Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.06 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài:
Hiện nay quyền con người và đảm bảo thực hiện quyền con người đã
trở thành một vấn đề thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận quốc tế cũng như
tại Việt Nam bởi vì chiến tranh, xung đột, nạn khủng bố, đói nghèo, dịch
bệnh, thiên tai, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia … đang tiếp tục đe dọa đến
quyền sống, quyền phát triển của hàng triệu người trên thế giới. Là một dân
tộc đã trải qua hàng thế kỷ đấu tranh giành độc lập và đang phấn đấu để phát
triển nhanh, mạnh mẽ và bền vững, Việt Nam cho rằng cần phải giải quyết
một cách toàn diện tất cả các quyền con người và hoàn thiện đảm bảo pháp lý
để thực hiện và bảo vệ tối đa các quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Trong các đảm bảo pháp lý về quyền con người, các qui định của pháp
luật về quyền con người có vị trí vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật đảm
bảo và tôn trọng tất cả các quyền con người phù hợp với nguyên tắc và chuẩn
mực quốc tế về quyền con người. Pháp luật cùng với các thiết chế tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước và cơ chế đảm bảo thực hiện tạo thành một
tổng thể hệ thống đảm bảo pháp lý về quyền con người và được đảm bảo thực
hiện trên quy mô toàn xã hội bằng chính quyền lực và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Trong quá trình đổi mới và hội nhập thế giới, thực hiện từng bước có
hiệu quả việc mở rộng, phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, trong bối cảnh quốc tế còn tồn tại nhiều
chế độ chính trị - xã hội khác nhau và vấn đề quyền con người vẫn bị lợi dụng
để thực hiện “chính sách đối ngoại nhân quyền” áp đặt đối với các nước nhỏ
1
và còn nhiều khó khăn như Việt Nam thì càng cần thiết phải nhìn nhận đúng
đắn và có tinh thần xây dựng về vấn đề đảm bảo pháp lý thực hiện và bảo vệ
quyền con người. Việc nghiên cứu thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con
người, đánh giá đúng những thành tựu, ưu điểm; làm rõ những khuyết điểm,


tồn tại đồng thời xác định phương hướng, nội dung tiếp tục hoàn thiện cho
phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay là một yêu cầu khách quan
và cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn:
a. Mục đích
Mục đích của Luận văn là đánh giá quá trình hình thành, phát triển và
thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam. Đồng thời, xác
định những phương hướng, nội dung giải pháp hoàn thiện đảm bảo pháp lý về
quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN).
b. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Khái quát về lịch sử hình thành, nội dung cơ bản của quyền con người;
Làm rõ khái niệm và nội dung đảm bảo pháp lý về quyền con người;
Khái quát lịch sử phát triển các đảm bảo pháp lý về quyền con người ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Phân tích thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người ở nước ta về
các mặt đã đạt được và một số vấn đề đang đặt ra;
- Nêu tính tất yếu phải hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con người;
đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
đảm bảo pháp lý về quyền con người ở nước ta hiện nay.
2
3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn:
Đảm bảo pháp lý về quyền con người là một lĩnh vực rất rộng, liên
quan đến nhiều lĩnh vực khoa học. Luận văn này không có tham vọng giải
quyết tất cả mọi vấn đề mà chỉ tập trung vào một số vấn đề pháp lý cơ bản
nhất là: nghiên cứu đảm bảo pháp lý về quyền con người thông qua các qui
định của pháp luật về quyền công dân và cơ chế tổ chức, hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước để đảm bảo các quyền đó được thực hiện trong
thực tế.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện Luận văn này, chúng tôi vận dụng những quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và về
quyền con người. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ
thống; phương pháp tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh. Các số liệu
minh họa trong Luận văn được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: trong các
báo cáo tổng kết, các bài viết trên các trang thông tin điện tử, các ấn phẩm
chuyên ngành và công cộng
5. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn gồm: Mục lục; Mở đầu; Phần nội dung gồm 3 chương; Kết
luận; Danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể như sau:
Mục lục
Mở đầu
Chương 1. Khái quát về đảm bảo pháp lý về quyền con người
Chương 2. Thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt
Nam
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện đảm bảo pháp
lý về quyền con người ở Việt Nam hiện nay
3
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Tôi xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư - Tiến sỹ Bùi Xuân Đức, các thầy
cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các bạn, đồng
nghiệp, gia đình đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này.
4
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ
ĐẢM BẢO PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Quyền con người và đảm bảo pháp lý về quyền con người

