Tæng quan
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009 3
ts. nguyÔn quèc hoµn *
ỗi quốc gia ASEAN với những đặc
điểm riêng về lịch sử, truyền thống,
địa lí, thành phần dân cư, trình độ phát triển
kinh tế, chính trị, tôn giáo… là nền tảng tạo
nên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp
luật cho khu vực này. Tuy nhiên, trong sự đa
dạng đó vẫn có những điểm tương đồng nhất
định. Sự giao lưu và tiếp biến giữa các nền
văn hoá, những điểm tương đồng về lịch sử,
truyền thống dân tộc của các quốc gia trong
khu vực đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ
thống pháp luật ở khu vực này có những
điểm giống nhau. Hơn thế, chúng ta không
chỉ tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa các
hệ thống pháp luật này mà còn tìm thấy
nhiều điểm tương đồng giữa chúng với các
hệ thống pháp luật bên ngoài khu vực Đông
Nam Á.
(1)
Nếu dựa vào cách phân loại của
các học giả luật so sánh trên thế giới, chúng
ta sẽ thấy việc xác định dòng họ của các hệ
thống pháp luật ở các nước ASEAN khá thú
vị. Theo đó, phần lớn hệ thống pháp luật của
các quốc gia này chứa đựng các yếu tố của
hai hoặc nhiều dòng họ pháp luật. Nói cách
khác, pháp luật các nước ASEAN chứa đựng
tất cả những yếu tố của các dòng họ của các
hệ thống pháp luật trên thế giới.
1. Dòng họ Civil law ở các nước ASEAN
Civil law được tiếp nhận ở nhiều nước
ASEAN chủ yếu gắn liền với quá trình xâm
chiếm thuộc địa của các nước châu Âu lục
địa đối với các quốc gia này. Trừ Thái Lan,
các nước ASEAN khác có hệ thống pháp
luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil law là
Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia và
Philippines đều đã từng là thuộc địa của các
nước thuộc lục địa châu Âu là Pháp, Hà Lan,
Tây Ban Nha.
Việt Nam, Lào và Campuchia là những
nước thuộc địa của Pháp trong thời gian dài
trước khi giành được độc lập. Chính sách
thuộc địa của Pháp ở Đông Dương đã làm
cho hệ thống pháp luật của ba nước này tiếp
nhận pháp luật của Pháp theo cách thức bắt
buộc. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong thời kì
Pháp thuộc, bên cạnh hệ thống pháp luật của
các hoàng đế Nam triều, các toà án của Pháp
vẫn áp dụng pháp luật của Pháp đối với
“người Pháp và những ngoại kiều được biệt
đãi như người Pháp, người Việt Nam sinh ra
ở vùng đất thuộc địa, dù đang sống ở đâu
trên đất Việt Nam”.
(2)
Ngay cả sau khi đã
giành được độc lập và thậm chí đã xây dựng
hệ thống pháp luật theo mô hình pháp luật
XHCN như ở Việt Nam và Lào, những nhân
tố của hệ thống pháp luật Pháp về kĩ thuật
pháp lí, hệ thống khái niệm cơ bản và cấu
trúc của pháp luật vẫn tiếp tục được duy trì.
Indonesia là quốc gia trong khu vực nằm
dưới sự cai trị của Hà Lan hơn 300 năm (từ
cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII).
Người Hà Lan tiến hành thuộc địa hoá quần
M
* Trường Đại học Luật Hà Nội
Tæng quan
4 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009
đảo Indonesia lần đầu trong khoảng 200 năm.
Sau đó vùng đất này được chuyển giao cho
người Pháp khi quân đội của Napoleon
Bonaparte lật đổ chính phủ Hà Lan. Sau gần
10 năm dưới sự cai trị của người Pháp và 4
năm dưới sự cai trị của người Anh đầu thế kỉ
XIX, Indonesia lại chịu sự kiểm soát của Hà
Lan lần thứ hai trong suốt hơn 100 năm
(1816-1942) đến khi quân đội Nhật Bản xâm
chiếm vùng đất này trong Đại chiến thế giới
lần thứ II. Quá trình thuộc địa hoá của các
nước này đã làm cho pháp luật Indonesia bị
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi pháp luật châu Âu
lục địa, đặc biệt là pháp luật của Hà Lan.
