Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Đề tài " Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.55 KB, 78 trang )

ĐỀ TÀI
Nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình của đội ngũ
cán bộ thuộc diện Ban Thường
vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà
Nội) quản lý trong giai đoạn
hiện nay
3
MỤC LỤC

Trang
Mở đầu ……… ………… …………………………………… 4
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………….………………… 4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 6
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …… ……………………… 7
5. Kết cấu của luận văn …………………………… ………… 8
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tự phê bình và phê bình……… 9
1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý 9
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tự phê bình và phê bình 11
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
tự phê bình và phê bình
12
1.4. Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong giai đoạn hiện nay 21
Chương 2: Thực trạng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý
24
2.1. Khái quát về kinh tế - xã hội - văn hoá huyện Quốc Oai………… 24
2.2. Tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ quản lý
25


2.3. Đánh giá chung……………………………………………………. 40
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự
phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường
vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý
50
3.1. Phương hướng, mục tiêu chung……………………………………. 50
3.2. Một số giải pháp cơ bản ……………………………………… 51
Kết luận…………………………………………………………… 73
Tài liệu tham khảo…………………………………………………… 76
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam, là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hoạt động. Trong suốt 82 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân dân ta.
Mục tiêu của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới
đất nước, sau 26 năm đã đưa Việt Nam thu được các thành tựu rất quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Trong tình hình thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước ta
có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có
vai trò, trình độ ngang tầm lãnh đạo đất nước trong xu thế phát triển của thế
giới và khu vực, phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh. Một trong những giải pháp quan trọng là thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.
Qua quá trình hoạt động, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: tự
phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là thuộc tính bản chất của một

chính đảng cách mạng, là công cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng
viên và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và
phê bình luôn là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của
Đảng. Tự phê bình, phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thấy
được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách khắc phục
khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức đảng và cán bộ đảng viên. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng viết: "Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững
5
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng,
tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự
phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hoạt động chia rẽ, bè phái…”
1
. Đại
hội XI cũng thẳng thắn đánh giá: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ,
sinh hoạt đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê
bình yếu”
2
.
Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các
cấp của Đảng có vai trò quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình trong
các cấp bộ Đảng. Trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục đưa tự phê bình, phê
bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến các cơ sở thành nền
nếp thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa chiếu lệ hình thức.
Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà
Nội) quản lý có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức

thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện. Việc thực hiện nghiêm túc, có
chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng trong đội ngũ cán bộ
đảng viên của Đảng bộ huyện nói chung, trong đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
thường vụ Huyện uỷ quản lý nói riêng là biện pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết
định việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực
công tác cho đội ngũ cán bộ.
Bên cạnh những ưu điểm, còn tồn tại một số mặt hạn chế như: chất
lượng kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa cao, nhất là kiểm điểm phần tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống chưa sâu, chưa tự giác bộc lộ những tồn tại,
yếu kém khuyết điểm Hầu như không có trường hợp nào qua tự phê bình và
1
Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr 89, 90.
2
Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Sđd, tr 174.
6
phê bình chỉ ra được những tập thể và cá nhân sai phạm đến mức phải xem
xét xử lý kỷ luật.
Nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm trên đây được Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ ra khá rõ, trên nhiều mặt, nhưng đáng chú ý
nhận định sau:
Tính tự giác, gương mẫu, dũng cảm thành khẩn của một số ít đồng chí
cán bộ chủ chốt chưa cao; tinh thần đấu tranh, xây dựng của đội ngũ cán bộ
đồng cấp, của đảng viên thiếu mạnh dạn, thẳng thắn, còn né tránh Công tác
quản lý cán bộ lâu nay thiếu chặt chẽ, cấp ủy nắm cán bộ chưa chắc nên chưa
có gợi ý, yêu cầu kiểm điểm cụ thể và sâu sắc, tinh thần trách nhiệm, tính tiền
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên lợi dụng chức quyền và sơ hở trong cơ chế, chính sách để tham ô,
nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Tính chiến đấu, vai trò lãnh đạo ở
một số tổ chức đảng yếu, thậm chí có nơi bị tê liệt. Đấu tranh tự phê bình và

phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của nhiều tổ chức
đảng, nhiều cán bộ, đảng viên còn yếu nên ít phát hiện được tham nhũng,
tiêu cực ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình, cá biệt có nơi còn vi phạm
nguyên tắc của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến nội
bộ mất đoàn kết.
Nhận thức được yêu cầu bức thiết trên, qua thời gian được đào tạo
chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính tại Học viện Chính trị -
Hành chính khu vực I, được tiếp thu những kiến thức lý luận cùng với những
kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình công tác tại địa phương, với mong
muốn kết hợp lý luận và thực tiễn, tôi chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng tự
phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
7
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn về
chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý hiện nay, đề xuất phương
hướng, quan điểm và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình của đội ngũ cán bộ này.
2.2. Nhiệm vụ
- Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, nêu ra các quan niệm và tiêu chí đánh giá
chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình của đội
ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý từ năm 2006 đến
nay, xác định rõ nguyên nhân của những thực trạng trên. Qua đó nêu lên
những kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tự phê bình