1.1.1. Quyền con người
Quyền con người được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: triết học,
chính trị học, kinh tế học, luật học vì thế nó là khái nhiệm rộng và phức tạp.
Ngay từ thời cổ đại, thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử dụng các quyền
như quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp
luật. Các triết gia thời đó cho rằng, các quyền tự nhiên thuộc sở hữu của tất cả
mọi người. Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII đã hình thành 2 quan
niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất, trường phái pháp luật tự nhiên với các nhà tư
tưởng bậc thầy đại diện tiêu biểu như Spinoza, Locke, Kant, Hobbes xuất phát
từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là
quyền “bẩm sinh”, “đặc quyền” và là “quyền tự nhiên không thể tách rời”,
gắn với cá nhân con người và đặc quyền này do có pháp luật tự nhiên đứng
trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Thuyết pháp luật tự nhiên với quan niệm về
quyền tự nhiên, bẩm sinh của con người đã đã thấm nhuần trong Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền, 1948 và các văn bản pháp lý khác về quyền con
người. Chẳng hạn, Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 khẳng
định: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền”

[21, tr.22];
hay trong Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp, 1789 nhấn mạnh:
“Mục đích của các tổ chức chính trị là việc giữ gìn các quyền tự nhiên và
không thể bị tước bỏ của con người; các quyền này là quyền tự do, quyền sở
hữu, quyền được an toàn và chống áp bức.”

[21, tr.14]
5
Mặc dù, thuyết pháp luật tự nhiên đã xác lập về mặt tư tưởng nguyên
tắc bảo vệ quyền con người trước quyền lực, có giá trị nhân đạo và có ý nghĩa
tích cực trong nhận thức về quyền con người nhưng nếu chỉ quan niệm quyền

con người là quyền tự nhiên, bẩm sinh thì vẫn là quan niệm phiến diện, chưa
đầy đủ về quyền con người. Quan niệm đó đã tuyệt đối hóa quyền con người
với tư cách là quyền của thực thể sinh học - tự nhiên thuần túy từ đó dẫn tới
tuyệt đối hóa cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng xã hội, coi quyền con
người là bất biến, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân
tộc. Quan niệm này cũng phủ nhận tính giai cấp, tính xã hội, tính đặc thù của
quyền con người.
Quan niệm thứ hai đặt con người và quyền con người trong tổng hòa
các mối quan hệ xã hội.
Theo quan niệm này, quyền con người là một giá trị nhân loại. Quyền
con người không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ mang tính
tự nhiên bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột,
chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế và nhất là
của chế độ chính trị, xã hội. Tính đúng đắn của quan niệm này là ở chỗ đã coi
quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng
hòa các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm con người là thực
thể xã hội, quyền con người chỉ là quyền lợi của người với tư cách là thành
viên xã hội thì cũng là phiến diện bởi vì như thế sẽ dẫn đến phủ nhận quyền
con người với tư cách là con người. Từ đó sẽ dẫn đến sai lầm buộc cá nhân
con người phải hòa tan trong xã hội, quyền con người hoàn toàn phụ thuộc và
được định đọat bởi nhà nước. Quan niệm này cũng dẫn đến quan điểm coi
quyền con người chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, không thừa nhận tính phổ
biến của quyền con người.
6
Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được
tính phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người ở các quan
niệm nêu trên.
Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của
tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể
tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người

có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Như vậy,
con người là một thực thể tự nhiên, đồng thời là thực thể xã hội và vì thế
quyền con người về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
C. Mác cho rằng, con người là sản phẩm cao nhất của tiến trình vận
động và phát triển của lịch sử. Vì thế, ngay từ đầu quyền con người là một
thụộc tính tự nhiên. Bản chất đó thể hiện nổi bật ở quyền được sống, quyền tự
do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng
đáng với con người.
Mặt khác, trong mọi trường hợp, con người luôn luôn là động vật xã
hội. Việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt nó
trong quan hệ xã hội bởi vì, chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có
những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ có
trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân. Như vậy, ngoài bản chất tự
nhiên, con người còn mang bản chất xã hội. Quyền con người ngay từ khi có
xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội. Sự
xuất hiện giai cấp, nhà nước cùng với sự xung đột giai cấp là bước ngoặt
trong sự biến đổi tương quan giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của
quyền con người. Trong điều kiện xuất hiện giai cấp và xung đột giai cấp thì
bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp và bản tính tự nhiên của quyền con
người phải chịu sự chi phối của giai cấp giữ địa vị thống trị trong xã hội.
7
Từ sự phân tích về bản chất quyền con người ở trên, có thể thấy nó có
những thuộc tính rất phức tạp và dường như luôn luôn là sự thống nhất giữa
các mặt đối lập, đó là:
- Quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là
cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, quyền con người vừa
mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng.
- Quyền con người vừa là những giá trị vĩnh hằng vừa là những đại lượng
biến đổi gắn với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.

- Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính riêng biệt, đặc thù. Tính
phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người là những giá trị chung, phổ biến
cho tất cả mọi người không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, giai cấp,
địa vị xã hội phản ánh nhu cầu tự nhiên khách quan của con người. Tính
riêng biệt, đặc thù thể hiện ở chỗ quyền con người là những giá trị đặc thù,
riêng có ở mỗi quốc gia, dân tộc do điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống,
văn hóa, đạo đức của quốc gia đó qui định và bị hạn chế bởi các chế định
pháp lý và đời sống thực tế.
- Quyền con người vừa có tính nhân loại vừa có tính giai cấp. Trong xã hội
còn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì quyền và tự do của con người luôn
luôn bị chi phối bởi chính thiết chế tổ chức, chế độ chính trị - xã hội của xã
hội. Mỗi chế độ xã hội trong lịch sử mặc dù in đậm dấu ấn giai cấp trong
vấn đề quyền con người nhưng đều phải thừa nhận những giá trị phổ biến
nhất định của quyền con người và dù muốn dù không cũng đều phải thực
hiện một phần ít hoặc nhiều về quyền con người. Như vậy, trong tư duy
nhân loại về quyền con người thì nội dung của nó tất yếu có hai yếu tố cơ
bản: một là, những nhu cầu, khát vọng và khả năng của con người; hai là,
8
những nhu cầu khát vọng ấy phải được chế độ xã hội và nhà nước, pháp
luật thừa nhận.
- Quyền con người vừa là quyền bình đẳng đối với mọi người, vừa là quyền
ưu tiên đối với những nhóm, giới, những bộ phận nhất định trong xã hội.
Trong xã hội không thể có sự bình quân về quyền như nhau bởi vì mỗi con
người có khả năng khác nhau về trí tuệ, thể chất, hoàn cảnh .v.v. do đó, họ
không thể có khả năng như nhau trong việc thực hiện hay hưởng thụ quyền.
- Quyền con người là một phạm trù pháp lý vì vậy nó gắn liền với một pháp
luật cụ thể, phải được thể hiện trong pháp luật, được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ. Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, là
những đặc quyền vốn có nhưng tự bản thân chúng chưa phải là quyền mà
chúng phải được đặt trong mối quan hệ xã hội và cộng đồng xã hội cùng

với thiết định trật tự của nó. Để trở thành quyền, những quyền và tự do của
con người cần có pháp luật. Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của
con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác
định và mới đảm bảo trở thành hiện thực trong thực tiễn.
Nếu quyền con người gắn với hệ thống pháp luật nhất định thì trong
một quốc gia, quyền con người được thể hiện chủ yếu ở quyền công dân và
được qui định trong Hiến pháp và pháp luật của quốc gia đó. Cần nhận thức
rằng, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân. Không
thể có quyền công dân bên ngoài quyền con người và ngược lại, không thể có
quyền con người mà lại không bao hàm quyền công dân trong đó. Quyền
công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ
xã hội - chính trị nhất định cùng với các điều kiện kinh tế, văn hóa, truyền
thống, lịch sử, các giá trị đạo đức và đặc biệt với một nền pháp luật cụ thể do
nhà nước đó thừa nhận, qui định. Cũng không thể quan niệm một cách trừu
tượng rằng, một cá nhân con người vừa có quyền con người vừa có quyền
9
công dân một cách tách biệt hoàn toàn. Ở mỗi quốc gia, việc ghi nhận và đảm
bảo thực hiện tốt các quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ bản
của quyền con người.
Quyền con người và quyền công dân trong mối quan hệ thống nhất biện
chứng đều ghi nhận các quyền của cá nhân nhưng chúng là những khái niệm
không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội dung. Quyền con người là khái niệm
rộng hơn quyền công dân bởi vì nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền
cá nhân ở phạm vi quốc tế, vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc
gia nhất định. Do vậy, nội dung, số lượng và chất lượng quyền công dân ở
mỗi quốc gia thường không giống nhau. Về phương diện chủ thể, quyền con
người cũng rộng hơn, ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con
người còn bao hàm cả những người không phải là công dân (người nước
ngoài, người không quốc tịch, người bị tước quyền công dân ) và những tập
thể người (giới, nhóm ).

Tóm lại, nhận thức khái niệm quyền con người với đầy đủ bản chất,
thuộc tính của nó như trên cho thấy đây là một khái niệm rất phức tạp và cho
đến nay giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn nhiều
cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người. Quyền con người là một
phạm trù tổng hợp, vừa là chuẩn mực tuyệt đối mang tính phổ biến, vừa là sản
phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát
triển, quyền con người không thể tách rời, đồng thời cũng không hoàn toàn
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội Đồng thời quyền con
người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối quan hệ biện
chứng. Quyền con người, “Đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng
đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền của cá nhân
đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội ” [29]. Trong thời đại ngày nay, quyền con
người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển.
10
Theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, quyền con người:
Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự
nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý
trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác,
mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó. [7, tr.112]
GS. TS. Trần Ngọc Đường đã viết: “Quan niệm nhân quyền vừa khẳng
định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận
thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một
quốc gia, một dân tộc.” [12]
PGS. TS. Nguyễn Văn Động đưa ra một số nhận xét chung về quyền
con người như sau:
a) Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bởi toàn thế giới,
đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá
nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế;
b) Trực tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh

thần của con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí ) và góp
phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, tính
nhân đạo và nhân văn của con người;
c) Các quyền con người tạo thành một hệ thống thống nhất, quan hệ
tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng thời vừa là tiền đề,
điều kiện của nhau, vừa là hệ quả của nhau [10, tr.52]
TS. Trần Quan Tiệp đưa ra định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể
về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự
nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.” [5, tr.14]
11
Nhận thức khái niệm quyền con người còn bao hàm cả việc xác định
nội dung cơ bản của nó. Nội dung cơ bản của quyền con người gắn với lịch sử
đấu tranh cho quyền con người, được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật
quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia, trước hết là trong các Công ước quốc
tế về quyền con người và Hiến pháp, văn bản luật có giá trị cao nhất của mỗi
quốc gia. Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền con người, quyền công dân
được chia thành các nhóm chính như sau:
- Các quyền và tự do dân chủ về chính trị bao gồm: quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ;
quyền tự do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền được thông tin;
quyền được lập hội; quyền biểu tình, bãi công; quyền tự do tín ngưỡng
.v.v.
- Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng và sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an
toàn và bí mật về thư tín, điện thoại; quyền tự do đi lại và cư trú trong
nước; quyền đi ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền khiếu
nại, tố cáo.v.v.
- Các quyền về kinh tế - xã hội bao gồm: quyền lao động, quyền tự do

kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền thừa kế, quyền học
tập, phát minh, sáng chế, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo
hộ hôn nhân gia đình, những quyền mang tính chất ưu tiên như: quyền
trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa .v.v.
Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận
thức đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và
Công ước quốc tế về quyền con người. Đây chính là căn cứ quan trọng nhất
làm cho các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ, trở thành chuẩn mực
12
chung trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân cho từng quốc
gia. Việc ghi nhận và đảm bảo quyền công dân trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người.
1.1.2. Khái niệm đảm bảo pháp lý về quyền con người
Theo cách phân biệt giữa quyền con người và vấn đề đảm bảo pháp lý
về quyền con người thì khái niệm đảm bảo pháp lý về quyền con người là sự
ghi nhận về mặt lập pháp, thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp
của các quốc gia, các thể chế và chế độ chính trị nhất định.
Theo nhận thức chung, đảm bảo pháp lý cho các quyền con người mà
phần quan trọng trong đó là các quyền hiến định của công dân là điều kiện,
môi trường pháp lý thuận lợi do pháp luật tạo ra trên cơ sở hệ chính trị - pháp
lý tiến bộ, để công dân vừa thực sự được hưởng quyền vừa sử dụng đúng
quyền mà hiến pháp đã qui định.
Đảm bảo pháp lý là khái niệm mà nội dung của nó bao quát gần như
toàn bộ đời sống pháp luật của nhà nước và xã hội, trong đó gồm các yếu tố
quan trọng như: qui định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của chủ thể pháp luật
và thủ tục, trình tự thực hiện quyền, nghĩa vụ đó; chủ thể pháp luật mang
quyền, nghĩa vụ pháp lý; hoạt động của chủ thể pháp luật nhằm thực hiện
quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình, yếu tố hệ tư tưởng chính trị - pháp lý của
giai cấp công nhân, văn hóa pháp lý và hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải
thích, giáo dục pháp luật. Ở cấp độ cụ thể, đảm bảo pháp lý có thể được xem

như toàn bộ những tiền đề tư tưởng chính trị - pháp lý và biện pháp pháp lý
thống nhất, nhằm bảo đảm cho con người - công dân được hưởng quyền một
cách đúng đắn trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Xuất phát từ quan điểm hệ thống, những tiền đề chính trị - pháp lý và
biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo các quyền hợp pháp của con người - công
dân trong các lĩnh vực quan hệ xã hội ở Việt Nam do pháp luật điều chỉnh
13
được tập hợp trong một hệ thống thống nhất và có những đặc điểm cơ bản
sau:
Một là, được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đói
nghèo và làm cho con người có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, bình
đẳng, an toàn.
Hai là, xuất phát từ chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế theo
phương châm "tất cả từ con người, cho con người, vì con người"; quyền và lợi
ích chính đáng của con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát
triển.
Ba là, do pháp luật qui định và bảo đảm thực hiện mà nội dung chủ yếu
của nó bao gồm các qui định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể pháp luật;
trình từ, thủ tục, hình thức thực hiện quyền, nghĩa vụ ấy; biện pháp tổ chức
của nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể pháp luật sử dụng
đúng quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ; biện pháp tác động của nhà
nước đối với chủ thể pháp luật khi họ sử dụng không đúng quyền hoặc không
thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ.
Bốn là, xuất phát từ truyền thống đạo đức và văn hóa dân tộc, thấm
đượm tính nhân đạo cao cả, tính nhân văn sâu sắc, được thể hiện không chỉ
trong nội dung pháp luật mà còn ở hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm
tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật.