Nhiều đạo luật của Indonesia được xây dựng
dựa vào luật của Hà Lan, chẳng hạn pháp
luật thương mại của Indonesia chịu ảnh
hưởng rất lớn từ Bộ luật thương mại năm
1847 của Hà Lan.
(3)
Gần 4 thế kỉ (từ năm 1521 đến 1898) là
thuộc địa của người Tây Ban Nha đã làm
cho hệ thống pháp luật Philippines chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi civil law của hệ thống
pháp luật châu Âu lục địa. Pháp luật của Tây
Ban Nha đã được áp dụng ở Philippines thông
qua các sắc lệnh của Hoàng gia Tây Ban Nha
hoặc thông qua việc ban hành các đạo luật
dành riêng cho quần đảo này hoặc các đạo
luật được áp dụng chung cho tất cả các vùng
thuộc địa của Tây Ban Nha. Nhiều bộ luật của
Tây Ban Nha có hiệu lực ở Philippines như
Bộ luật hình sự năm 1870, Bộ luật thương
mại năm 1886, Luật về hôn nhân năm 1870…
Thái Lan là quốc gia duy nhất trong các
nước ASEAN không trải qua chế độ thuộc
địa. Tuy nhiên, trong suốt thế kỉ XIX, để duy
trì chủ quyền lãnh thổ của mình, Thái Lan đã
kí kết hàng loạt các hiệp định song phương
với các quốc gia phương Tây nhằm phát triển
quan hệ thương mại. Các hiệp định song
phương này đã giúp cho Thái Lan mở cửa thị
trường với các nước phương Tây. Sự thay
đổi về thương mại đã kéo theo sự thay đổi về
xã hội và pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp
luật Thái Lan bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là
pháp luật của châu Âu lục địa. Đầu thế kỉ
XX, Thái Lan tiến hành cải cách hệ thống
pháp luật và tư pháp. Người Thái đã tiếp
nhận hệ thống triết lí pháp luật, tổ chức toà
án và tố tụng của pháp luật châu Âu và xem
pháp luật của Pháp, Đức, Thuỵ Sĩ, Anh, Ý và
Nhật Bản là những mô hình cho việc xây
dựng pháp luật của mình. Hàng loạt các bộ
luật của Thái Lan đã được ban hành theo mô
hình pháp luật của các nước này như Bộ luật
hình sự năm 1908, Bộ luật dân sự và thương
mại năm 1925; Bộ luật tố tụng dân sự năm
1933, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1935.
2. Dòng họ Common law ở các nước
ASEAN
Các nước ASEAN có hệ thống pháp luật
chịu ảnh hưởng của dòng họ Common law bao
gồm: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar,
Philippines. Giống như nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ khác trên thế giới, sự ảnh hưởng
của Common law ở các quốc gia Đông Nam
Á chủ yếu gắn liền với quá trình thuộc địa
hoá của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ.
Quá trình thuộc địa hoá của Anh đối với
các vùng lãnh thổ của Malaysia đã tạo điều
kiện cho pháp luật Anh được áp dụng ở đây.
Năm 1786 người Anh thiết lập được sự kiểm
soát đầu tiên ở Penang - vùng lãnh thổ khá
Tæng quan
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009 5
rộng lớn của Malaysia. Sau đó, người Anh
đã từng bước thực hiện sự kiểm soát đối với
các vùng đất khác. Các hiệp ước được kí kết
giữa Anh và Hà Lan (năm 1824 và năm 1891)
cùng với những hiệp ước được Anh kí với
các vương quốc Hồi giáo khác ở vùng đất
này đã giúp cho người Anh dần kiểm soát
được toàn bộ các vùng lãnh thổ của Malaysia.
