ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
VĂN HỌC MĨ
CHỮ A MÀU ĐỎ CỦA NATHANIEL HAWTHORNE
Nhóm sinh viên thực hiện
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 10 NĂM 2022
1
MỤC LỤC
25
KẾT LUẬN9
2
A.
KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả Nathaniel Hawthorne
Nathaniel Hawthorne (1804 - 1864) là một nhà văn, tiểu thuyết gia người
Mỹ, thuộc thế hệ những người Anh di cư. Ông sinh ra tại Salem, Massachusetts
- một trong những nơi đầu tiên người Anh di cư đặt chân đến. Phần lớn các tác
phẩm của ông viết về vùng đất này (hoặc cận đó). Ơng sáng tác theo khuynh
hướng lãng mạn với chủ đề bao trùm là những vấn đề về đạo đức và Thanh
giáo.
Khi theo học tại đại học Bowdoin, Hawthorne bắt đầu sự nghiệp sáng tác
của mình. Những tác phẩm của ông đa phần đều theo khuynh hướng lãng mạn.
Một số những tiểu thuyết và truyện ngắn đầu tay có thể kể đến như: Fanshawe
(1828); The Hollow of the Three Hills (1835); My Kinsman, Major Molineux
(1832);... Những câu chuyện lãng mạn được xây dựng dựa trên chất liệu chính
là quê hương và những ảnh hưởng từ tổ tiên của ông - đa phần là những người
Thanh giáo, gắn với lịch sử New England. Năm 1842, Hawthorne kết hôn với
Sophia Peabody tại Concord (cũng thuộc Massachusetts) và trở lại Salem vào
năm 1845. Tại đây, ông được bổ nhiệm làm một viên chức thuế quan ở bến
cảng. Ba năm sau, ông bị cho thôi việc bởi một số biến động chính trị. Thời
gian sau, ơng đã xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị như: The Scarlet Letter
(1850), The House of the Seven Gables (1851), The Blithedale Romance
(1852), The Marble Faun (1860),... Hawthorne một lần nữa rời Salem (sau khi
bị mất việc) và đến sống ở một số nơi như Lenox, Tây Newton,... Năm 1853,
khi Franklin Pierce - một người bạn của ơng trở thành tổng thống thì ơng đảm
được đảm nhận một vị trí trong Lãnh sự quán Anh. Những năm cuối đời,
Hawthorne dành nhiều tâm huyết cho các tác phẩm của mình nhưng dường như
nó khơng cịn thành công như trước nữa. Ngày 19 tháng 5 năm 1864, nhà văn
qua đời tại New Hampshire.
Lịch sử New England và Thanh giáo là những tiền đề xuất hiện xuyên suốt
trong các tác phẩm của N. Hawthorne. John Hathorne - một trong những người
thuộc thế hệ tổ tiên của ông từng làm thẩm phán chuyên xét xử những người
phụ nữ được cho là phù thủy tại Salem đã gợi cho Hawthorne nhiều trăn trở
3
cùng với nguồn cảm hứng sáng tác. Ông trăn trở bởi những lời nguyền trút lên
dịng tộc mình và tự hỏi phải chăng những lời nguyền đó đã khiến các thế hệ về
sau sa sút dần và cái truyền thống mà tổ tiên muốn duy trì dường như cũng
đang mất đi. Thậm chí, ơng đã thêm chữ “w” vào tên mình, từ Hathorne thành
Hawthorne để che dấu đi gốc gác thật sự của mình.
Những tác phẩm của ơng thường theo khuynh hướng của Chủ nghĩa lãng
mạn đen tối (Dark Romanticism) - một nhánh của Chủ nghĩa lãng mạn (có
liên quan mật thiết với các tiểu thuyết Gothic). Thuật ngữ này xuất hiện như
một sự phản ứng lại với Chủ nghĩa siêu nghiệm xuất hiện tại Mỹ vào thế kỷ
XIX. Bắt nguồn từ New England, Chủ nghĩa lãng mạn đen tối hoài nghi về sự
hoàn hảo của một con người, nhất là về mặt tinh thần; quan tâm đến tội ác và
hình phạt cùng những ám ảnh tội lỗi. Họ cho rằng con người có xu hướng
phạm tội, tự hủy hoại bản thân chứ khơng phải lý trí như Chủ nghĩa siêu
nghiệm quan niệm. Những nhà lãng mạn đen tối thường mơ phỏng những điều
trên bằng những hình ảnh ghê rợn nhưng vẫn liên quan đến yếu tố người như
hồn ma, quỷ Satan, ma cà rồng,... Tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn ở thể loại
này phải kể đến The Minister's Black Veil (1836). Trong những câu chuyện của
Nathaniel Hawthorne, ông đã miêu tả khu rừng như một thế lực đen tối. Khu
rừng thể hiện quan điểm của Hawthorne về bản chất con người: khơng thể đốn
trước và khó hiểu. Trong Young Goodman Brown của Hawthorne, khu rừng tiết
lộ những hành động thực sự của cộng đồng Thanh giáo, phơi bày sự băng hoại
tôn giáo. Trong Chữ A màu đỏ, ông lại tiếp tục sử dụng không gian rừng rậm
như nơi phơi bày những bí mật đen tối thơng qua cuộc gặp gỡ của Hester
Prynne và Dimmesdale.
Về chủ nghĩa Lãng mạn Mỹ:
Trong nỗ lực thoát khỏi Chủ nghĩa Thanh giáo và Chủ nghĩa Calvin, Chủ
nghĩa lãng mạn, như Ann Woodlief giải thích, “là một thời kỳ Phục hưng theo
nghĩa nở hoa, phấn khích trước các khả năng của con người và đề cao cái tơi
cá nhân”. Nói cách khác, Chủ nghĩa lãng mạn của Mỹ tôn vinh những điều
chưa biết - khi người Mỹ bắt đầu phiêu lưu về phía tây vào những vùng lãnh
4
thổ mới giành được, các tác giả bắt đầu viết về vẻ đẹp của cảnh quan thiên
nhiên, chưa được con người tác động. Thẩm mỹ về thiên nhiên là thứ cực kỳ
quan trọng đối với các nhà văn lãng mạn Mỹ.
Hơn nữa, Chủ nghĩa lãng mạn Hoa Kỳ bao gồm một vài chủ đề khác nhau,
bao gồm chủ đề thiên nhiên và ẩn số vĩ đại được kể thông qua những câu
chuyện về biên giới - một vùng đất chưa được khám phá, hứa hẹn cơ hội để mở
rộng, phát triển và tự do. Mạo hiểm vào những điều chưa biết này đã làm nảy
sinh một tinh thần lạc quan mới, một lý tưởng nổi tiếng của người Mỹ mà bất
kỳ người nào cũng có thể đạt được bất cứ điều gì họ đặt ra. Các đặc điểm khác
bao gồm sức mạnh của vũ trụ, khám phá cách nó hoạt động theo những cách bí
ẩn, khó hiểu. Do đó, những đặc điểm này gắn liền với chủ đề của điều chưa
biết. Tuy nhiên, khía cạnh du nhập nhất của Chủ nghĩa lãng mạn Mỹ, là nó có
những yếu tố chủ nghĩa cá nhân riêng, ngoài các đối tác châu Âu. Lần đầu tiên
trong lịch sử, một phong trào hoàn toàn thuộc về Hoa Kỳ.