và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ quản lý.
- Đề xuất những phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ quản lý trong giai đoạn hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các luật, văn bản pháp quy của có
liên quan đến chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp: điều tra, khảo sát thực
tế, phân tích, tổng hợp, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là chất lượng tự phê bình và phê bình của đội
ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý.
8
- Thời gian từ năm 2006 đến nay
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tự phê bình và phê bình.
Chương 2: Thực trạng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy
Quốc Oai quản lý.
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy

quản lý
1.1.1. Khái niệm cán bộ
“Cán bộ” là một từ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu thế
kỷ XX. Ban đầu, từ “cán bộ” được dùng trong quân đội để phân biệt giữa
chiến sĩ và người chỉ huy (từ cấp tiểu đội trở lên). Về sau từ “cán bộ” được
dùng để chỉ tất cả những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để
phân biệt với nhân dân. Trong một thời gian dài, ở Việt Nam hầu như từ “cán
bộ” được dùng thay thế cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện
nay cán bộ được coi là tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng,
chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính
được coi là những người có mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với
những nhân viên có mức lương dưới cán sự.
Theo sách “Từ điển tiếng Việt”, Cán bộ có 2 nghĩa:
“1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà
nước.
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường, không có chức vụ”
3
.
Nội hàm của định nghĩa này với nghĩa thứ nhất: Cán bộ không chỉ bao
gồm những người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà
nước mà trong cả hệ thống chính trị có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên
mới gọi là cán bộ và được hình thành thông qua đào tạo tại trường. Số cán bộ
có trình độ thấp hơn (trung cấp, sơ cấp) gọi là nhân viên. Với nghĩa thứ 2:
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức kể cả cán bộ
trong hệ thống chính trị thông qua con đường bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm
3
Hoàng Phê (chủ biên): “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, tr 125 - 126.
10
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ

rõ: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng”
4
.
Điều 4, khoản 1 của Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước”.
1.1.2. Quan niệm về cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý.
Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Huyện uỷ
Quốc Oai lãnh đạo mọi mặt hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính
trị theo nguyên tắc: lãnh đạo tập thể, phân công cá nhân phụ trách. Nghĩa là,
toàn bộ các hoạt động ở huyện đặt dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, nhưng
lãnh đạo bằng việc định ra chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác của
hệ thống chính trị; bằng công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kiểm
tra của Đảng. Trên cơ sở đó, Huyện uỷ ra quyết định lãnh đạo, phân công cho
cá nhân các đồng chí huyện uỷ viên tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo của
Huyện uỷ.
Trên cơ sở nguyên tắc lãnh đạo này, hầu hết các đồng chí Huyện uỷ
viên đều được phân công hoặc giới thiệu ứng cử vào các chức vụ chủ chốt,
trọng yếu trong các cơ quan nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã
hội ở huyện theo luật định. Những cán bộ này, trên cương vị huyện uỷ viên,
họ là thành viên ban lãnh đạo của đảng bộ, thực hiện sự lãnh đạo chính trị ở
huyện. Nhưng trên cương vị người quản lý hay phụ trách một cơ quan, đoàn
4

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 269.
11
thể quần chúng, họ phải hoạt động tuân theo pháp luật, điều lệ của tổ chức
quy định rõ chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi nói tới cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý là nói trước hết tới các đồng chí
cán bộ lãnh đạo chủ chốt hoạt động trong hệ thống chính trị ở huyện. Những
cán bộ này thường là người đứng đầu, hoặc giữ vị trí chủ chốt trong các tổ
chức, các cơ quan, có vai trò là người định hướng, chi phối và quyết định sự
phát triển của tổ chức, cũng như khả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
của tổ chức đó.
Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý bao
gồm chức danh sau: Ủy viên thường vụ, Trưởng ban, Phó trưởng ban Đảng, Ủy
viên Ủy ban kiểm tra; Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
huyện; Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, cấp trưởng, cấp phó các đoàn
thể chính trị - xã hội huyện; Giám đốc, phó giám đốc các trung tâm; Chủ tịch,
Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quận huyện; Hiệu
trưởng, Phó hiệu trưởng các trường trực thuộc huyện. Hiện nay số lượng cán
bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý gần 700 đồng chí.
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình trong Đảng, một nguyên tắc xây dựng Đảng
quan trọng, quy luật phát triển Đảng đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin nghiên cứu và luận giải trên nhiều nội dung quan trọng. C.Mác,
Ph.Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động
và phát triển bình thường của Đảng Cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc
đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là việc làm tuyệt đối cần thiết và
bằng cách đó, đảng học cách hoạt động tốt hơn.
V.I.Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng
cách mạng. Tự cao, tự đại, không thấy những sai lầm, khuyết điểm của mình,
giấu giếm những sai lầm, khuyết điểm ấy là một trong những nguyên nhân
làm giảm sút sức chiến đấu của đảng. Thái độ của một chính đảng đối với