Năm là, luôn đáp ứng kịp thời, nhanh nhạy những đòi hỏi chính đáng,
nhu cầu thiết yếu, cấp bách về mặt xã hội của con người trong xã hội đang
biến đổi nhanh chóng và phát triển không ngừng, có tính tới khả năng thực tế
của đất nước.
14
Sáu là, luôn phù hợp với các Điều ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện và bảo vệ
quyền con người nhưng để phát huy vai trò quan trọng đó, phải thể chế hóa
quyền con người thành các qui định cụ thể trong hệ thống pháp luật và có cơ
chế bảo đảm cho các qui định đó được thực hiện trên thực tế. Thể chế hóa
quyền con người trong hệ thống pháp luật là tổng hợp các nhiệm vụ: cụ thể
hóa quyền con người thành các quyền, nghĩa vụ cụ thể của công dân và những
người không phải là công dân (người nước ngoài, người không quốc tịch)
hoặc những người đang bị tước quyền công dân; qui định hình thức, biện
pháp xử lý hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân; qui định về tổ
chức, họat động của bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan, tổ chức và cán bộ công chức nhà nước liên quan đến việc thực
hiện và bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng; cụ thể
hóa Công ước quốc tế về quyền con người đã tham gia, ký kết.v.v. Có thể
nhận thức rằng quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế
bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây
dựng đảm bảo pháp lý về quyền con người. Toàn bộ quá trình trên tạo thành
đảm bảo pháp lý về quyền con người.
Từ sự phân tích nêu trên, đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người
được hiểu là: hệ thống các qui định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công
dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ
chế bảo đảm cho các qui định và thiết chế đó được thực hiện trên thực tế.
1.2. Cơ cấu và nội dung của đảm bảo pháp lý về quyền con người
Theo khái niệm trên thì đảm bảo pháp lý về quyền con người có cơ cấu

và bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
15
1.2.1. Đảm bảo quyền con người bằng việc qui định thành pháp luật
Trong các điều kiện, nhân tố đảm bảo thực hiện quyền con người như:
chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục và pháp luật thì pháp luật có vị trí, vai
trò quan trọng hàng đầu. Pháp luật là tiền đề của quyền con người và ngược
lại, quyền con người lại là thước đo, phản ánh nội dung và bản chất tiến bộ
của pháp luật. Hoạt động lập pháp đảm bảo quyền con người là khởi đầu, là
xuất phát điểm và căn cứ pháp lý cho mọi hoạt động bảo vệ tiếp theo. Có thể
nói, quyền con người và pháp luật có mối quan hệ không thể tách rời, bởi vì:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của
quyền con người. Quyền con người được xã hội thừa nhận và bảo vệ, nó là
những giá trị được xã hội hóa và do vậy nó phải thông qua phương tiện pháp
luật, được biểu hiện dưới hình thức pháp luật. Nếu không có sự thừa nhận của
xã hội thông qua pháp luật thì những quyền tự nhiên vốn có của con người
chưa trở thành quyền. Ngược lại, quyền con người khi đã được qui định trong
pháp luật sẽ trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của xã hội, được quyền
lực nhà nước bảo vệ.
Ngay từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, Salon, nhiếp chính quan
người Hy Lạp đã nói: “Ta giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của
pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật” [37, tr.6]. Trong các cuộc
cách mạng tư sản thế kỷ XVII, XVIII những tư tưởng tiến bộ của
Montesquieu, J.Rouseau hay trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền,
1789 của Pháp cũng như trong hiến pháp của nhiều nước sau cách mạng tư
sản đều đề cao vai trò của pháp luật trong việc xác định địa vị pháp lý bình
quyền của công dân, coi pháp luật cao hơn nhà nước. Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền, 1948 của Liên Hợp Quốc cũng khẳng định nguyên tắc “Các
quyền con người phải được bảo vệ bằng luật pháp”. [21, tr.21]
16
Có thể nói, lịch sử quyền con người là lịch sử nhận thức, đấu tranh cho