2. Tác phẩm The Scarlet letter - Chữ A màu đỏ
Chữ A màu đỏ (1850) được xem là tiểu thuyết vĩ đại nhất của Hawthorne.
Tác phẩm chính là một trong những bức tranh rõ nét nhất về nước Mỹ thời kỳ
đầu cùng với sự ảnh hưởng của Thanh giáo. Câu chuyện diễn ra vào những
năm 1640 tại Boston, thuộc Massachusetts, New England. Nhân vật nữ chính
của tác phẩm là Hester Prynne. Chị bị buộc tội ngoại tình, sinh ra một đứa trẻ
và bị bêu rếu trên bục tội nhân. Hình phạt dành cho người phụ nữ này là chữ A
màu đỏ - một biểu tượng của sự sỉ nhục dành cho những người ngoại tình, và
chị phải đeo nó đến hết cuộc đời mình.
N.Hawthorne sáng tác tiểu thuyết này chỉ trong vịng vài tháng, sau khi ơng bị
cho thơi việc tại cơ quan thuế. Ơng tơn trọng Thanh giáo nhưng ơng cũng nhận
ra mặt tối của nó. Vượt qua tất cả những gì mà một xu hướng tôn giáo nên làm,
Thanh giáo dần trở thành một thứ luật pháp khắc nghiệt dùng để cai trị đời
sống con người. Hawthorne đã chọn con đường văn học như một cách để thể
hiện thái độ của mình. Trong suốt tác phẩm, từ cốt truyện, đề tài và nhân vật,
đâu đâu trong Chữ A màu đỏ cũng là màu sắc Thanh giáo. Xã hội trong tác
5
phẩm chính là xã hội của nhánh người Thanh giáo từng rời bỏ nước Anh vì sự
độc đốn của chính phủ nơi này. Họ rời đi với hy vọng về một tương lai tốt
đẹp, hạnh phúc tại Tân thế giới. Thế nhưng, với bộ mặt hiện tại thì chính họ đã
lặp cái điều mà nhà nước Anh đã từng làm. Thật liều lĩnh nhưng cũng thật xót
xa, Hawthorne đã dám đối mặt với sự thật để cho ra đời Chữ A màu đỏ. Những
vấn đề về đạo đức và tôn giáo, vốn là vấn đề cấm kỵ tại Mỹ vào thời kỳ này đã
được nhà văn đề cập trong tác phẩm của mình. Nước Mỹ và con người Mỹ
chân thật đã giúp Chữ A màu đỏ không chỉ là một tác phẩm vĩ đại của riêng
nước Mỹ mà còn là của văn học thế giới.
Tóm tắt tác phẩm:
Chữ A màu đỏ lấy bối cảnh tại Boston, Massachusetts - nơi người Thanh
giáo từ Anh định cư. Tiểu thuyết gồm 24 chương, kể về Hester Prynne - một
phụ nữ đã có chồng, ngoại tình và sinh ra một đứa trẻ. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ
bắt đầu kể từ giai đoạn Hester bị đem ra xét xử, cùng những diễn biến tâm lý
của chị về sau chứ không đề cập đến phân đoạn trước đó. Hình phạt của Hester
là một chữ A màu đỏ, cài trước ngực, tượng trưng cho sự xấu hổ của tội ngoại
tình. Mặc cho tất cả những lời đe dọa và ép uổng, người phụ nữ này vẫn không
khai ra tên của tình nhân. Thật trớ trêu cho những giáo dân tại Boston, họ
không biết rằng người mà họ đang muốn giày xéo, đưa lên bục định tội cùng
với Hester lại chính là Arthur Dimmesdale - một mục sư đạo mạo và tài đức
vẹn tồn trong lịng họ. Trong lúc Hester bị đưa ra xét xử thì chồng cơ, Roger
Chillingworth, một người đàn ơng có ngoại hình khiếm khuyết trở về từ Hà
Lan. Ơng ta tự nhận mình là thầy thuốc để có cớ vào ngục thăm Hester, tra hỏi
chịvề tên tình nhân và buộc chị phải giấu đi mối quan hệ của họ. Mặc cho tất cả
sự tra tấn về tinh thần, chị vẫn im lặng.
Hester được cho ra khỏi ngục và sống tại một ngôi lều ngoại ô Boston bằng
nghề thêu thùa, mặc cho sự sỉ vả của người đời. Chị luôn chăm chút tỉ mỉ cho
Pearl - chị con gái bé bỏng của mình. Thời gian trôi qua, Pearl lên bảy và là
một coo bé đặc biệt. Pearl có ngoại hình của một cơ bé trong sáng và lanh lợi
nhưng luôn ánh lên một nét quỷ quyệt đáng sợ - cho cả mẹ cô bé và những
người xung quanh. Cũng thời gian đó, gã Chillingworth đã quyết định ở lại
6
Boston và lấy danh nghĩa một thầy thuốc để luôn theo cạnh, chữa bệnh cho
Dimmesdale nhưng mục đích chính là tìm ra tình nhân của vợ mình. Việc che
giấu tội lỗi về mối tình với Hester đã khiến Dimmesdale bị suy sụp về cả tinh
thần và thể xác. Anh ta luôn sống trong dằn vặt, mỗi ngày trôi qua như một
hình phạt với chàng giáo sĩ này. Cũng vì vậy mà anh ta bị Chillingworth nghi
ngờ, hắn quan sát Dimmesdale và tìm ra điểm yếu của anh chàng. Cuối cùng,
hắn ta đã tìm ra sự thật. Hester cũng khơng giữ lời hứa nữa mà nói tất cả sự thật
về gã thầy thuốc kia Dimmesdale nghe. Họ bàn tính việc chạy trốn khỏi con
người xấu xa ấy nhưng kế hoạch này không thể qua khỏi mắt của
Chillingworth. Vậy là họ quyết định chạy trốn, nhưng nơi đến là bục tội hình
mà Hester từng một mình chịu phạt. Giờ đây vẫn là bục tội hình ấy nhưng có cả
Dimmesdale và Pearl bé bỏng. Chàng tu sĩ thú nhận tội lỗi trước sự bàng hoàng
của tất cả mọi người, cũng kết thúc cuộc sống đầy cực hình trong suốt ngần ấy
năm. Cuối tác phẩm, Chillingworth mất ngay trong năm đó, lão để lại khối tài
sản lớn cho Pearl. Cả Hester Prynne và Pearl đi đâu không ai biết, người ta chỉ
thấy thời gian sau, một mình Hester quay về căn lều cũ, trên ngực vẫn đeo chữ
A màu đỏ. Sau này, khi chị mất, người ta chôn chị cạnh ngôi mộ của
Dimmesdale năm xưa.