Gắn liền với quá trình kiểm soát các vùng
lãnh thổ của Malaysia, pháp luật của Anh
được tiếp nhận vào Malaysia bằng nhiều
hình thức khác nhau mà chủ yếu là thông
qua các thẩm phán và các nhà lập pháp.
Theo đó, các thẩm phán áp dụng các nguyên
tắc pháp luật của Anh trong quá trình xét xử
vụ việc, các nhà làm luật khi soạn thảo và
ban hành các đạo luật đã đưa các nguyên tắc
pháp luật đã được các thẩm phán áp dụng
vào trong các đạo luật.
(4)
Ngoài ra, việc các
luật gia được đào tạo theo truyền thống của
Anh và tiếng Anh được xem là ngôn ngữ
phổ biến trong hoạt động của bộ máy nhà
nước cũng là những nhân tố làm cho
Malaysia dễ dàng tiếp nhận pháp luật Anh.
Hệ thống pháp luật của Singapore mang
những đặc điểm của hệ thống pháp luật
Common law bắt nguồn từ lịch sử của quốc
gia này. Từ năm 1919, Singapore bắt đầu
chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh. Trước
khi Văn phòng thuộc địa của Anh ở London
kiểm soát hoàn toàn vùng lãnh thổ Singapore
năm 1867, quốc đảo này đã nằm dưới sự
kiểm soát của chính quyền thuộc địa Anh ở
vùng Bengal
(5)
và chính quyền Ấn Độ (lãnh
thổ thuộc địa của Anh). Vì thế, hệ thống
pháp luật Anh đã được tiếp nhận bằng cả 2
cách trực tiếp và gián tiếp vào hệ thống pháp
luật Singapore. Mặc dù, trong Tuyên bố thứ
hai về nền tư pháp của Hoàng gia Anh ngày
27/11/1826 liên quan đến việc giải tán các toà
án có thẩm quyền xét xử ở Penang và thành
lập toà án mới có thẩm quyền xét xử đối với
toàn bộ Vùng thuộc địa eo biển trong đó có
Singapore, không có điều khoản xác định
pháp luật nào sẽ được Toà án của Vùng thuộc
địa eo biển áp dụng nhưng dựa vào các phán
quyết của Toà án này, từ năm 1835 đến năm
1890, các luật gia của Singapore đã xác định
rằng tất cả các luật của Anh bao gồm common
law, luật công bình và luật thành văn có hiệu
lực ở Anh ngày 27/11/1826 sẽ được áp dụng
ở Singapore. Ngay cả khi đã trở thành quốc
gia độc lập năm 1963, Singapore vẫn tiếp
nhận pháp luật của Anh theo cách riêng của
mình. Ngoài common law, nhiều đạo luật
của Anh vẫn được áp dụng ở Singapore với
những điều kiện nhất định. Điều 5 Luật dân
sự Singapore ban hành năm 1970 thay thế
cho Sắc lệnh năm 1809 đã xác định một số
lĩnh vực thương mại như công ti, ngân hàng,
bảo hiểm hàng hải của Singapore sẽ áp
dụng pháp luật của Anh; Bộ luật tố tụng hình
sự của Singapore cũng xác định pháp luật
của Anh trong những trường hợp nhất định
vẫn tiếp tục được áp dụng ở Singapore. Ngày
12/11/1993, Nghị viện Singapore đã ban
hành Luật về áp dụng pháp luật Anh. Luật
này quy định cụ thể những đạo luật của Anh,
common law và các nguyên tắc công bình
của Anh sẽ được áp dụng ở Singapore với
điều kiện các luật đó phù hợp với hoàn cảnh
của Singapore.
(6)
Brunei bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
hệ thống pháp luật Anh từ năm 1888 khi
Tæng quan
6 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009
Quốc vương của Brunei lúc đó là Hashim
Jalilul Alam Aqamaddin kí hiệp ước với chính
quyền Anh đặt Brunei dưới sự bảo trợ của
Anh mặc dù trước đó, Anh và Brunei đã có
nhiều hiệp ước khác nhau. Đến năm 1908,
một văn bản được Anh ban hành để sửa đổi
các quy định liên quan đến tổ chức và thẩm
quyền của các toà án dân sự và hình sự cũng
như luật về tố tụng được áp dụng ở Brunei.
Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật Anh
có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến Brunei.
Ngày nay, theo Luật áp dụng của Brunei
được ban hành năm 1951, sửa đổi năm 1984
và 2009 vẫn xác định Brunei tiếp tục áp dụng
common law, luật công bình và các luật
thành văn được áp dụng chung của Anh nếu
chúng không trái với điều kiện và hoàn cảnh
của Brunei.
(7)
Như vậy, cả trong lịch sử và
hiện tại, hệ thống pháp luật Brunei chịu ảnh
hưởng rất lớn của hệ thống pháp luật Anh.
Hệ thống pháp luật Myanmar bắt đầu
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi common law
của Anh từ năm 1824 khi kết thúc cuộc chiến
tranh lần thứ nhất giữa Anh và Myanmar
(khi đó quốc gia này có tên là Burma). Sau
cuộc chiến tranh này, hai vùng lãnh thổ của
Myanmar là Rakhine và Taninthayi bị người
Anh thôn tính và nằm dưới sự kiểm soát của
Anh. Sau cuộc chiến tranh lần thứ hai với
Myanmar năm 1852, người Anh kiểm soát
thêm hai vùng lãnh thổ khác là Bago và
Moat-ta-ma. Để cai quản vùng đất đã chiếm
được, người Anh xây dựng hệ thống quản lí
của Anh và các quy định của pháp luật Anh
được áp dụng trong việc quản lí thành phố
nơi có cung điện triều đại vua cuối cùng của
Myanmar.
(8)
Đến năm 1886, toàn bộ các vùng
lãnh thổ của Myanmar nằm trong sự kiểm
soát của người Anh và để cai quản vùng đất
này, người Anh đã xác lập Myanmar thành
một tỉnh của Ấn Độ (khi đó là vùng thuộc
địa của Anh) dưới sự kiểm soát của Toàn
quyền Ấn Độ. Pháp luật Anh ở Ấn Độ đã
được áp dụng đối với “tỉnh” Myanmar. Tình
trạng này kéo dài đến năm 1935 khi
Myanmar được tách khỏi Ấn Độ và chính
quyền thuộc địa Anh thiết lập Myanmar trở
thành vùng lãnh thổ thuộc quyền cai trị trực
tiếp của Anh thông qua Toàn quyền ở
Myanmar. Myanmar là thuộc địa của Anh
cho đến khi giành được độc lập năm 1948.
Trong thời kì này, giống như nhiều vùng thuộc
địa khác của Anh, Hội đồng cơ mật (Privy
Council) được xem là cơ quan xét xử cao
nhất của Myanmar. Vì thế, các phán quyết
của cơ quan này ảnh hưởng mạnh mẽ đến
pháp luật của Myanmar. Sự ảnh hưởng của
hệ thống pháp luật Anh trong suốt thời kì từ
nửa đầu thế kỉ XIX đã làm cho các nhân tố
của common law thẩm thấu vào hệ thống
pháp luật của Myanmar trong quá trình phát
triển lịch sử của nó cho đến ngày nay.
(9)
Sự kiểm soát của Mỹ đối với quần đảo
Philippines theo hiệp ước Tây Ban Nha và
Mỹ được kí kết tại Paris ngày 10/12/1898 đã
từng bước làm thay đổi hệ thống pháp luật
của Philippines cho dù trước đó, hệ thống
pháp luật của Tây Ban Nha đã có ảnh hưởng
khá sâu sắc với hệ thống pháp luật của nước
này. Các luật lệ của người Philippines dần
dần bị bãi bỏ, pháp luật của Tây Ban Nha
đối với vùng lãnh thổ này cùng với các tập
quán ở đây cũng bị thay thế nếu các quy
định của nó trái với Hiến pháp Mỹ, các
Tæng quan
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009 7
nguyên tắc pháp luật và các thể chế của Mỹ.