những sai lầm, khuyết điểm của mình là một tiêu chuẩn chắc chắn nhất để
12
xem đảng ấy có nghiêm túc không, có thực sự làm tròn nghĩa vụ với giai cấp
mình và với quần chúng lao động không. V.I.Leenin viết: “tự phê bình và phê
bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy
sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”
5
và “tất cả
những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay đều bị tiêu vong vì tự cao
tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình và sợ sệt,
không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ
không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của
chúng ta và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục”
6
.
V.I.Lê-nin cũng khẳng định: “Sai lầm cũng dạy chúng ta nhiều bài học. Trong
lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta nói rằng chúng ta sẽ
học tập bằng tự phê bình”
7
.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về tự phê bình và phê bình
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
Kế thừa, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch
sử mới, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và phê bình” vừa là quy luật
phát triển Đảng, vừa là nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Trong các tác phẩm,
bài viết của mình, vấn đề này được Người thể hiện hai quan điểm:
- Người nhấn mạnh tự phê bình và phê bình, xem đây như vũ khí sắc
bén để Đảng thường xuyên trở nên trong sạch, vững mạnh.
- Có khi, Người đặt “phê bình” trước “tự phê bình”, nhiều hơn cả là

“tự phê bình” trước “phê bình” - đây không phải là ngẫu nhiên, mà có dụng ý.
Dụng ý thể hiện trước hết cần coi trọng tự phê bình, muốn phê bình người
khác thì phải tự phê bình mình trước.
Điểm xuất phát của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình là dân
chủ và nhân đạo. Bản chất của nó là xây dựng, vươn tới sự hoàn mỹ, thúc đẩy
5
V.I.Lênin Toàn tập, tập 10, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1979, tr 395 - 396.
6
V.I.Lênin Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1978, tr 141.
7
V.I.Lênin Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1978, tr 205 - 206.
13
tiến bộ, là cách mạng và khoa học, là vì nhân dân, vì sự đoàn kết nhất trí trong
toàn Đảng. Do đó, bản chất của tự phê bình và phê bình là hướng tới cái đẹp,
cái tốt.
Sự cần thiết phải thực hiện tự phê bình và phê bình vì con người ai
cũng có khuyết điểm, thiếu sót, chỉ khác nhau ở mức độ nặng hay nhẹ, ở trạng
thái biểu hiện mà thôi, “người đời không phải là thần thánh, không ai tránh
khỏi khuyết điểm”
8
. “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”
9
. “Thang thuốc
hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”
10
, nếu không thực hiện điều
này thì cũng như người có bệnh nếu giấu giếm tật bệnh trong mình, không
dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng.

Hồ Chí Minh hiểu rõ Đảng bao gồm đủ các giai tầng trong xã hội và
có tính cách mạng rất cao như: trung thành, rất kiên quyết, hy sinh và rất vĩ
đại Song Đảng là một phận của xã hội, cũng không tránh khỏi những tập
tục, tính nết, khuyết điểm, thói xấu của xã hội lây ngấm và “không phải là
người người đều tốt, việc việc đều hay”. Do vậy, trong Đảng cần thường
xuyên tự phê bình và phê bình như con người luôn cần không khí để sống.
Mục đích tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí Minh không đồng
nghĩa với trừng trị, phê phán. Với Người, phê bình chỉ là sự mổ xẻ một căn
bệnh mang ý nghĩa như một sự khởi nguồn của một quá trình để chữa lành
con bệnh, làm cho con người tồn tại, phát triển khoẻ mạnh. Vì vậy, sự “mổ
xẻ” chỉ có ý nghĩa khi nó đạt tới cái thiện và cái đẹp.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt
đoàn kết và thống nhất nội bộ”
11
để hành động đúng hơn, làm việc hiệu quả và
chất lượng cao hơn. Do đó, mỗi cán bộ đảng viên hàng ngày phải kiểm điểm,
8
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 166.
9
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Sđd, tr 558.
10
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Sđd, tr 262.
11
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Sđd, tr 232.
14
tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt mỗi ngày. Được như thế, trong Đảng sẽ
luôn khẻo mạnh, không có bệnh tật gì.
Đối tượng trực tiếp của tự phê bình và phê bình, theo Người là việc
chứ không phải người. Phê bình việc làm sai, không những không đem lại lợi

ích cho dân cho nước, mà còn có hại cho cách mạng, cho nhân dân. Quan
điểm “phê bình việc chứ không phê bình người” làm cho con người không bị
rơi vào cái “tôi” vị kỷ, thấp hèn, thù hận, tranh giành được thua, ghen ghét
giữa con người với nhau. Phê bình việc là sự gột rửa “cái bên ngoài” con
người, không cho nó ngấm vào bên trong trở thành bản chất, làm “ô nhiễm”
con người. Tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí Minh như dùng khăn, xà
phòng để gột rửa cái nhơ bẩn bám con người, chứ không phải cắt bỏ thân thể
con người.
Tự phê bình và phê bình như uống thuốc trị bệnh, uống rồi lại phải bồi
bổ cho khoẻ mạnh. Tầm cao trí tuệ của Người thể hiện ở nâng cao con người,
là phát huy tính tích cực, chủ động của con người trong công việc và cuộc
sống. Người nói: cần tự phê bình là chính, phải phê bình mình trước, phê bình
người sau, chỉ có tự phê bình mình thì người mới dám phê bình mình, đặc biệt
đối với cán bộ lãnh đạo. Tự phê bình và phê bình là để giúp cho mỗi người tự
hoàn thiện mình, để cho con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Tự phê bình và phê bình liên quan trực tiếp đến đoàn kết trong nội bộ
Đảng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm tăng cường sức mạnh
đoàn kết trong Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là
phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung
quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết.
Đoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn nữa”
12
.
Thái độ đối với tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh là: “lý lẽ
phân minh, nghĩa tình đầy đủ”, phải xuất phát từ “tình đồng chí yêu thương
lẫn nhau”, thấm đượm “lòng nhân ái”, phải thành khẩn, kiên quyết và có văn
12
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 387.
15
hoá. Tự phê bình và phê bình “phải ráo riết”, “triệt để, thật thà, không nể