B. VÀI NÉT PHÂN TÍCH VỀ TÁC PHẨM
1. Biểu tượng chữ A màu đỏ
1.1.
Hình phạt chữ A màu đỏ ngồi đời thực
Trong mục “Phòng thuế quan” của tiểu thuyết, Nathaniel Hawthorne khẳng
định rằng “chữ A màu đỏ” và nhân vật Hester Prynne hồn tồn có thật “Người
phụ nữ này đã vang bóng một thời trong giai đoạn từ buổi sơ khai của bang
Massachusetts cho đến cuối thế kỉ XVII”. Nathaniel Hawthorne đã miêu tả chi
tiết sự phát hiện của “mảnh vải chữ A màu đỏ” cùng với những tư liệu từ Thanh
tra Pue về tính xác thực của sự kiện cũng như cuộc đời và tội ngoại tình của
người đàn bà Hester Prynne. Lí do người phụ nữ Hester phải mang trên mình
chữ A màu đỏ? Tội lỗi cùng sự trừng phạt người đàn bà phải gánh? Tất cả mọi
sự việc đều được viên thanh tra ghi chép khá đầy đủ trong cuộn giấy nhỏ cùng
7
miếng vải đỏ quấn xung quanh. Một mảnh vải đỏ tươi mềm mịn được gói lại
cẩn thận nhưng thời gian đã bào mòn phai bạc. Trên tấm vải hiện lên chữ A in
hoa, được thêu kim tuyến một cách tỉ mỉ, tinh tế. Theo ghi chép của ngài thanh
tra, người phụ nữ tên Hester phải chịu hình phạt mang chữ A màu đỏ trên ngực
đến hết đời và chữ A đó là chữ đầu của từ Adultery - tội ngoại tình.
Ngồi hình phạt chữ A - tội ngoại tình, cịn tùy vào luật lệ ở mỗi địa
phương phạm nhân sẽ mang những kí hiệu dài ngắn khác nhau như chữ B
(Blasphemy) - tội phạm thánh, chữ “D” (Drunkenness) - tội say rượu,... Đối với
một số trọng tội, biểu tượng còn được rèn bằng sắt, nung đỏ rồi đánh dấu thành
sẹo lên cánh tay, mặt hoặc trán của phạm nhân. Hình phạt cho người phạm tội
có nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ mà giáo hội phán
quyết và điều khủng khiếp của hình phạt này khơng nằm ở việc người phạm tội
mang lỗi lầm ra sao mà đó chính là nỗi đau đớn, nhục nhã trước sự ghê sợ và
khinh bỉ của mọi người. Đồng thời, bản án đó sẽ đeo bám và nhắc nhở họ về
chính tội lỗi của bản thân đến hết cuộc đời. Chính vì lẽ đó, Nathaniel
Hawthorne đã thai nghén Chữ A màu đỏ với mục đích giúp độc giả phần nào
hiểu rõ bản chất của biểu tượng chữ A này.
1.2.
Chữ A màu đỏ trong tác phẩm
1.2.1. Hester và Chữ A màu đỏ
Chữ A màu đỏ – một hình phạt
Khung cảnh đầu tác phẩm là hình ảnh mọi người xúm xít ngồi cánh cửa
nhà tù nhìn ngắm, bàn tán xơn xao gương mặt Hester Prynne - người phụ nữ
phạm tội mang trên ngực chữ A màu đỏ theo hình phạt của Thanh giáo dành
cho những người ngoại tình. Khi ấy, Hester Prynne bị kết án đứng bêu trên bục
ba tiếng đồng hồ trước công chúng và giàn xử tội. Điều kinh khủng của án xử
phạt này là thái độ nghiêm nghị của quần chúng khiến chị mong mỏi rằng thà
họ đùa giỡn, khinh miệt mình cịn hơn khơng khí nặng như chì khiến chị cảm
thấy “phải thét to lên đến vỡ tung cả lồng ngực và đâm bổ từ trên bục bêu
xuống đất, nếu không sẽ phát điên mất”.
8
Tiếp đó, chữ A màu đỏ lại lần nữa phát huy nỗi kinh hãi ghê gớm khi vị
giáo sĩ già thuyết giảng tội lỗi và biểu tượng của chữ A màu đỏ hiện lên như
“ngọn lửa của địa ngục” khiến trạng thái tinh thần mà Hester chịu đựng đã vượt
qua “tất cả những gì mà sức sống tự nhiên có thể chịu đựng” bộc lộ rõ nét qua
hành động “chị cố dỗ cho con im, nhưng động tác của chị như cái máy, trơng
chị có vẻ như khơng thơng cảm gì với sự khó chịu bứt rứt của đứa bé”.
Đến khi rời khỏi bục bêu trở về nhà tù thì biểu tượng chữ A màu đỏ trên
ngực chị “tỏa ra một thứ ánh sáng ghê rợn dọc theo đường hành lang”. Sự
khủng khiếp của chữ A mạnh mẽ đến độ khi Roger Chillingworth giơ ngón tay
gí vào chữ A “Tức thì, cái dấu hiệu ơ nhục dường như phát sức nóng cháy
bỏng trên ngực Hester, như thể nó là sắt nung đỏ”.
Ngày Hester được trả tự do trở về với cuộc sống cũng là lúc chữ A màu đỏ
phát huy tác dụng. Khoảnh khắc Hester bước ra ánh sáng rời khỏi ngục tù, màu
đỏ chữ A rực sáng một vùng chói lóa như thơng báo cho mọi người biết về sự
xuất hiện của nhân vật mang trên mình tất cả những mối ô nhục đam mê và tội
lỗi. Hester sẽ là hiện thân của người đời bảo ban các chị gái đồng trinh về con
người đã một thời trong trắng và đó sẽ như một gánh nặng đè lên chị trong suốt
khoảng thời gian cịn lại mà khơng một ai có thể gánh vác thay. Chữ A mang
biết bao nhiêu tội lỗi tra tấn về thể xác lẫn tinh thần với Hester như một sự đau
đớn khôn cùng. Người ta bắt đầu xa lánh chị, bàn tán về dấu vết chữ A - điều
mà người dân ở New England chưa bao giờ qn và khơng ngừng bàn luận khi
thấy nó xuất hiện xung quanh cuộc sống khiến cho Hester bị cô lập, nhưng chị
vẫn phải tiếp tục sống nuôi dưỡng đứa con khơn lớn.