Hàng loạt các đạo luật về tổ chức nhà nước
được ban hành… Sự kiểm soát của Mỹ đối
với Philippines đã làm cho hệ thống pháp
luật của nước này chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật Mỹ. Những nhân tố cơ bản
của dòng họ Common law đã từng bước được
tiếp nhận vào hệ thống pháp luật Philipines.
Việc áp dụng án lệ, vai trò của Hiến pháp
Philippines có những điểm rất tương đồng
với hệ thống pháp luật Mỹ ngoài những đặc
tính của hệ thống pháp luật Tây Ban Nha đã
được tiếp nhận ở nước này trong suốt gần
400 năm trước đó nằm dưới sự cai trị của
người Tây Ban Nha.
3. Dòng họ pháp luật xã hội chủ nghĩa
ở các nước ASEAN
Dòng họ pháp luật XHCN cũng hiện
diện trong các nước ASEAN ngay sau Đại
chiến thế giới lần thứ II. Ngoài Việt Nam và
Lào, hai hệ thống pháp luật khác là Myanmar
và Indonesia cũng đã có những nhân tố nhất
định của dòng họ pháp luật XHCN trong lịch
sử phát triển của mình.
Việt Nam được xem là đại diện điển hình
của hệ thống pháp luật XHCN đã và đang
tồn tại ở Đông Nam Á. Sau khi giành được
độc lập từ năm 1945 và đặc biệt là sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Việt Nam
đã bắt đầu xây dựng mô hình hệ thống pháp
luật XHCN ở miền Bắc với việc học tập mô
hình pháp luật của Liên Xô và các nước
XHCN ở giai đoạn này, “cùng với sự kế
thừa pháp luật thời chiến của giai đoạn
trước với một vài nhân tố chịu ảnh hưởng
của Pháp, tư tưởng pháp luật XHCN và mô
hình pháp luật XHCN từng bước được áp
dụng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc”.
(10)
Quan điểm xây dựng hệ
thống pháp luật XHCN tiếp tục được thực
hiện sau khi hoàn thành công cuộc thống
nhất đất nước về mặt lãnh thổ.
Hệ thống pháp luật của Lào có rất nhiều
điểm tương đồng với hệ thống pháp luật Việt
Nam. Đặc biệt từ năm 1975, sau khi chế độ
dân chủ nhân dân được xây dựng thay thế
cho chế độ quân chủ trước đó, hệ thống pháp
luật của Lào được xây dựng theo mô hình
pháp luật của Liên Xô và của Việt Nam.
Cuối những năm 80 và đầu 90 của thế kỉ
trước, Nhà nước Lào đã thực hiện chính sách
cải cách trong đó có cải cách hệ thống pháp
luật. Tuy vậy, những nhân tố cơ bản của hệ
thống pháp luật XHCN vẫn được duy trì
trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào. Những cải cách pháp luật
của Lào trong giai đoạn vừa qua cũng được
thực hiện trên cơ sở kinh nghiệm cải cách
pháp luật của Việt Nam.
Trong lịch sử phát triển của Myanmar,
sau khi giành được độc lập kể từ năm 1948,
thời kì từ năm 1962 đến năm 1988, các nhà
lãnh đạo Myanmar chủ trương xây dựng mô
hình XHCN cho quốc gia này. Mặc dù không
giống hoàn toàn với các hệ thống pháp luật
XHCN khác nhưng nhiều chính sách của
chính phủ mà đứng đầu là Tướng Ne Win đã
được thực hiện theo mô hình pháp luật
XHCN. Theo đó, Tướng Ne Win đã tạo ra hệ
thống chính trị được gọi là “Con đường lên
chủ nghĩa xã hội của Burma”, nhà nước pháp
quyền mới được xây dựng theo hệ tư tưởng
XHCN.
(11)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Chương trình XHCN Burma, hệ thống
Tæng quan
8 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2009
thương mại và công nghiệp của Burma đã
được quốc hữu hoá. Điều này đã được thể
hiện trong quá trình phát triển của hệ thống
pháp luật nước này. Từ năm 1962 - 1974 đã
có 182 đạo luật được ban hành. “Trong thời
kì này, các đạo luật không phù hợp với chế
độ XHCN đã bị bãi bỏ và các đạo luật góp
phần cho định hướng của chế độ đã được
ban hành”.