quyền con người và được thể hiện trong lịch sử lập hiến của mỗi quốc gia
cũng như lịch sử phát triển của các Công ước quốc tế về quyền con người.
Chỉ có thông qua pháp luật, quyền con người mới được xã hội thừa nhận và
bảo vệ, giá trị xã hội của quyền con người mới được ghi nhận một cách đầy
đủ và toàn diện.
Thứ hai, pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện
và bảo vệ quyền con người. Pháp luật là công cụ của nhà nước, có tính bắt
buộc chung đối với toàn xã hội và với mọi cá nhân sống trong xã hội. Vì thế,
những qui định về quyền con người, quyền công dân cùng với những thiết chế
nhằm thực hiện, bảo vệ nó trong hiến pháp và pháp luật cũng bắt buộc mọi
thành viên trong xã hội, kể cả các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công
chức nhà nước phải nghiêm chỉnh thi hành. Mặt khác, tính sắc bén của pháp
luật trong việc thực hiện, bảo vệ quyền con người còn thể hiện ở chỗ các qui
định về quyền con người trong pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng bộ
máy nhà nước, khi cần thiết nhà nước có thể sử dụng những biện pháp giáo
dục, thuyết phục hoặc nặng hơn là các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho
quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân được thực hiện và bảo vệ.
Thêm vào đó, nhờ có hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi
phạm quyền con người, quyền công dân đều bị phát hiện và xử lý kịp thời.
Như vậy, thông qua pháp luật và nhờ những thuộc tính của pháp luật,
quyền con người được đảm bảo thực hiện một cách nhanh chóng, có hiệu quả
và trên qui mô toàn xã hội. Có thể khẳng định rằng, sẽ không có một công cụ,
phương tiện nào có được các lợi thế như pháp luật trong việc tổ chức, quản lý
xã hội cũng như trong vấn đề thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân.
17
Thứ ba, pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật là đại lượng mang giá trị phổ
biến, là chuẩn mực của sự công bằng, là cơ sở để đo hành vi của mọi người,
mọi cơ quan, tổ chức, công chức nhà nước và là căn cứ để công dân đánh giá

các hành vi từ phía nhà nước, đấu tranh để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của mình. Trong quan hệ với nhà nước, công dân vừa là
người chủ nhà nước, vừa là đối tượng bị quản lý và ở khía cạnh này quyền và
lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm hại.
Trong họat động của bộ máy nhà nước thì họat động của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước và các cơ quan tư pháp rất dễ có nguy cơ làm
phương hại đến quyền con người, quyền công dân bởi vì các quyết định và
các phán quyết của các cơ quan này đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi
ích của công dân. Mặt khác, trong quan hệ với các cá nhân được nhà nước
trao quyền, sự xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng
thường xuyên diễn ra. Sự xâm hại đó có thể do lỗi vô ý do trình độ năng lực
non kém của cán bộ công chức nhà nước nhưng nhiều khi là do lỗi cố ý bởi sự
thiếu tinh thần trách nhiệm hay do sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận
cán bộ công chức nhà nước, những người trực tiếp thi hành công vụ. Để tránh
tình trạng trên, pháp luật phải là vũ khí sắc bén và duy nhất để công dân đấu
tranh tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật phải tạo cơ
sở pháp lý vững chắc bằng cách qui định chặt chẽ và đầy đủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, công chức nhà
nước; về quyền và nghĩa vụ của công dân và phổ biến, tuyên truyền pháp
luật rộng rãi trong nhân dân để từ đó, công dân hiểu biết và có cơ sở để đấu
tranh bảo vệ tự do, dân chủ và quyền con người của mình.
Thứ tư, vai trò của pháp luật còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp
luật và các điều kiện đảm bảo khác như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục
18
Các điều kiện này phải thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật
mới trở thành giá trị xã hội ổn định và được hiện thực hóa.
Về phương diện chính trị, đường lối chính trị của mỗi quốc gia nhằm
mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập dân tộc gắn với việc
lựa chọn cho mình một chế độ chính trị phù hợp để phát triển đất nước phải
được thể chế hóa trong hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật chính

