễn Văn
Thuấn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Liên văn bản trong sáng tác
9


Nguyễn Huy Thiệp”. Tiếp tục tinh thần đó, năm 2018, trong bài viết: Tên
của đóa hồng – thực hành hồn hảo của Umberto Eco về tính liên văn
bản, Nguyễn Văn Thuấn đã tiếp tục dùng lí thuyết liên văn bản để nghiên
cứu tiểu thuyết Tên của đóa hồng của Umberto Eco. tiến trình phát triển
của lí luận văn học hậu hiện đại.
Luận văn: Tiểu thuyết Hồ Anh Thái từ góc nhìn liên văn bản
(2013) của tác giả Nguyễn Văn Thành. Cũng với tác giả Hồ Anh Thái,
Nguyễn Thị Huế trong bài viết Truyện ngắn Hồ Anh Thái từ góc nhìn
liên văn bản đã có những kết luận về tính liên văn bản trong sáng tác của
Hồ Anh Thái.
Luận án của tác giả Lê Thị Diễm Hằng với đề tài Yếu tố hậu hiện
đại trong tiểu thuyết Haruki Murakami (2014), đã có một chương trong
luận án dành nghiên cứu vấn đề “Cấu trúc liên văn bản trong tiểu thuyết
Haruki Murakami”. Luận án Đặc trưng bút pháp hậu hiện đại trong tiểu
thuyết Paul Auster (2014) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hiếu đã khẳng
định “liên văn bản như một sự viết lại đặc thù”.
Thái Phan Vàng Anh trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI – Lạ hóa một cuộc chơi (2017) đã tìm hiểu về liên văn bản và tính
đối thoại của tiểu thuyết.
TIỂU KẾT
1. Đã có một số cơng trình khoa học, một số bài báo khoa học,
luận án, luận văn,.. nghiên cứu và vận dụng lý thuyết này vào phê bình
văn học.
2. Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào phân tích văn học Việt
Nam vẫn chỉ dừng lại ở những bài viết riêng lẻ. Do đó hiệu quả còn rất

khiêm tốn nhất là đối với tiểu thuyết.
3. Việc ứng dụng những tiền đề lý thuyết liên văn bản vào nghiên
cứu văn bản văn học là thao tác quan trọng trong phê bình, góp phần đưa
văn chương đi vào đời sống.

10


Chương 2
SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong ngữ cảnh văn hóa mới
Sau 1986, đất nước tiến hành đổi mới và tiến hành cách tân do quá
trình hội nhập, giao lưu tiếp xúc với nền văn hóa của nhiều nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước phương Tây.
Tác động của xu thế tồn cầu hóa và nền kinh tế thị trường đã
tạo ra ngữ cảnh văn hóa mới, góp phần cởi trói cho những nguyên tắc
phản ánh của nghệ thuật, tạo bước ngoặc cho tiểu thuyết nói riêng
Việt Nam đương đại.
2.2. Từ cái nhìn mới về hiện thực và con người đến hiện thực
nghệ thuật mới
2.2.1. Vấn đề kiến tạo hiện thực
Hiện thực được kiến tạo lại trên tinh thần dân chủ, khá tự do.
Sự đổi mới quan niệm về hiện thực đã tác động lớn đến nội dung
của tiểu thuyết, làm cho nó trở nên mới mẻ và đa dạng.
2.2.2. Vấn đề cá thể hóa nhân vật
Sau 1986, con người được cá thể hóa với tư cách là những cá thể
độc lập với cái tôi đa ngã. Con người được cá thể hóa mang đặc điểm của
một thực thể đa trị giữa cuộc sống đời thường.
Con người trong tiểu thuyết được cụ thể hóa và đặt trong các mối
quan hệ, không phải chỉ với cộng đồng xã hội, với gia đình, với thế giới

quan của vũ trụ mà cả trong mối quan hệ nhân sinh với chính mình. Nhà
văn đặt các nhân vật trong mối quan hệ tương tác với cộng đồng, trong
sự tranh đấu của trạng thái sinh tồn và sự ám ảnh của cuộc đời trong tầng
sâu của vơ thức.
Con người lịch sử - văn hóa là tuyến nhân vật có thật trong sử sách
được các nhà văn tiến hành hư cấu, có những đời sống tâm lý, nội tâm
phức tạp.