Chữ A – biểu tượng của lịng nhân ái và sự bao dung
Hester cố gắng vượt qua nghịch cảnh mà không nhận được bất cứ sự giúp
đỡ, tình thương của người dân nơi đây mà thay vào đó là sự ghẻ lạnh đến ghê
sợ. Tuy hồn cảnh khó khăn là thế nhưng Hester vẫn giúp đỡ mọi người, chị
ban phát những điều thiện lành đến với người nghèo, sự vị tha và khát khao
muốn đến gần hơn với mọi người của chị chỉ trong giây lát rồi bị vụt tắt khi họ
nhận ra sự xuất hiện của chữ A màu đỏ trên người Hester. Dẫu biết hành trình
gột rửa tội lỗi trở về trong sạch xiết bao gian nan nhưng chính sự kiên trì và
9
những đức tính tốt mà Hester có cuối cùng cũng được đền đáp. Ban đầu chữ A
được xem là hiện thân của tội lỗi lớn nhưng nhờ vào sự chân thành trong những
việc làm của chị bộc lộ ra bên ngoài với quần chúng xung quanh đã giúp họ
nhận ra và xem xét lại. Chính vì thế, chữ A màu đỏ khơng cịn là biểu hiện của
tội lỗi mà chính là biểu tượng của sự bao dung, lòng nhân ái.
Khi chấp nhận hình phạt của mình, ngoại trừ tâm lý hoảng sợ, lo lắng
chung của một kẻ bị buộc tội, Hester cũng có một thái độ của riêng mình. Chị
chấp nhận đeo chữ A – cái mà người ta gọi là “nỗi ô nhục”. Nhưng dưới bàn
tay khéo léo của chị thì “chữ A hoa bằng vải mịn đẹp màu đỏ, viên những
đường thêu tinh tế công phu và những nét trang trí hoa mĩ kì dị bằng kim
tuyến”, nếu không đặt trong khung cảnh của một thành phố Puritan và một bục
tội hình thì khó ai hình dung ra được đó là hình phạt, rõ ràng nó như một vật
trang trí được tạo ra một cách khéo léo và tỉ mĩ. Lúc ấy, Hester, với vị trí của
một phạm nhân, nhưng chị lại tỏa ra cái khí chất trâm anh yêu kiều của một
phụ nữ thanh lịch khiến nhiều người phải ngỡ ngàng, “nỗi bất hạnh và ô nhục
bao phủ quanh chị thành một vầng hào quang tỏa sáng”. Đây là điềm báo mà
tác giả và chính bản thân Hester tạo ra, nó cho thấy rằng chị sẽ khơng cúi đầu
trước hình phạt cay độc, khơng để bất cứ ai dùng chữ A màu đỏ để gán cho chị
một danh tính. Chính Hester sẽ quyết định số phận của mình.
Thời gian dài sống gần như tách biệt với mọi người và với những mối quan
hệ xã hội, Hester đã hình thành một thói quen cũng là một tư duy biệt lập. Chị
khơng để mình bị ảnh hưởng bởi một chuẩn mực nào (mà mọi người thường
cho là đúng), thay vào đó, chị làm theo những ý niệm trong đầu mình. Hester
khơng mong cầu bất cứ ai thương hại hoặc thơng cảm, mong mỏi duy nhất của
chị chính là được nhìn Pearl lớn lên một cách thật mạnh khỏe. Một cách vô
thức hoặc bằng sự đồng cảm của những người chịu chung mệnh khổ, Hester
chủ động giúp đỡ nhiều số phận nghèo đói, đó là sự bao dung, khơng cần lời
hồi đáp. Thật ra cơ hồn tồn có thể dùng tài nghệ của mình để phục vụ cho
những quý tộc giàu có, khơng cần làm những việc khơng mang lại lợi ích cho
mình, mà đơi khi cịn nhận lại lời chế giễu từ những người được giúp đỡ. “Tại
nơi đó ánh lên chữ A màu đỏ thêu trên ngực chị, với một nguồn an ủi toát ra từ
10
những tia sáng siêu tự nhiên của nó. Ở mọi nơi khác, nó là biểu tượng của tội
lớn, cịn ở đây nó là ngọn nến nhỏ chung trong buồng người bệnh”. Và trong
q trình bao dung, đồng cảm khơng ngừng nghỉ đó, Hester đã nhận được “hoa
thơm trái ngọt” về cho mình, mặc dù đó là thứ mà chị khơng chủ đích ngay từ
đầu. Một Hester – vốn đã nổi bật trong xã hội (nhưng với chữ A màu đỏ cùng
ràng buộc tội lỗi) giờ đã trở thành một Hester – nổi bật hơn (nhưng với chữ A
màu đỏ cùng quá trình sám hối).
Cuối cùng, hành động tháo bỏ chữ A trên ngực đã giúp chị quay trở lại như
chính chị của ngày xưa, mọi bóng tối trước đó bao trùm lấy hai con người này
giờ đây thay đổi bằng màu sáng rực, những lỗi lầm có thể bỏ qua khi chữ A bị
ném xuống đất, sự bứt phá khi đã phải kìm nén quá lâu đã giúp cho họ có thêm
sức mạnh trong cuộc chiến đấu với cuộc đời sắp tới. Cuộc trị chuyện của hai
người mang trên mình chữ A tội lỗi ở trong rừng là cơ hội để họ được nói ra
những điều trong lịng đã giấu kín bấy lâu nay, sự quyết tâm vùng dậy sau
những ngày tháng sống khép kín. Hester động viên bản thân và Dimmeslade,
quá khứ hãy để nó ngủ yên, cùng nhau tiến về tương lai và chị xé bỏ chữ A ném
xuống đất một cách vơ cùng dứt khốt, hành động đó tượng trưng cho tính tự
giải thốt cuộc sống của mình ra khỏi mọi tội lỗi. Đây chỉ là một khoảnh khắc,
bởi sau đó, vì Pearl muốn nên chị vẫn phải đeo lại nó, nhưng cũng là một sự
đột phá với người phụ nữ đã bị dồn nén bởi tất cả những thứ gọi là xã hội
quanh chị. Trong đoạn kết, dù mọi chuyện đã qua đi, người ta vẫn thấy Hester
đeo chữ A đó, chị đeo một cách tự nguyện. “Chữ A màu đỏ thơi khơng cịn là
cái dấu sắt nung hổ nhục chuốc lấy sự khinh miệt và đối xử cay nghiệt của
người đời nhất, mà đã trở thành tiêu biểu cho một cái gì đó khiến người ta
buồn thương, mà khi nhìn vào, người ta vừa hãi hùng lại vừa tơn kính”.
Biểu tượng chữ A màu đỏ với ý nghĩa ban đầu là chữ A – “Adultery” đã
chuyển mình dần thành A – “Abel” hoặc xuất hiện với một hiện tượng vô cùng
kỳ lạ “Một chữ đỏ rất to trên trời - chữ A” mà theo như mọi người chia sẻ với
nhau đó là chữ A – “Angel” (chữ A thiên thần). Nó xuất hiện ngay chính đêm vị
mục sư tiến đến bục đầu đài chuộc tội theo cái cách hão huyền của mình và
11
chính thời khắc Dimmesdale gặp được mẹ con Hester được xem như một sự
giãi bày xoa dịu cảm xúc. Liệu rằng, chữ A này có thể xem là một dấu hiệu
nhằm dự báo cho sự may mắn sắp đến với cuộc sống của con người vùng đất
này khi mà vị Thủ hiến Winthrop qua đời vào nửa đêm. Hay sự may mắn đó sẽ
đến với người phụ nữ Hester và vị mục sư Dimmesdale trên con đường chuộc
tội và giải thoát khỏi.