nang, không thêm bớt”. Phê bình không phải là cơ hội để soi mói nhau, nhằm
“lật đổ nhau”, hay làm mất mặt nhau trước tập thể. Phê bình phải thực hiện
công khai, như vậy mới tránh được thái độ “bưng mắt bắt chim”, thái độ “giấu
bệnh sợ thuốc”…
Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật tự giác, nên sự thành khẩn trong tự phê
bình và phê bình là đòi hỏi tiên quyết trong công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh quan điểm: nếu không kiên quyết thực hiện tự phê bình
và phê bình thì giống như con người có bệnh nhưng không uống thuốc.
Tình yêu thương là yêu cầu quan trọng trong phê bình để tiếp cận và
thực hành chân lý, làm cho con người tự nguyện đón nhận tự phê bình và phê
bình như tiếp nhận một chất kích thích để sinh trưởng, chứ không phải coi nó
như một cái gì đó rất đáng ghê sợ, cần đề phòng. Càng không thể coi đó là âm
mưu, thủ đoạn để đối xử, kèn cựa giữa những người đồng chí với nhau. Tự
phê bình và phê bình chỉ thực sự có kết quả khi có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn của cấp trên, đồng thời được cấp dưới và đông đảo quần chúng nhân dân
ủng hộ, hưởng ứng một cách chân thành với tinh thần xây dựng. Làm được
như vậy, tránh được việc kẻ xấu “tô vẽ thêm để phá hoại Đảng”, tránh được
“thái độ của đảng viên và cán bộ thoái hoá lợi dụng để đạt mục đích tự tư, tự
lợi của họ” và khắc phục được thái độ ươn hèn, yếu ớt “ba phải”, thủ tiêu đấu
tranh, “sao cũng mặc”, “sao cũng được”, “sao cho xong chuyện thì thôi”;
tránh được căn bệnh chủ quan hay thái độ “đối với những người mắc sai lầm,
khuyết điểm như đối với hổ mang, thuồng luồng”. Để tự phê bình và phê bình
đạt hiệu quả cao cần phải có sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp
trên và sự tham gia tích cực của cấp dưới, của quần chúng nhân dân.
Tự phê bình và phê bình phải có “tính chất xây dựng”, “không mỉa
mai, nói xấu”, không trù dập người phê bình. Đối với người phê bình phải chỉ
ra được cụ thể những ưu, nhược điểm của đồng chí từ đó tìm cách giúp đỡ họ,
đồng thời phải luôn chịu trách nhiệm về những lời nói của mình. Trong phê
16
bình phải chú ý tới thái độ dân chủ, phải để cho người khác được phát biểu,

được nêu lên những sai trái của mình trong nhận thức cũng như hành động.
Nhiều người phát biểu sẽ chỉ ra được đầy đủ những ưu, nhược điểm của mình,
vấn đề sẽ được xem xét một cách đầy đủ và toàn diện, từ đó mỗi người tự
hoàn thiện mình thông qua sự giúp đỡ của người khác và nỗ lực của bản thân.
Trong phê bình phải bình tĩnh, không nôn nóng, không hình thức, “
có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn với nhau. Càng cáu càng khó nghe. Muốn
dân chủ tốt, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Ví
dụ: Bác và các chú khai hội với nhau, Bác tự phê bình trước thì các chú mới
dám phê bình. Các chú có khuyết điểm, Bác phê bình lại. Mục đích tự phê
bình và phê bình là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói xấu
nhau”
13
. Phê bình “những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ
quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái thiện
trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”
14
.
Thực hành tự phê bình và phê bình cần công khai, thật sự dũng cảm
Phê bình phải từ cấp dưới lên và cấp trên phải nêu gương tự phê bình để cấp
dưới noi theo. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các đồng chí của mình: tôi làm
điều xấu, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể” cụ không nói, là tôi mang
nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong
óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người.
Về Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh cho rằng: một Đảng mà dấu diếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan nhận khuyết điểm
của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn
cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm
đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
Từ những quan điểm của Hồ Chí Minh, có thể khái quát bốn thái độ
của cán bộ đảng viên trong tự phê bình và phê bình như sau:

13
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 446 - 447.
14
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, tr 558.
17
Một là, đối với những đồng chí có giác ngộ chính trị cao thì tự mình
phê bình rất thật thà, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người
khác các đồng chí ấy luôn thành khẩn, nhiệt tình, đối với những người mắc
khuyết điểm dù nặng hay nhẹ mà không chịu sửa chữa thì các đồng chí ấy đấu
tranh kiên quyết, không nể nang. Đối với thái độ này, theo Hồ Chí Minh
“chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong của các đồng chí ấy”, đồng thời
phải tuyên truyền rộng rãi để mọi người đều biết và noi theo.
Hai là, có một số người bị phê bình, giáo dục nhiều lần mà không chịu
sửa đổi, vẫn “cứ ỳ ra”. Theo Người, đối với hạng người này, chúng ta phải có
thái độ nghiêm khắc, phải mời họ ra khỏi Đảng, để tránh “con sâu làm rầu nồi
canh”, không cho họ có cơ hội làm mất đoàn kết, làm tha hoá Đảng, không để
nó trở thành một nguy cơ đối với Đảng cầm quyền.
Ba là, có một bộ phận không nhỏ, đối với người khác thì luôn có thái
độ phê bình đúng đắn, nghiêm túc, rất “Macxit”, nhưng trong tự phê bình
mình thì quá yếu. Các đồng chí ấy không dám mạnh dạn công khai tự phê
bình, không vui lòng tiếp thu sự phê bình của người khác, không kiên quyết
sửa chữa các khuyết điểm của mình, thường vin vào những “lý do khách
quan” để tự biện hộ, né tránh. Các đồng chí ấy mắc vào chủ nghĩa tự do,
mang “một ba lô chủ nghĩa cá nhân”, sợ mất thể diện, uy tín. Hiện tượng này
thường xảy ra với những cán bộ, đảng viên làm công tác lãnh đạo, phụ trách
những công việc quan trọng trong Đảng, Nhà nước. Với thái độ này, Đảng
cần có hướng giáo dục, giúp đỡ họ trở nên tốt hơn, để họ có quan điểm đúng
đắn về tự phê bình, dám chịu trách nhiệm đối với những công việc, hành động
của mình trước đồng chí, trước Đảng và nhân dân. Mục đích cuối cùng là phải
giúp họ hoàn thiện mình, để họ thực sự trở thành những người hữu ích, có thể

cống hiến được nhiều hơn cho cách mạng, cho nhân dân.
Bốn là, có một số đồng chí lợi dụng phê bình để nói xấu, làm mất uy
tín, danh dự người khác, hay phê bình “lung tung, không chịu trách nhiệm”,
vì lợi ích bản thân mình, do bởi tham quyền lực, địa vị và danh tiếng. Một số
18
đồng chí vì nể nang, lo sợ không dám phê bình người khác, rơi vào “chủ
nghĩa ba phải”. Đối với các đồng chí này, Đảng cần có biện pháp giáo dục họ,
nếu không cần kiên quyết đưa họ ra khỏi Đảng, nhằm làm trong sạch đội ngũ
cán bộ đảng viên, trong sạch nội bộ Đảng.
1.3.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tự phê bình và
phê bình
Công cuộc đổi mới đất nước trong 26 năm qua đã giành được nhiều
thành tựu to lớn, đã và đang tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Để có những
thành tựu to lớn đó trước hết là sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng muốn lãnh
đạo được thì bản thân phải trong sạch, vững mạnh, luôn đổi mới, chỉnh đốn
ngang tầm với nhiệm vụ và đòi hỏi mới của lịch sử. Nhận thức được điều này,
tại các Đại hội VI, VII, Đảng ta luôn có sự quan tâm lớn đến công tác xây
dựng Đảng, đặc biệt từ Đại hội VIII đến nay, nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong
đó thực hiện tự phê bình và phê bình được xem là nhiệm vụ then chốt bên
cạnh xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Các Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 3, 5, 6 (lần 2) khoá VIII, đều đề cập sâu sắc, toàn diện vấn đề này.
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị quyết về một số vấn
đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt
chú ý thực hiện cuộc vận động tự phê bình và phê bình trong Đảng nhân kỷ
niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Ban Chấp hành trung ương, các
cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng đã tích cực đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng, đặc biệt thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng. Qua
quá trình triển khai thực hiện, tuy chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nhưng

đã đạt được nhiều thành quả lớn và kinh nghiệm quan trọng, đó là:
- Nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của tự phê bình và
phê bình trong Đảng. Tự phê bình và phê bình thực sự trở thành nền nếp,
phong cách sinh hoạt hàng ngày của toàn Đảng, mỗi đảng viên.
19
- Góp phần phát hiện, ngăn ngừa kịp thời nhiều việc làm sai trái, tăng
cường đoàn kết nội bộ. Đã xử lý kỷ luật Đảng, Nhà nước đối với không ít cán
bộ đảng viên sai phạm, kể cả cán bộ cấp cao, những biện pháp này vừa có tác
dụng răn đe và giáo dục cán bộ đảng viên đồng thời được nhân dân đồng tình
ủng hộ.
- Bằng nhiều biện pháp khác nhau, Đảng đã cố gắng và bước đầu đưa
nguyên tắc tự phê bình và phê bình vào cuộc sống hàng ngày, vào trong mọi
cơ quan, tổ chức Đảng và trong mỗi cán cán bộ đảng viên, biến nó thành một
nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng thường xuyên, liên tục.
- Góp phần làm trong sạch, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng, mỗi cán bộ đảng viên. Phần lớn đảng viên đã tích cực, tự giác tự phê
bình và phê bình góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân.
Để thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, qua đó góp phần xây dựng
Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần thực hiện tốt những nội
dung sau:
- Tiến hành nghiêm túc và thường xuyên tự phê bình và phê bình theo
đúng điều lệ Đảng và tinh thần chỉ thị của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khóa VIII, tránh lối làm việc hình thức, chiếu lệ cho xong việc.
Yêu cầu của tự phê bình và phê bình phải đạt được: nói thật, nói hết
những sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải trước tổ chức Đảng và công khai
trước nhân dân. Việc xử lý những sai lầm, khuyết điểm phải được tiến hành
công minh và theo phương châm “trị bệnh cứu người”. Dần làm cho mọi
người thấy rõ kết quả tự phê bình và phê bình ngoài việc trị bệnh cứu người,