11


2.2.3. Đổi mới bút pháp nghệ thuật
Tiểu thuyết đương đại đã đi ra khỏi khn khổ đó bằng kĩ thuật
dịng ý thức... giúp nhà văn đi sâu vào đời sống phức tạp của con người.
Bút pháp tả thực là một trong những bút pháp quan trọng của
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nhại (parody) hay giễu nhại là bút
pháp được sử dụng phổ biến trong tiểu thuyết. Bút pháp tượng trưng
tạo nên tính đa nghĩa của văn chương. Đổi mới về bút pháp thể loại đã
tạo ra cho tiểu thuyết thành thể loại mang tính trị chơi, giàu tính đa
thanh và phức điệu.
2.3. Hai khuynh hướng nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
2.3.1. Tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu hiện đại
Ở Việt Nam, hậu hiện đại là một trào lưu văn hóa vẫn cịn đang
phát triển và chưa có một định hình rõ rệt. Biểu hiện của khuynh
hướng hậu hiện đại trước hết thể hiện ở dung lượng của tác phẩm.
“Tiểu thuyết ngắn” là tên gọi mới trong những năm gần đây. Sự thay
đổi về mặt dung lượng kéo theo sự thay đổi về kết cấu tác phẩm, kết
cấu hướng tới những “mảnh vỡ” của cuộc sống hiện tại, chối bỏ kiểu
kết cấu mang tính “đại tự sự”.
Sự phá vỡ khuôn khổ tiểu thuyết truyền thống đã tạo ra nhiều biến

thể cấu trúc mới, trong đó có sự dung hợp, lồng ghép nhiều thể loại như:
truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, tiểu luận, kịch, nhật ký, cổ tích, báo chí,
phóng sự…làm cho cấu trúc của thể loại mang tính năng động.
Sự thay đổi bút pháp tự sự hướng đến sự đổi mới cách viết theo
tinh thần hậu hiện đại (tiểu thuyết ngắn, tiểu thuyết huyền thoại, tiểu
thuyết trong tiểu thuyết,…) đã làm cho tiểu thuyết trở nên đa màu sắc,
khơng cịn “một màu” như tiểu thuyết truyền thống.
2.3.2. Tiểu thuyết theo lối hư cấu lịch sử
Quá trình viết lại lịch sử tính đến sự chính xác của số liệu, sự kiện
(hình thức trích dẫn liên văn bản), tránh sự suy diễn chủ quan, làm méo
mó, sai lệch lịch sử. Điều này khơng có nghĩa làm mất đi khả năng sáng
tạo, hư cấu của nhà văn. Nhà văn là cái cầu nối giữa hai miền không gian
12


quá khứ và hiện tại, chuyển tải cái quan niệm, suy nghĩ, tính cách của
người hơm qua đến với bạn đọc hôm nay. Tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam
dù đi theo khuynh hướng nào cũng mang trong mình hai lần đối thoại:
đối thoại với chính lịch sử và đối thoại với cuộc sống đương đại. Yếu tố
của liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử được thể hiện qua hai thao tác
chính: viết lại và tương tác thể loại.
2.4. Một hệ hình tiểu thuyết mới và yêu cầu cách tiếp cận
nghiên cứu mới
2.4.1. Những hiện tượng của hệ hình tiểu thuyết mới
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã tiếp thu những yếu tố của hậu
hiện đại. Giai đoạn đầu sau đổi mới, dấu ấn hậu hiện đại xuất hiện trong
văn xi Phạm Thị Hồi, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh,... Hiện nay các
yếu tố của chủ nghĩa hậu hiện đại đã được các nhà văn lựa chọn tiếp biến
ở nhiều cách thức và mức độ khác nhau trong các tác phẩm tiêu biểu như
Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Thuận,...