1.2.2. Bé Pearl – một chữ A màu đỏ khác
Pearl là cô bé khá khác biệt với những nhân vật còn lại trong tác phẩm. Cả
Hester, Dimmesdale, Chillingworth hay bất cứ ai trong Boston đều bị chi phối
bởi Thanh giáo, những luật lệ và sự tội lỗi. Nhưng với Pearl, nếu nói về tội lỗi
thì điểm dính dáng duy nhất chính là cơ bé là “kết tinh tội lỗi” của Hester và
Dimmesdale. Pearl chính là hạt ngọc trai – ra đời bởi một sự trả giá rất đắt và là
tài sản duy nhất của Hester. Thế nhưng, thật trớ trêu thay, cái đầu tiên mà Pearl
bé bỏng nhận thức được chính là chữ A màu đỏ trên ngực mẹ. Bất cứ ai cũng có
thể xem chữ A đó như sự sỉ nhục với chị, vì chị cũng khơng cịn quan tâm cho
mấy. Nhưng Pearl lại nhận ra nó, liệu Pearl sẽ nghĩ sao về mẹ, chị khơng đốn
được. Điều đó đã trở thành một loại tế bào ung thư, đang di căn và ăn mòn dần
tâm hồn chị. Pearl luôn chú ý đến chữ A với nhưng nụ cười quái gỡ và thái độ
kỳ dị.
Dần lớn lên, cô bé cũng trở nên khác biệt với những đứa trẻ cùng trang lứa.
Điều này phải chăng đến từ nguyên nhân mà cô bé đến với thế gian – một kết
quả của tội lỗi? Pearl là kết quả của một hành động bất hợp pháp là ngoại tình.
Pearl ra đời lại tiếp tục là minh chứng cho cái sự bất hợp pháp ấy. Bởi vậy, khi
lớn lên cô bé như một thực thể hồn tồn khác biệt, như là nằm ngồi vịng của
những luật lệ và phép tắt của Thanh giáo. Người ta (và đơi khi có cả Hester)
trơng thấy Pearl như một đứa tiểu quỷ, ln mang trên mình vẻ ngạo mạn, ngạo
mạn một cách hồn nhiên. Tưởng chừng nằm ngoài mọi thứ nhưng Pearl lại là
sợi dây gắn kết Hester và Dimmesdale, là hiện thân duy nhất cho tình yêu của
họ. Cô bé luôn gặng hỏi mẹ về người cha của mình. Mỗi lần nhìn thấy Pearl thì
Hester cũng khơng khỏi nghĩ về Dimmesdale, điều đó khiến chị càng thêm
12
thống khổ. Mà nỗi khổ ấy khác với chữ A màu đỏ trên ngực, đó là nỗi khổ mà
ngươi ta bắt chị phải chịu, bắt chị phải khổ nhưng chưa chắc vì nó mà chị khổ.
Nỗi khổ thực sự chính là bí mật chị phải chơn giấu, chính là những hy sinh
cùng sự dằn vặt với cô con gái. Và thế là một chữ A khác đã song song cùng
chữ A trên ngực sống chung với chị: Pearl.
Tuy nhiên, như một điềm báo, chi tiết bé Pearl lấy mớ rong biển tạo thành
“vật trang trí” giống mẹ: “một chữ cái – chữ A – nhưng không đỏ mà lại
xanh” . Phải chăng đây chính là hy vọng về một cuộc sống khác, được gửi gắm
trong Pearl, cô con gái đã tưới mát tâm hồn Hester? Cho đến ngày Dimmesdale
thú nhận tội lỗi và ra đi trong vòng tay hai mẹ con Hester thì cái chữ A màu đỏ
hiện hữu trên người Pearl cũng biến mất, Pearl sẽ là một cô gái hạnh phúc,
không phải một tiểu quỷ làm Hester thống khổ, cũng không phải là kết quả của
một tội lỗi nữa.
1.2.3. Chữ A màu đỏ của Dimmesdale
Ngoài nhân vật Hester, biểu tượng chữ A màu đỏ còn xuất hiện trên ngực
chàng mục sư Dimmesdale “một dấu đỏ tươi trên bộ ngực phanh trần của
mình, ngay đúng chỗ trái tim”. Đó là chữ A chính anh tạo ra với mong muốn
cùng Hester chia sẻ nhng nỗi khốn khổ mà chị phải trải qua và anh chính là
ngun nhân đã góp phần gây nên nỗi ơ nhục cho tội ngoại tình đó. Cũng có
thể nói, chữ A trên ngực chàng Dimmesdale là một cách thức giúp anh ít nhiều
xoa dịu nỗi dằn vặt cùng sự tổn thương sâu sắc mỗi ngày trong tâm trí mình. Sự
giày vị, hối hận thơi thúc anh thú tội nhưng khơng đủ dũng khí. Khác với hành
động của Hester khi cố gắng nén lại những cảm xúc và gắng tạo cho bản thân
một tinh thần mới để đối mặt với thực tại, Dimmesdale lại dùng những lời ám
chỉ để phê phán bản thân nhưng sự việc trớ trêu khi anh càng phê phán thì mọi
người lại càng kính nể khiến anh ngày thêm khổ sở mà tự ghê tởm chính mình.
Sự xuất hiện của tất cả chữ A trong tác phẩm của Hawthorne tùy theo
không gian và thời gian mà ý nghĩa của nó cũng mang những thông điệp khác
nhau. Chữ A ban đầu mà Hester phải mang trên mình được xem như một thứ
bùa phép, kéo chị ra khỏi môi trường sống và tách biệt chị vào một thế giới
13
chịđộc mà ở đó Hester phải chấp nhận những ánh nhìn nghiêm nghị, xa lánh
ghê sợ của người xung quanh. Mọi tội lỗi đều đổ dồn vào chữ A, đổ dồn lên
đầu người đàn bà yếu đuối mang chữ A màu đỏ cho tội ngoại tình của mình.
Đến tận cùng của sự ô nhục, chữ A lại trở thành biểu tượng cho lòng nhân ái
của Hester sau những năm tháng sống cuộc đời thanh bạch và đức hạnh. Về
sau, chữ A đối với Hester và Dimmesdale tượng trưng cho nguồn an ủi mà theo
Hawthorne chữ A trước ngực họ có ý nghĩa như thánh giá trên ngực của các tín
đồ Thanh giáo. Mở rộng hơn nữa là chữ A màu xanh - sự sống của Pearl nảy
sinh từ chữ A màu đỏ tội lỗi của Hester cùng Dimmesdale. Đồng thời, chữ A
thiên thần xuất hiện trong tác phẩm có lẽ là sự tượng trưng cho điềm may mắn
và giải thoát những con người khốn khổ.