còn có tác dụng “tôi luyện” thêm phẩm chất, năng lực lãnh đạo và tổ chức
thực hiện chủ trương đường lối của Đảng cho đội ngũ cán bộ đảng viên. Đồng
thời qua đó giúp Đảng lựa chọn được những cán bộ đủ đức, đủ tài để gánh
vác nhiệm vụ cách mạng.
20
- Tự phê bình và phê bình phải nói đầy đủ hai mặt: ưu và khuyết điểm
về thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện chủ trương đường
lối của Đảng, Nhà nước; về quan điểm, lập trường, tư tưởng, chính trị, đạo
đức lối sống và tác phong công tác của cán bộ đảng viên. Đối với khuyết điểm
phải nói hết, nói đúng, không né tránh, không nể nang, không đổ lỗi cho
khách quan hoặc cho người khác. Cần trình bày rõ nguyên nhân đưa đến sai
lầm, khuyết điểm. Khi đã được tập thể Đảng, quần chúng góp ý phê bình phải
báo cáo đầy đủ, trung thực lên cấp trên để tùy theo mức độ mà xử lý theo quy
định điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cần có những hình thức khen
thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên, tập thể có thành tích, giúp họ kịp
thời phát huy hơn nữa những thành tích trong công tác.
- Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính, coi trọng giáo
dục, nâng cao nhận thức để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa sai phạm. Qua tự
phê bình và phê bình, từng cán bộ đảng viên ở các cấp cần tự xem xét mình
có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, tư cách là cán bộ đảng viên của Đảng nữa
hay không; nếu không thì phải tự nguyện rút khỏi vị trí đương nhiệm, chịu
hình thức kỷ luật tương xứng, hoặc xin ra khỏi Đảng để đảm bảo tổ chức
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
- Việc thi hành kỷ luật đối với những cán bộ đảng viên cần thông báo
công khai trước tổ chức đảng và nhân dân. Việc làm này hết sức cần thiết để
quần chúng nhân dân thấy rõ sự nghiêm minh của Đảng và sự tôn trọng của
Đảng đối với quần chúng; biết lắng nghe ý kiến đúng đắn của nhân dân từ đó
góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân.
- Phát động phong trào rộng rãi, sâu sắc, liên tục trong nhân dân bằng
tất cả các phương tiện thông tin đại chúng để nêu gương người tốt, việc tốt,

lên án những khuyết điểm, lỗi lầm của những người vi phạm kỷ luật Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Bất cứ ai, ở cương vị nào cũng phải tuân theo pháp
luật. Công khai, minh bạch là cách làm tốt nhất để tiến hành tự phê bình và
21
phê bình. Cán bộ đảng viên đặc biệt là những người có chức có quyền phải
thực sự là tấm gương sáng trong tự phê bình và phê bình.
- Làm theo phương pháp Hồ Chí Minh: làm trong sạch từ trong nội bộ
Đảng và trong các cơ quan Nhà nước, bắt đầu từ trên để kiểm tra, lãnh đạo
dưới, để nhân dân tin và tham gia phê bình cán bộ đảng viên. Loại bỏ, trừng
trị ngay những con sâu dân, mọt nước, những kẻ làm ô danh Đảng và tham
nhũng, cơ hội để nêu gương cho người khác.
- Mọi đảng viên, nhất là các cấp ủy viên phải luôn nhận thức đúng, đủ
về vai trò, tầm quan trọng, mục đích tự phê bình và phê bình, từ đó có sự
chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và tiến hành thật nghiêm túc, thẳng thắn, trung
thực tự phê bình và phê bình. Phát huy vai trò, thực hiện tốt chức năng “cầm
cân nảy mực” của từng cấp ủy viên, bí thư trong thực hiện tự phê bình và phê
bình, đồng thời làm tốt công tác theo dõi, kiểm tra việc tiếp thu phê bình, sửa
chữa khuyết điểm của từng đảng viên sau khi đã tự phê bình và được góp ý
kiến phê bình của chi bộ Đảng.
1.4. Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong giai đoạn
hiện nay
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) ban
hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị
quyết khẳng định phải tiếp tục tiến hành củng cố, xây dựng Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta, coi đây là vấn đề sống còn
của Đảng ta, chế độ ta. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình rất cao với
Nghị quyết cũng như nội dung bài phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị của
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đặc biệt là vấn đề tự phê bình và
phê bình được nhấn mạnh trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị: “Lâu nay
chúng ta vẫn nói, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của