Các nhà tiểu thuyết đương đại Việt Nam hiện nay đã thực hiện
nhiều kĩ thuật hậu hiện đại để xử lý chất liệu cuộc sống như: lạ hóa, phi
trung tâm, trị chơi liên văn bản (trích dẫn, ám chỉ, giễu nhại, viết lại,...).
Tính liên văn bản trong thời đại mới giờ đây trở thành ngun tắc
trung tâm của việc mơ hình hóa thế giới
2.4.2. Về cách đọc mới trước một hệ hình tiểu thuyết mới
Quá trình liên văn bản tạo ra những văn bản đa tầng bậc và văn
bản giờ đây trở thành siêu văn bản.
Nhà văn là người đọc văn bản trước khi là người tạo ra các văn
bản, và do đó, tác phẩm nghệ thuật phần nào chịu ảnh hưởng bởi sự hấp
thu và chuyển hóa các loại văn bản mà anh ta đã đọc. Tại thời điểm đọc,
mỗi người đọc ln có sẵn một kho dữ liệu văn bản đã có từ trước và
mang đến tâm thế cho sự tiếp nhận. Người đọc khơng bao giờ có thể thực
sự hiểu đầy đủ ý nghĩa văn học của một văn bản, vì tác phẩm văn học có
tính chất liên văn bản liên tục dẫn dắt khán giả tìm quan hệ văn bản khác.
13


Thế giới trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đa phần là thế giới
mở. Chính vì điều này đặt ra yêu cầu đối với người tiếp nhận.
Tiểu kết
1. Vấn đề đổi mới quan niệm về hiện thực và con người là vấn đề
cốt lõi nhất của tiểu thuyết Việt Nam đương đạI. Bút pháp tả thực,bút
pháp huyền thoại hóa, bút pháp giễu nhại,… là những bút pháp tiêu biểu
nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện nay.
2. Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại có những
tiền đề kết nối liên văn bản rộng lớn. Thực tế đó đã địi hỏi những cách
tiếp cận mới, một trong số đó là tiếp cận từ lý thuyết tính liên văn bản.

14



Chương 3
GIỄU NHẠI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
3.1. Giễu nhại – một hiện tượng phổ biến trong văn học Việt Nam
đương đại
3.1.1. Giễu nhại như là hiện tượng liên văn bản
Giễu nhại chính là sự “chế nhại” những gì đã trở thành lối mịn,
thành khn sáo đến mức máy móc, tự động nên đã q quen thuộc nên
khơng cịn tính mới mẻ cho văn học. Giễu nhại là một trong những hình
thức liên văn bản quan trọng của tiểu thuyết VN đương đại.
3.1.2. Vấn đề nghiên cứu hiện tượng giễu nhại trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại
Ở Việt Nam, giễu nhại khơng phải là thuật ngữ hồn tồn mới.
Hành vi giễu nhại trước hết đã được sử dụng trong các hình thức nghệ
thuật dân gian. Đối với văn học Việt Nam hiện đại, giễu nhại là công của
loại tiểu thuyết hoạt kê, trào phúng.
Từ sau năm 1986, giễu nhại là đối tượng cần được nghiên cứu và
đánh giá cẩn trọng.
Luận án tập trung nghiên cứu những chủ đề, phương thức và hiệu
quả của giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại mang dấu ấn hậu
hiện đại. Vấn đề nghiên cứu được phân tích, nhận định và đánh giá dưới
góc nhìn của lý thuyết liên văn bản.
3.2. Các phương thức giễu nhại tiêu biểu trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại
3.2.1. Trích dẫn nhại
3.2.1.1. Định nghĩa trích dẫn
Trích dẫn nhại được hiểu là “việc lặp lại nguyên xi lời người khác,
phần văn bản của tác giả khác nhưng trong một ngữ cảnh khơng tương
thích, gắn với cách dùng máy móc hóa, “vẹt hóa” hoặc với sắc thái tu từ