2. Quyền lực Thanh giáo trong tác phẩm
2.1. Khái niệm Thanh giáo
Chi tiết chữ A xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết Chữ A màu đỏ như minh
chứng cho vai trò trung tâm của Thanh giáo xuyên suốt tác phẩm. Theo dòng
lịch sử, văn học Mỹ bản địa đa dạng với các thể loại truyền khẩu nhưng văn
học thành văn lại khá hiếm hoi. Đến khi người những người châu Âu đặt chân
vào vùng đất này vào những năm 1600, tiếp tục là những người người Anh đầu
tiên mang lý tưởng khai phá, biến Mỹ trở thành “New England”, nền văn học
thành văn bắt đầu ra đời. Nơi mẫu quốc, nước Anh cuối thế kỷ XVI, một
khuynh hướng tơn giáo mới được hình thành: Thanh giáo. Thanh giáo
(Puritanism) là một nhánh của Cơ đốc giáo, dựa trên thuyết Thần học Calvin,
gồm những tín đồ muốn tách khỏi sự độc đoán của giáo hội Anh. Những giáo
đồ Thanh giáo (Puritans) cho rằng giáo hội Anh đã giữ lại q nhiều nghi thức
của Cơng giáo La Mã, tín đồ cần tập trung vào Kinh thánh hơn là việc thực
hiện những nghi lễ cầu kỳ. Hơn nữa, những Puritan cho rằng nhà nước khơng
có quyền kiểm sốt hoặc dùng tơn giáo như một cơng cụ phục vụ chính trị. Ban
đầu, thuật ngữ Thanh giáo được dùng như một cách gọi nhạo báng với những
người chống lại cuộc cải cách tơn giáo. Một số tín đồ quyết định đi đến vùng
đất mới, nơi họ có thể tự do thực thành tôn giáo mà không bị bất kỳ ràng buộc
14
nào. Đó là nhóm người Anh di cư đầu tiên đến Bắc Mỹ. Họ thường đi theo đơn
vị gia đình và họ cũng cho rằng gia đình là hạt nhân trong hệ thống tôn ti trật tự
của xã hội (Gia đình – Hội thánh – Cộng đồng).
Những người Anh di cư đầu tiên ra đi với mong muốn tìm về một vùng đất
hứa, họ khơng dự trù rằng mình sẽ là chủ nhân tương lai của nước Mỹ. Đa phần
trong số họ là các tín đồ Thanh giáo, là lực lượng tinh tuyển, có học thức để có
thể luận giải Kính Thánh. Họ gọi Bắc Mỹ là Tân thế giới – New England,
chứng tỏ từ trong thâm tâm, họ vẫn xem nước Anh là mẫu quốc, vì thế trong cả
đời sống và văn học thì đều tơ đậm chất “Anh”. Văn học thời kỳ này còn được
xem là một nhánh của văn học Anh mà Thanh giáo là chiếc cầu nối quan trọng.
Họ viết về đời sống tinh thần, đặc trưng là tinh thần Thanh giáo: coi trọng đời
sống tinh thần, đề cao tính tự lực để cải thiện cuộc sống, văn học vì vậy cũng
có phần thực tế. Một số khác lại viết về sự trung thành với nước Anh và giải
thích những cơ hội thuộc địa.
Thời kỳ thuộc địa New England không để lại nhiều thành tựu văn chương
nhưng lại đóng góp khá nhiều ở mảng đề tài và thể loại. Nổi bật nhất chính là
văn chương Thanh giáo. Đến khi Cách mạng Mỹ (1765 – 1783) thành cơng,
một quốc gia mới ra đời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Đây là cuộc cách
mạng về cả chính trị và tư tưởng. Cũng từ đây, những người Anh di cư đã mang
trên mình thân phận mới, họ là công dân Mỹ, tự do và độc lập. Trong bối cảnh
đó, văn học cũng tìm cho mình con đường độc lập, mang bản sắc riêng của dân
tộc mình chứ khơng mang màu sắc Anh nữa. Thời kỳ Khai sáng của văn học ra
đời nhằm chống lại những tư tưởng truyền thống, giáo điều, thay vào đó là
những tri thức khoa học và những đặc quyền tự nhiên của con người. Tiếp theo
là thời kỳ Siêu nghiệm rồi Lãng mạn với những tên tuổi nổi bật. Những tiểu
thuyết Lãng mạn không phải là những câu chuyện tình mà nó tập trung khai tác
bề sâu của tâm lý con người với những nỗi dằn vặt khó nói. Những nhà văn
thời kỳ này thường nhìn về quá khứ, tìm kiếm cái gọi là “truyền thống” đồng
thời nhìn nhận lại nó. Đó cũng là một con đường mà người Mỹ tìm cho mình
một căn tính, cố thốt khỏi cái bóng của mẫu quốc. Những khung cảnh kinh
15
điển về New England thời Thanh giáo đã được Nathaniel Hawthorne dựng lên
trong nhiều tác phẩm của mình. Trong đó có Chữ A màu đỏ.
2.2. Thanh giáo với đời sống con người
Khi luật pháp và tơn giáo hịa làm một
Chữ A màu đỏ chính là biểu hiện trực tiếp nhất của Thanh giáo trong tác
phẩm. Hester phạm tội ngoại tình, thay vì phải chịu sự trừng phạt của pháp luật
thì chị phải chịu hình phạt của giáo hội. Nói đúng hơn, đây chính là sự thừa
nhận của pháp luật về hình phạt mà cộng đồng Thanh giáo đồng tình áp đặt lên
kẻ phạm tội. Đây là thời đại mà theo như Hawthorne đã viết: “Dù là trường
hợp nào đi nữa, thái độ của công chúng vẫn mang một vẻ trang trọng giống
nhau, vẻ đó thật thích hợp với những con người xem tôn giáo giáo và luật pháp
hầu như chỉ là một, cả hai điều đó hịa lẫn vào tính cách của họ một cách
nhuần nhuyễn đến nỗi các biện pháp xử lý nhẹ nhất và nghiêm khắc nhất đều
được xem là đáng tôn trọng và đáng kinh sợ như nhau”.