Đảng, là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng, để giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên.Thực tế cũng có không ít tập thể và cá nhân làm tốt việc này.
22
Nhưng nhìn chung, do chỉ đạo không tốt, do ý thức tự giác của một số cán bộ,
đảng viên không cao, cho nên kết quả còn hạn chế”…
Cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, phấn khởi vì đồng chí Tổng
Bí thư của Đảng đã nêu “trúng” giải pháp quan trọng và căn bản nhằm xây
dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, đó là thường xuyên tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Thực hiện tốt việc này mới có thể
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp.
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi nước ta bước vào xây dựng
nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, công tác tự phê bình và phê bình
trong Đảng làm không được thường xuyên, nền nếp. Một số tổ chức Đảng và
cán bộ, đảng viên có sai lầm, khuyết điểm nhưng không được phê bình, nhắc
nhở kịp thời nên dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Công tác tự phê bình và phê
bình thực hiện chưa thường xuyên, nặng về hình thức; bên cạnh xu hướng
đúng đắn, lành mạnh, đã thấy một số dạng tự phê bình và phê bình không
đúng đắn, thiếu nghiêm túc như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
nêu ra. Đó là biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi “ca tụng” lẫn
nhau hoặc “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng!
Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp nhau phát huy ưu điểm,
đẩy lùi những mặt xấu, tiêu cực. Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải
nêu rõ cả ưu điểm và khuyết điểm, phải khách quan, trung thực đồng thời coi
trọng tính nhân văn, tạo lập văn hoá phê bình; hướng vào phê bình việc làm
chứ không phải phê bình người. Sự phê bình, nhắc nhở với động cơ trong
sáng chân thành sẽ giúp những đảng viên mắc khuyết điểm tự điều chỉnh,
phòng tránh tiêu cực có hiệu quả. Làm sao những lời mỉa mai, châm chọc, vụ
lợi động cơ cá nhân khi phê bình phải nhường chỗ cho tính trung thực, khách

quan, lẽ phải, tình thương và lòng nhân ái.
23
Để đưa Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” vào cuộc sống, cần thường xuyên quán triệt nghiêm túc thật thà tự phê
bình và phê bình. Trung ương Đảng, các cấp uỷ đảng phải có cơ chế quy định
cụ thể chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng, nhất là ở chi bộ, gắn với
việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hàng tháng,
hàng quý có chế độ để cấp trên tự phê bình trước cấp dưới, cán bộ chủ chốt tự
phê bình trước cán bộ, đảng viên. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị phải thật sự gương mẫu trong tự phê bình và phê bình. Đây là
điều hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay, bởi vì đảng viên và quần
chúng biết rõ những ưu điểm, khuyết điểm, sai lầm của cán bộ lãnh đạo.Họ sẽ
nhìn vào cán bộ lãnh đạo của mình để noi gương, có cách ứng phó cho phù
hợp. Vì vậy người càng ở vị trí quan trọng, càng giữ chức vụ cao càng phải
gương mẫu, nghiêm túc.
Có thể khẳng định hiệu quả của chế độ tự phê bình và phê bình phần
lớn phụ thuộc thủ trưởng cơ quan, đơn vị và các cán bộ lãnh đạo. Bên cạnh đó
cũng cần phát huy dân chủ để quần chúng, nhân dân phê bình, góp ý cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng. Đảng ta là đảng của dân, vì nhân dân mà phục vụ,
do đó phải liên hệ mật thiết với quần chúng.Tình trạng tổ chức đảng, đảng
viên ít liên hệ gắn bó với nhân dân trên địa bàn, nơi cư trú đang làm cho đảng
viên xa rời quần chúng là khuyết điểm cần khắc phục.
Một điểm nữa là công tác kiểm tra, giám sát, xử lý việc thực hiện chế
độ tự phê bình và phê bình. Khi đã có cơ chế, quy định của đảng về chế độ tự
phê bình và phê bình thì cũng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát và thực hiện
các quy định. Đồng thời xử lý những vi phạm quy định cũng như sự không
thật thà, thiếu nghiêm túc hay những hành động trả thù, trù dập, ức hiếp…đối
với những người thẳng thắn đấu tranh phê bình. Bảo vệ những người thẳng
thắn, thật thà, dám đấu tranh vì lẽ phải cũng là một trong những vấn đề cấp
bách để cho công tác tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả như mong muốn;