mới (qua âm sắc, tone giọng, điệu bộ) nhằm mỉa mai, cười cợt, châm
15


biếm, chế giễu cái được trích dẫn.” [125, tr.32]. Chỉ những trích dẫn
“nhại” mới thuộc phạm vi của giễu nhại.
3.2.1.2. Các hình thức trích dẫn tiêu biểu
- Trích dẫn nhại văn bản văn chương
Ca dao, thành ngữ, tục ngữ, truyện ngụ ngôn,... là đối tượng cần
được chú ý trong thao tác trích dẫn nhại của tiểu thuyết Việt Nam đương
đại. Nhiều nhà văn chế biến nguồn nguyên liệu này thành những ý nghĩa
mới, bằng cách đặt vào một hoàn cảnh mới.
Văn học viết là đối tượng quan trọng của thao tác trích dẫn. Khi
trích dẫn, có những nhà văn nói rõ nguồn gốc của văn bản, có những nhà
văn khơng đề cập đến nguồn gốc và cũng khơng đặt nó trong dấu ngoặc
kép nhằm xóa nhịa danh giới của liên văn bản. Phần trích dẫn được lồng
ghép vào trong các câu kể. Đa số các trường hợp trích dẫn này xuất hiện
khi có sự tương quan nào đó về hình ảnh, về nội dung nhằm mục đích
mỉa mai, châm biếm vào nhiều vấn đề khác nhau trong xã hội đương đại.
Nhà văn khi trích dẫn vẫn giữ nguyên nét nghĩa ban đầu của phần
trích, giễu nhại được dựa trên cơ sở sự tương đồng (hoặc không tương
đồng) mà nhà văn đặt vào ngữ cảnh mới, và quan trọng nhất là những từ
ngữ xung quanh phần trích dẫn.
- Trích dẫn nhại văn bản âm nhạc
Văn bản âm nhạc gồm giai điệu và lời bài hát, gọi là ngữ âm nhạc.
Đối với việc trích dẫn ca từ của bài hát thì tiêu chí quan trọng nhất vẫn là
sự phù hợp của nó trong bối cảnh kể chuyện của nhà văn mà cụ thể là
phù hợp với hành vi giễu nhại.
Việc trích dẫn trực tiếp hay gián tiếp cũng khơng nằm ngồi vào
mục đích giễu nhại. Khi lồng ngơn ngữ âm nhạc, ngồi việc giễu nhại

như phân tích ở trên, thì thủ pháp này mặc khác làm cho lời kể thêm sinh
động, mang âm hưởng du dương, gây ấn tượng về dấu ấn phong cách
riêng của nhà văn và tác động đến cảm xúc của người đọc.
- Trích dẫn nhại văn bản chính trị, đạo đức, tôn giáo, triết học
16


Việc trích dẫn hỗ trợ cho nhà văn thực hiện thao tác phản ánh hiện
thực ở nhiều góc độ thuộc các lĩnh vực khác nhau trong cái nhìn đa chiều
kích. Đây là một trong những công cụ để văn bản có thể kết nối, mở rộng
và là bệ đỡ vững chắc để nhà văn giễu nhại vào những vấn đề mang tính
“nhạy cảm” của xã hội.
3.2.2. Viện dẫn nhại
3.2.2.1. Phân biệt viện dẫn và trích dẫn
Viện dẫn nhại là thao tác thể hiện rõ tính biến đổi để tạo nên kết
nối liên văn bản. Cũng giống như trích dẫn nhại, viện dẫn nhại có thể sử
dụng nhiều nguồn chất liệu khác nhau. Tiêu biểu nhất vẫn là văn chương,
lịch sử, chính trị, triết học,...
3.2.2.2. Các hình thức viện dẫn nhại tiêu biểu
Trước hết là từ chất liệu dân gian: tiểu thuyết đương đại khai thác
tối đa giá trị của văn học dân gian, cải biến nó, đặt vào trong ngữ cảnh
mới, nhằm đả phá và đánh thẳng vào nhiều khía cạnh khác nhau của xã
hội đương thời. Viện dẫn trên cơ sở cải biến thể hiện trí thơng minh, mở
ra cho người đọc nhiều trường liên tưởng khác nhau.
Thơ là một trong những nguyên liệu không thể thiếu để nhà văn
thực hiện hành vi nhại mà cụ thể là hoạt động chế tác. Văn bản, cái đã
xuất hiện trước đó, khơng phải là vĩnh hằng, văn bản sau có thể sử dụng
lại trong sự biến đổi và cấp phát cho nó những nội dung mới cho phù hợp
với bối cảnh của hiện thực xã hội đương thời.
Đối tượng viện dẫn nhại chiếm vị trí quan trọng tiếp theo chính là