là cơ sở pháp lý để xây dựng một xã hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chính trị
hướng đích tôn trọng quyền con người, đảm bảo thực hiện và bảo vệ quyền
con người. “Nhân quyền chiếm một vị trí quan trọng trong Hiến pháp của mỗi
quốc gia. Vì xét cho cùng, việc Hiến pháp qui định việc tổ chức nhà nước
theo mô hình, thể thức nhất định cũng là để nhằm đảm bảo nhân quyền” [7,
tr.114].
Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo
thực hiện quyền con người. Tuy nhiên, phát triển kinh tế cũng cần phải có
đường lối, chính sách, cơ chế quản lý phù hợp và phải được cụ thể hóa trong
pháp luật. Pháp luật tạo khuôn khổ, hành lang pháp lý và môi trường pháp lý
thuận lợi cho tất cả họat động sản xuất, kinh doanh, đồng thời đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển theo con đường đã định sẵn, hạn chế các mặt tiêu cực
của cơ chế. Bên cạnh đó, pháp luật cũng gắn việc phát triển kinh tế với việc
thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường.v.v. và đặc biệt là ngay
trong quá trình phát triển kinh tế, những nội dung quyền con người về kinh tế
cũng đòi hỏi phải được qui định và đảm bảo bằng pháp luật.
Ngoài mối quan hệ giữa pháp luật với các điều kiện chính trị, kinh tế kể
trên, mối quan hệ pháp luật - văn hóa giáo dục cũng cần được chú ý trong
việc đảm bảo thực hiện quyền con người. Đường lối phát triển văn hóa giáo
dục của mỗi quốc gia được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật nhằm bảo
đảm cho con người phát triển tự do và toàn diện về mặt thể chất và tinh thần.
19
Pháp luật tạo khuôn khổ, môi trường văn hóa tiên tiến nhưng vẫn đậm đà bản
sắc dân tộc bằng cách vừa giữ gìn văn hóa truyền thống vừa tiếp thu văn minh
nhân loại để tạo điều kiện cho công dân được tiếp xúc, nghiên cứu, học tập,
nâng cao tri thức của bản thân. Mặt khác, pháp luật còn có vai trò giáo dục
mạnh mẽ đối với mọi thành viên trong xã hội, hình thành văn hóa pháp lý ở
mỗi công dân, làm cho mọi người biết sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ năm, pháp luật là phương tiện thực hiện sự cam kết và hòa nhập
giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đảm bảo thực hiện quyền con

người ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Sau Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc đã có hàng loạt Công ước quốc tế về quyền con người được thông
qua. Điều đó chứng tỏ cộng động quốc tế không thể chậm trễ hơn trong việc
xem xét những vấn đề bức xúc về quyền con người như: đấu tranh chống tội
phạm, khủng bố; vấn đề môi trường; giải quyết đói nghèo và các vấn đề xã
hội; thực hiện quyền sống trong hòa bình; quyền của phụ nữ; quyền trẻ em
.v.v. đã trở nên có tính toàn cầu. Hành động cụ thể, trước tiên ở đây là mỗi
nước phải cụ thể hóa những qui định của pháp luật quốc tế phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh nước mình và phải tìm mọi biện pháp để thực hiện cam kết
đó. Ban hành, sửa đổi hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn
và qui định của các Công ước quốc tế mà nước mình đã tham gia, ký kết là
thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm thực hiện, bảo vệ quyền con người đối với
công dân nước mình trước cộng đồng quốc tế. Thêm vào đó, trong điều kiện
quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng thì việc các quốc gia ký kết các Hiệp định
tương trợ tư pháp cũng sẽ tạo thêm một cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề
bảo vệ quyền con người trong điều kiện có xung đột pháp luật.
Như vậy, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu trong các điều kiện
đảm bảo thực hiện và bảo vệ quyền con người bởi vì pháp luật hiện diện ở tất
20
cả các điều kiện khác, tạo cơ sở pháp lý cho các điều kiện khác phát huy vai
trò, hiệu quả của chúng trong việc thực hiện quyền con người trên qui mô
toàn xã hội.
Điều 50, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (CHXHCN) Việt
nam năm 1992 sửa đổi [19] qui định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và
luật.
Theo qui định của Hiếp pháp năm 1992 sửa đổi và pháp luật Việt nam,

các quyền con người, quyền công dân được chia thành năm nhóm tương ứng
với năm lĩnh vực quan hệ xã hội cơ bản mà Hiến pháp điều chỉnh là: chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhóm một - Các quyền về chính trị, gồm: Quyền tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội, thảo luận các vấn đề chung của cả Nhà nước và địa phương,
kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tố chức trưng cầu ý
dân (Điều 53); bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước theo
qui định của pháp luật (Điều 54); khiếu nại, tố cáo với các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền về những việc làm sai trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân
nào (Điều 74).
Nhóm hai - Các quyền về dân sự, gồm: Quyền tự do đi lại và cư trú ở
trong nước, ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo qui định của pháp
luật (Điều 68); tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình theo qui định của pháp luật (Điều 69); tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 70); bất khả xâm phạm về
danh dự, nhân phẩm (Đièu 71); bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 73); được
21
đảm bảo an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 73); thừa kế
hợp pháp (Điều 58).
Nhóm ba - Các quyền về kinh tế, gồm: Quyền lao động (Điều 55); tự do
kinh doanh theo qui định của pháp luật (Điều 57); sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác (Điều 58).
Nhóm bốn - Các quyền về văn hóa, gồm: Quyền học tập (Điều 59);
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sang kiến, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia
các hoạt động văn hóa khác, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (Điều
60).
Nhóm năm - Các quyền về xã hội, gồm: Quyền được sống (Điều 71);