(12)
Đáng chú ý là Luật phòng chống
sự vi phạm việc thiết lập hệ thống kinh tế
XHCN năm 1964 và Luật trao quyền thành
lập hệ thống kinh tế XHCN năm 1965.
Trong Lời nói đầu và Điều 1 Hiến pháp năm
1974 của Myanmar khẳng định rõ Myanmar
là nhà nước XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Chương trình XHCN Myanmar.
Indonesia dưới thời kì lãnh đạo của
Sukarno (1957 - 1965) cũng tiếp nhận những
quan điểm nhất định của hệ thống pháp luật
XHCN. Đặc biệt, Tổng thống Sukarno sau
cuộc viếng thăm Trung Quốc tháng 10/1956
đã tuyên bố khái niệm về chính quyền mới.
(13)
Theo đó, chính quyền của ông là sự kết hợp
của ba nhân tố: chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo và
chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Indonesia,
Đảng dân tộc Indonesia đã ủng hộ mạnh mẽ
quan niệm này. Mặc dù, Đảng chính trị Hồi
giáo phản đối nhưng với sự hỗ trợ của lực
lượng quân đội, ông đã từng bước xây dựng
chính quyền của mình. Cùng với việc xây
dựng chính quyền theo quan điểm của mình,
Tổng thống Sukarno với sự ủng hộ của Đảng
cộng sản đã thực hiện nhiều chính sách pháp
luật XHCN ở Indonesia trong thời kì này.
Chính quyền và chính sách pháp luật của
Sukarno chấm dứt cùng với việc lên nắm
quyền của Tổng thống Suharto từ năm 1967.
4. Luật Hồi giáo ở các nước ASEAN
Đa số các học giả hiện đại cho rằng đạo Hồi
xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á từ khoảng
cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIV.
(14)
Những
quốc gia có nhiều cư dân Hồi giáo là Indonesia,
Malaysia, Philippines, Brunei, Singapore và
Thái Lan. Sự xuất hiện của đạo Hồi đã có ảnh
(Xem tiếp trang 23)
(1).Xem: Andrew Harding, Global doctrine and local
knowlegdge: Law in South East Asia, International and
Comparative Law Quarterly, Vol 15 (2002), p. 40.
(2).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2008, tr. 398.
(3).Xem:
ngày 1/11/2009.
(4).Xem: Abdul Aziz Bari, British Westminster System
in Asia - The Malaysia Variation, US-Chinese Law
Review, Vol 4. No1., p. 4.
(5). Chính quyền thuộc địa của Anh ở Ấn Độ đối với
toàn bộ vùng Bengan.
(6).Xem: Wendy Chang Mun Linh, Law of Singapore,
www.aseanlawassociation.org/papers/sing_chp1.pdf
(7).Xem: Section 2, Chapter 2, Application of Laws
Act of Brunei Darussalam.
(8).Xem: Tun Myint, Evolution of law and legal concept
in Burma: Chanlenges at the Transition, Legal issues on
Burma Jounal, Vol. 20, April 2005, p. 20
(9).Xem: John Southalan, Burma and the Common
Law? An uncommon question, Legal Issues on Burma
Journal, December 2006 (No.25), p. 14 - 24
(10).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Pháp luật
Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển bền
vững, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009, tr. 53.
(11).Xem: Tun Myint, Evolution of Law and Legal
Concept in Burma: Challenges at the Transition, Legal
Issues on Burma Journal, No. 20 – April 2005, p. 27.
(12).Xem: Burma Lawyers’ Council, Brief Survey of
Development of Laws in Burma, Legal issues on
Burma Jounal, Vol. 20, April 2005, tr. 11.
(13).Xem:
Democracy_(1957-1965) ngày 11/11/2009
(14).Xem: Wu Min Aun, The Malaysian Legal System,
Pearson Longman, 2007, p. 177.