việc biến tấu ca từ của các bài hát thuộc bất cứ thể loại âm nhạc nào phục
vụ cho việc giễu nhại. Các tác giả có thể biến đổi một vài từ có khi là cả
ý tứ, đưa vào trong văn cảnh, khơng đặt trong dấu ngoặc kép.
Nhà văn cịn tiến hành viện dẫn nhại từ nguyên liệu quan điểm, tư
tưởng của các triết gia nổi tiếng.
Điểm chung về phương diện nghệ thuật mà các nhà văn gặp nhau
khi tiến hành trích dẫn hay viện dẫn đó chính là lối chơi chữ. Tiếng cười
nhại trào lộng nhờ lối chơi chữ mà bộc ra một cách tự nhiên và sâu sắc.
17


3.2.3. Chỉ dẫn nhại
3.2.3.1. Định nghĩa chỉ dẫn nhại
Chỉ dẫn tình huống, hình tượng là thao tác tái sử dụng tình
huống/hình tượng trong một ngữ cảnh mới bằng các thay đổi thời gian,
khơng gian, địa điểm. Mục đích cuối cùng của thao tác này chính là chế
giễu, cười cợt, châm biếm, phê bình,...
3.2.3.2. Các biểu hiện của chỉ dẫn nhại
Thao tác tái sử dụng tình huống/hình tượng trong văn bản là một
thao tác thường xuyên gặp trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đây là
những mã tín hiệu chứa thơng tin rất cao, nó ra ngồi phạm vi của văn bản.
Sáng tác của các nhà văn đã chỉ dẫn, kết nối với các hình tượng
quen thuộc của lịch sử đời sống gắn với những giai thoại, kèm lời bình
luận trực tiếp. Khơng chỉ các tình huống trong đời sống, tình huống
truyện thuộc các tác phẩm văn chương cũng là một trong những đối
tượng quan trọng trong thao tác chỉ dẫn. Việc chỉ dẫn tình huống, hình
tượng trong văn chương cịn thơng qua việc tóm tắt những câu chuyện
ngụ ngơn. Chỉ dẫn trong sự so sánh là một thao tác quen thuộc của nhà
văn khi giễu nhại. Không chỉ văn chương Việt Nam, việc chỉ dẫn tình
huống, hình tượng thuộc văn học nước ngoài là kĩ thuật được thực hiện

thường xuyên, góp phần tạo nên phong cách riêng của tác giả.
Khi hạ văn bản được đặt trong ngữ cảnh mới, thì những vấn đề
được đề cập ngoài chức năng mở rộng kiến thức cho người đọc, thì ngữ
liệu đó khơng nhằm giải thiêng chính nó mà là để giải thiêng các vấn đề
liên quan đến cuộc sống hiện tại.
3.3. Giễu nhại và sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
3.3.1. Tiểu thuyết mang tính đối thoại
3.3.1.1. Đối thoại các vấn đề trong đời sống, xã hội
Trước hết, việc đối thoại thể hiện ở việc nhìn thẳng vào sự tha hóa,
biến chất trong lối sống của con người hiện nay. Mọi khía cạnh (gia đình,
xã hội, chính trị, lịch sử,…) đều được phản ánh với ngơn ngữ mang đậm
tính giễu nhại.
18



×