biến Nghị quyết của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
HUYỆN ỦY QUỐC OAI QUẢN LÝ
2.1. Khái quát về kinh tế - xã hội - văn hoá huyện Quốc Oai
2.1.1. Vị trí địa lý, dân số huyện Quốc Oai
Huyện Quốc Oai nằm ở phía Tây thành phố Hà Nội, cách trung tâm
thành phố khoảng 20km. Phía Đông giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài
Đức; phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình; phía Nam giáp huyện Chương Mỹ và
phía Bắc giáp huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ.
Huyện Quốc Oai có diện tích: 147,01km
2
, dân số: 163.355 người
(năm 2010), có 21 đơn vị hành chính trực thuộc gồm một thị trấn Quốc Oai
và 20 xã Phú Mãn, Phú Cát, Hòa Thạch, Tuyết Nghĩa, Đồng Yên, Liên
Tuyết, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Cấn Hữu, Nghĩa Hương, Thạch Thán, Đồng
Quang, Sài Sơn, Yên Sơn, Phượng Cách, Tân Hòa, Tân Phú, Đại Thành,
Cộng Hòa, Đông Xuân.
2.1.2. Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 14,31%, tăng
3,1% so với nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích
cực: năm 2005 tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng
38,22%; dịch vụ - du lịch 23,57%; nông - lâm - thuỷ sản 38,21%; năm
2010 tỷ trọng tương ứng là 42,34 % - 31,81% - 25,85% (mục tiêu Đại hội
XX là 46%-32%-22%); thu nhập bình quân đầu người từ 4,697 triệu đồng
năm 2005, đến năm 2010 ước đạt 12,39 triệu đồng (vượt 2,89 triệu đồng so
với mục tiêu Đại hội XX đề ra).
2.1.3. Văn hoá xã hội

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền được đổi
mới cả nội dung, hình thức, chất lượng được nâng lên, thu hút được sự
quan tâm của quần chúng nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
25
dựng đời sống văn hóa” được chú trọng. Số gia đình được công nhận gia
đình văn hóa đạt 85% (đạt mục tiêu Đại hội XX đề ra); có 62/93 làng được
công nhận là làng văn hóa, (vượt mục tiêu Đại hội XX 1,6%); 35 cơ quan
được công nhận là cơ quan văn hóa; tăng 29 cơ quan so với năm 2005. Các
thiết chế văn hoá được đầu tư, văn hoá vật thể và phi vật thể được quan tâm
bảo tồn và phát triển, đã hoàn thiện biên soạn cuốn "Lịch sử Văn hoá huyện
Quốc Oai".
2.1.4. Quốc phòng An ninh
Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được quan tâm chỉ đạo.
Hàng năm đều hoàn thành các chỉ tiêu về tuyển chọn, gọi công dân nhập
ngũ; làm tốt công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ, đảng
viên và huấn luyện lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ. Tổ chức
thành công diễn tập phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn cấp huyện.
Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.
An ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển
khá và đạt nhiều kết quả. Các mô hình tự quản về an ninh trật tự, như: dòng
họ tự quản, câu lạc bộ phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội được nhân
rộng, đã phát huy tác dụng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự. Triển khai
có hiệu quả Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh quốc
gia, Nghị quyết 09 của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng, chống
tội phạm, chương trình quốc gia về phòng, chống ma tuý và các nghị quyết
của Chính phủ về đảm bảo trật tự an toàn giao thông.
2.2. Tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ quản lý
2.2.1. Những kết quả đạt được

Do nhận thức rõ tầm quan trọng có tính đột phá của hoạt động tự
phê bình và phê bình trong Ban chấp hành Đảng bộ huyện và đội ngũ cán
bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý đối với công tác xây dựng
26
chỉnh đốn Đảng, lãnh đạo Huyện uỷ đã thường xuyên chỉ đạo sâu sát hoạt
động quan trọng này ở các đảng ủy trực thuộc Huyện uỷ. Nhờ vậy chất
lượng hoạt động tự phê bình và phê bình đã đạt được nhiều kết quả.
2.2.1.1. Hoạt động tự phê bình và phê bình trong tập thể lãnh đạo
cấp ủy và đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý đã
thể hiện rõ mục đích, tính chất tự phê bình và phê bình trong Đảng
Về mục đích sinh hoạt tự phê bình và phê bình của tập thể cấp ủy và
đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý, có thể nói,
thực chất tự phê bình và phê bình của tập thể cấp ủy chính là tự phê bình và
phê bình của các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện uỷ, các đồng chí
Huyện uỷ viên giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị toàn huyện.
Qua thực tế hoạt động tự phê bình và phê bình ở đảng bộ huyện
những năm qua nhận thấy: hầu hết các tập thể cấp ủy trên cơ sở và cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Huyện uỷ quản lý đều nhận thức được: tự phê
bình và phê bình là một sinh hoạt thường xuyên trong Đảng bộ, được tiến
hành trong sinh hoạt nội bộ của Đảng, từ chi bộ đảng cho đến cấp ủy các
cấp. Vì là sinh hoạt nội bộ của Đảng, nên việc cán bộ lãnh đạo tự phê bình
trước tập thể đảng viên và phê bình đồng chí của mình trong sinh hoạt đảng
là cần thiết để giúp đỡ lẫn nhau tiến bộ.
Để phát huy đầy đủ vai trò tự phê bình và phê bình trong đội ngũ
cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý phục vụ nhiệm vụ
chính trị của đảng bộ và phục vụ công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo Huyện
uỷ đã chỉ đạo việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phải gắn với cương vị chức trách công tác được giao. Tập trung
làm rõ những ưu điểm và khuyết điểm của Ban Thường vụ Huyện ủy và
của huyện uỷ viên thực hiện nhiệm vụ chính trị cương vị công tác của

mình. Lấy việc chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và cấp mình làm căn cứ chủ yếu
để đánh giá xem xét những thành tựu và khuyết điểm gặp phải.
27

×