Lại bắt đầu từ buổi sớm hơm đó, buổi xét xử Hester. Trong khung cảnh
nhộn nhịp, điều đáng chú ý là những người phụ nữ tập trung rất đông. Họ là
những phụ nữ đang hả hê chờ đợi một người phụ nữ khác bị xử tội. Từ độ tuổi
trẻ trung đến năm sáu mươi tuổi, ai ai cũng thốt ra những lời nhục mạ, chì chiết
Hester. Trước khi chính thức nhận hình phạt “hiện vật” là chữ A, Hester đã
nhận một thứ hình phạt vơ hình – sự ghẻ lạnh và cay nghiệt đến từ những người
cùng là phụ nữ: “Ả làm nhục cho cánh đàn bà chúng ta, bắt ả phải chết. Phải
chăng khơng có điều luật nào về vấn đề này? Có chứ, cả trong Kinh thánh, cả
trong bộ luật! Để rồi xem!”. Sự đồng cảm là cái đáng lẽ phải có ở những con
người này, nhưng từ lâu, cái giáo lý khắc nghiệt của Thanh giáo đã ăn mịn đi
nó, giam hãm cái chất “người” vốn có, biến họ thành những sinh vật chỉ biết
tuân theo những luật lệ phi nhân tính, vơ cảm với đồng loại.
Lấy gia đình làm đơn vị của trật tự tơn ti xã hội, cộng đồng Puritan đề cao
vai trò của nam giới và những người mang quyền lực thống trị còn địa vị của
phụ nữ thường thấp hơn hẳn. Trong tác phẩm, ta dễ dàng nhận ra ngài Thống
đốc, Đức cha Wilson hay Mục sư Dimmesdale là những người chịu trách
nhiệm việc giám sát Hester Prynne. Từ việc xét xử cô tại bục tội hình hay quan
16
sát đời sống sau khi ra tù thì Hester ln chịu sự đàn áp của nam quyền và
quyền lực tôn giáo. Họ địi cướp đi bé Pearl nếu cơ bé không vượt qua bài kiểm
tra giáo dục Cơ đốc, họ gọi Hester là “ả giang hồ áo đỏ”, là “mụ Babylon”.
Bằng thứ quyền lực tôn giáo đáng ghê rợn, người ta muốn đưa một đứa trẻ non
nớt tách khỏi mẹ nó, chỉ để chắc chắn rằng nó sẽ tiếp thu được những giáo lý
khắc nghiệt chứ khơng phải tình u (bị cho là tội lỗi) từ mẹ nó.
Khi tơn giáo biến thành ngục tù
Ta có thể thấy rõ tần suất xuất hiện dày đặc của Thanh giáo trong tác phẩm:
xuất hiện trực tiếp ở 20/24 chương. Điều đó cho thấy độ bao phủ của nó trên cả
bề nổi (chữ viết) và cả đời sống nhân vật. Trong không gian chữ viết, Thanh
giáo là một tấm nền (background) hay nói đúng hơn, nó chính là chủ đề
(theme) của tịa bộ tác phẩm. Trong không gian đời sống nhân vật, Thanh giáo
như một nhà tù, giam hãm cả đời sống tinh lần lẫn đời sống vật chất của con
người.
Bảy năm về trước, Hester hồn tồn có thể rời khỏi Boston, nhưng chị chọn
ở lại. Dù đây là quyết định của bản thân Hester – bằng một lý trí sáng suốt
nhưng tại sao chị lại chọn ở lại? Đúng là vì cơ muốn chứng tỏ khơng ai có thể
dùng chữ A đó để định danh mình, nhưng vì sao chị phải chứng tỏ? Đó là vì
thiết chế của Thanh giáo đã gán chữ A đó cho Hester, đã giam hãm cuộc đời
người phụ nữ này. Vậy nên, hành động ở lại của Hester vừa là chủ động, vừa là
bị động. Bảy năm về sau, Hester lại một lần nữa chọn ở lại (dù trước đó chị lóe
lên ý nghĩ rời đi). Chị ở lại vì khơng muốn để Dimmesdale cơ độc, cũng khơng
muốn Chillingworth có bất cứ cơ hội nào hành hạ thể xác lẫn tinh thần người
mình yêu nữa. Cứ như thế, một lần nữa, Hester Prynne bị giam cầm. Mặc dù
không phải bị giam cầm theo nghĩa đen nhưng có một lực (mà Hawthorne gọi
là lực ly tâm) luôn khiến mọi người xung quanh chị phải tránh ra, làm cho mỗi
nơi chị đứng, dù đơng đúc ra sao cũng có một vòng tròn trống rỗng thần kỳ,
“chữ A màu đỏ đã giam hãm kẻ mà số kiếp buộc phải đeo nó”.
Cịn với Dimmesdale, có lẽ anh cũng bị đưa vào ngục tù này nhưng với một
cách khắc nghiệt hơn Hester Prynne. Bởi chính anh – đáng lẽ là một tên cai
ngục, một người mộ đạo, thực hiện việc truyền dạy Kinh thánh cho con chiên
17
thì lại mang trên người tội lỗi xấu xa đến độ anh cũng khơng thể tha thứ cho
mình. Dimmesdale tự thấy mình là một linh hồn bị ơ nhiễm nhưng anh lại phải
giảng đạo cho dân chúng, càng giảng lại càng được kính mến thì chẳng phải
đây là một trị cười sao? “Một linh hồn bại hoại như linh hồn anh thì làm sao
có thể đem lại được cái gì cho sự cứu rỗi những linh hồn khác?”. Ngay lúc
người phụ nữ anh yêu nhất đứng trên bục tội hình, chịu sự nhục mạ mà đáng lẽ
anh cũng phải chịu thì Dimmesdale lại làm nhiệm vụ khun nhủ cơ nói ra sự
thật. Hester càng cố giấu giếm thì thâm tâm Dimmesdale càng vụn vỡ. Đây
chính là hình phạt tàn nhẫn mà ngục tù ấy mang lại cho anh chàng. Thậm chí,
chàng mục sư cịn thốt lên rằng: “Sung sướng thay cho em, Hester, đã được
mang chữ A màu đỏ công khai trên ngực. Còn chữ A màu đỏ của anh thì lại
nằm trong vịng bí mật, âm thầm thiêu đốt anh”. Con người khi đứng trước
những sự lựa chọn luôn trở nên bối rối và yếu đuối đến lạ lùng, nhất là với
Dimmesdale, khi anh chọn một bên nào thì anh sẽ lập tức có lỗi với bên cịn lại.
Những điều trên là sự áp bức, mà như lẽ thường ta vẫn nói, có áp bức thì sẽ
có đấu tranh. Cuộc gặp gỡ trong rừng giữa hai nhân vật chính, đi đơi với đó là
hành động phá bỏ lời hứa với Chillingworth của Hester, việc Dimmesdale
không ngừng xuất hiện những ý nghĩ và lời nói trái với vị trí của một mục sư,
… đã thể hiện tiếng nói phản kháng trước sự uy hiếp của những thế lực hữu
hình và vơ hình. Cuối cùng, cả Hester Prynne và Dimmesdale đã dũng cảm phá
vỡ cánh cửa ngục tù: họ chọn cách cơng khai bí mật với cơng chúng.
Dimmesdale trút hơi thở cuối cùng một cách thật nhẹ nhàng và hạnh phúc bên
đứa con gái, bên người phụ nữ mình yêu. Cũng kể từ đó khơng cịn ai nhìn
Hester với ánh mắt kỳ thị dành cho kẻ tội đồ nữa. Ngục tù của cặp đôi này đã
được phá bỏ nhưng ngục tù của những số phận khác có cịn khơng, họ có phải
bỏ nó khơng, lại là một câu hỏi lớn.
3. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật
3.1. Đối thoại
Trong tiểu thuyết “Chữ A màu đỏ”, bốn nhân vật Hester Prynne - Arthur
Dimmesdale - Roger Chillingworth - Pearl cùng gắn chặt với nhau trong cái
mạng tơ vò của một cảnh huống cuộc đời dường như khơng thể nào có giải
18
pháp và tác giả đã cố gắng thâm nhập vào tầng sâu kín nhất của từng nhân vật
để thể hiện những ẩn ức, dằn vặt của họ trước những lựa chọn của đời sống:
tình yêu – danh dự, tình mẫu tử - danh dự, tha thứ - thù hận, nổi loạn – buông
bỏ,… Với Hester, người phụ nữ không quyền lực, khơng địa vị, lại càng khơng
có tiếng nói thì khi đối thoại, hoặc là bị lép kẹp vì sợ hãi, hoặc là những lời
đanh thép, kiên cường. Người phụ nữ ấy đã chọn cho mình sự mạnh mẽ để đối
chọi với xã hội nghiêm khắc, giáo điều. Cũng chính nhờ những màn đối thoại
đã phản chiếu rõ nét tâm trạng đầy đau khổ, buồn tủi, mặc cảm tội lỗi, sự bất
kham của Hester và tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy đầy tinh tế của Nathaniel
Hawthorne.
Mở đầu tác phẩm, Hester Prynne xuất hiện vô cùng đặc biệt, một người đàn
bà thị dân đẹp, hết sức quyến rũ mà theo như tác giả nhận xét, chị có dáng vẻ
như một phu nhân trang trọng và đường hoàng, nhất là khi vừa bước ra khỏi
cửa nhà tù. Giữa muôn ánh nhìn ghẻ lạnh, khinh bỉ, mặc cho mục sư Wilson
gay gắt tra hỏi tên nhân ngãi, chị vẫn đanh thép lên tiếng bảo vệ người tình của
mình: “Khơng! Khơng đời nào!... Ơi! Giá mà tơi có thể chịu đựng hộ nỗi đau
của người ấy, cũng như nỗi đau của tôi.” Hester đã lựa chọn hi sinh danh dự
bản thân để bảo vệ tình u của mình. Chứng kiến đơi mắt sâu thẳm và u buồn
của chàng mục sư trẻ Dimmesdale, khi mà phẩm giá bị chà đạp vì tội lỗi và vì
nỗi ơ nhục cịn mới ngun, Hester đã thống khổ nhẫn nhục chịu đựng sự
khinh bỉ và bất chấp tất cả, mù quáng thà chấp nhận giữ cái dấu A sỉ nhục để
dành trọn niềm tin chân thành cho tình u của đời mình. Chị dứt khốt nhận
mọi tội lỗi về phía mình để bảo tồn danh tiếng và sự nghiệp của người đàn
ông cùng chị sa ngã.
Bước ra ánh sáng từ những lầm lỗi và một chữ A trước ngực, Hester thu
mình trong xã hội đã nhẫn tâm ruồng bỏ chị. Người đời cứ mãi vạch ra mà đay
nghiến vết thương cũ mà như mới nguyên của chị. Ý thức hối lỗi đã thôi thúc
Hester dành thời gian để giúp những kẻ bất hạnh còn khổ hơn chị, tạo ra những
quần áo đơn giản thô sơ cho người nghèo. Những cuộc đối thoại với xã hội
chung quy chỉ đem lại cho chị cảm giác cô độc đến lạc lồi nên Hester ít giao
tiếp hơn, hay đơn giản vì chị khơng có tiếng nói, quyền lực gì cả. Với Hester,
19
Pearl là điểm tựa, là mối quan hệ xã hội duy nhất. Và nếu phải lên tiếng thì
cũng chính để bảo vệ bé Pearl khi có ai muốn tách đứa trẻ ra khỏi chị. Hester
kêu to: “Chúa đã cho tôi đứa con này! Nó là hạnh phúc của tơi. Tuy nhiên, nó
lại là nỗi giày vị hành hạ tơi. Pearl giữ cho tơi cịn sống được trên đời. Nhưng
Pearl cũng trừng phạt tơi nữa… nó chính là chữ A màu đỏ mà tơi chỉ có thể
u thơi… Nhất định các ngài sẽ khơng bắt nó đi được! Thà tơi chết!” Tình
mẫu tử thiêng liêng có lẽ là lẽ sống duy nhất cho cuộc sống của Hester được
tiếp tục đến hiện tại. Tách đứa con mà Chúa gửi chị chăm nom nghĩa là tước đi
tia hy vọng sống mà ròng rã bao năm qua chị nuôi dưỡng, bảo vệ. Pearl là sản
phẩm cho tội lỗi của chị, nhưng cũng chính là ánh sáng phát ra từ “hạt ngọc
trai” và soi sáng phần hồn Hester.
Đoạn đối thoại với lão thầy lang Chillingworth, Hester vơ cùng bình thản
đáp lại lời của hắn về việc bỏ cái dấu chữ A trước ngực: “Bỏ cái dấu này đi hay
không chẳng phải là việc các quan tịa tùy thích muốn hay khơng muốn mà
được. Nếu tơi xứng đáng được giữ nó đi, thì tự nó sẽ mất đi, hoặc biến thành
một cái gì đó nói lên một ý nghĩa khác.” Đối với chị, cái chữ A kia khơng thể
định nghĩa được con người chị, và nó tồn tại để nhắc chị chuộc lỗi và sống sao
cho xứng đáng. Rõ ràng, tâm lí của Hester đã mạnh mẽ gấp bội so với lần gặp
lão ở ngục tù. Chị đanh thép, lãnh đạm phản bác lão mà không cịn sợ hãi, chị ý
thức được mình đã leo lên một điểm cao hơn, có thể đương đầu với lão già tai
quái ấy. Trái lại, lão Chillingworth thì dần sa đọa, vì âm mưu báo thù cay độc
của lão. Tận mắt thấy sự thay đổi kinh ngạc ấy, Hester vừa thương hại lão, lại
vừa tự trách mình…
“Ai đã làm cho tơi thành ra như vậy?
Tơi!... - Hester rùng mình kêu lên - Chính tơi! Khơng kém gì anh ta đâu!”
Hay tình huống đối thoại của Hester với Dimmesdale giữa khu rừng u ám
có ý nghĩa tác động mạnh vào tư tưởng và tinh thần của chàng mục sư. Anh
như được cứu chuộc, xoa dịu tâm hồn, tìm thấy chút ánh sáng le lói của tình
thương và sự đồng cảm của con người sau bảy năm giam mình trong khn
khổ giáo lý.
Anh lẩm bẩm nhắc lại: - “Một mình đơn độc, Hester!”
20