được bảo vệ sức khỏe (Điều 61); nghỉ ngơi (Điều 56); bình đẳng nam, nữ
(Điều 63); được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình (Điều 64); quyền của
phụ nữ được hưởng chế độ thai sản (Điều 63); được hưởng chế độ bảo hiểm
xã hội (Điều 56); quyền về nhà ở (Điều 62); quyền của trẻ em (Điều 65);
quyền của thanh niên (Điều 66); quyền của thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sĩ, người và gia đình có công với nước được hưởng chính sách ưu đãi và
chế độ khen thưởng, chăm sóc của Nhà nước (Điều 67); quyền của người già,
người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được nhà nước và xã hội giúp
đỡ (Điều 67).
Có thể nói, đảm bảo pháp lý về quyền con người trước tiên chính là
đảm bảo thực hiện quyền con người bằng việc qui định thành pháp luật, trên
phương diện pháp luật.
22
1.2.2. m bo quyn con ngi bng c ch hot ng ca b mỏy
nh nc
Phỏp lut cú vai trũ quan trng hng u trong vic thc hin v bo v
quyn con ngi nhng phỏt huy vai trũ quan trng ú, phi th ch húa
quyn con ngi thnh cỏc qui nh c th trong h thng phỏp lut v cú c
ch bo m cho cỏc qui nh ú c thc hin trờn thc t.
Cú nhiu c ch m bo quyn con ngi, trong ú Nh nc l mt
c ch quan trng. Hn th, m bo quyn con ngi trỏch nhim trc tiờn
l thuc v Nh nc. Thc tin Vit nam v kinh nghim th gii ch ra
rng: bờn cnh h thng phỏp lut tin b, ũi hi phi cú c ch hot ng
rt ng b gia tt c cỏc c quan Nh nc, cỏc t chc xó hi v chớnh cỏ
nhõn, cụng dõn cng phi bit bo v cỏc quyn ca mỡnh, ú l c s
quyn con ngi c m bo thc hin.
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam hoạt động tuân theo
nguyên tắc quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà
nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các quyền hành pháp, lập
pháp và t pháp. Sự phân công nhằm làm rõ giới hạn của quyền và trách nhiệm.

Sự phối hợp trong một thể thống nhất của quyền lực nhà nớc nhằm tránh độc
quyền, lạm dụng quyền lực, nhằm đảm bảo cho quyền lực thực sự là của dân,
do dân và vì dân; đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của công dân.
Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Tuy nhiên, trong quá trình lập pháp
có nhiều cơ quan khác của nhà nớc và tổ chức xã hội cùng tham gia trên cơ sở
thực hiện các thẩm quyền: kiến nghị về dự án luật soạn thảo và trình dự án
luật, thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến vào dự án luật. Mục đích của quá trình
lập pháp dân chủ nhằm tạo ra hành lang pháp lý để cân đối giữa bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân và nhu cầu quản lý nhà nớc, quản lý xã hội.
Sự tham gia của nhân dân trong lập pháp đợc bảo đảm thực hiện thông
qua hoạt động của cơ quan lập pháp - đồng thời là cơ quan đại biểu cao nhất
23
trong quá trình lập pháp dân chủ. Về khía cạnh chủ động thực hiện quyền
công dân, đó chính là thực hiện Điều 6 Hiến pháp nm 1992 sa i [19]:
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nớc thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trớc nhân
dân.
Trong cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ công
dân, Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, Quốc hội đợc hình thành một cách dân chủ thông qua chế độ
phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín trên toàn quốc và
quyền ứng cử, một trong những quyền dân sự chính trị quan trọng nhất thuộc
về các công dân. Vì lẽ đó, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất có vai trò
quan trọng trong cơ chế đảm bảo thực hiện mối quan hệ giữa nhà nớc và công
dân.
Thứ hai, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất, có nhiệm vụ
và quyền hạn làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, thực
hiện quyền giám sát tối cao, các quyền quyết định các chính sách quan trọng
của quốc gia, quyết định tổ chức nhà nớc - là những vấn đề quan hệ trực tiếp

hoặc gián tiếp tới thực hiện quyền và lợi ích của công dân (Điều 84, Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi).
Quốc hội đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân theo các phơng thức sau:
- Bằng hoạt động lập hiến và lập pháp thể chế hoá các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân nhằm xác lập các mối quan hệ cơ bản giữa nhà nớc và
công dân, ghi nhận trong Hiến pháp, các bộ luật, các đạo luật tạo cơ sở
pháp lý cao nhất làm tiền đề cho sự ra đời của mối quan hệ pháp lý cụ thể
khác giữa nhà nớc và công dân và cơ chế thực hiện quyền, nghĩa vụ.
24
- Bằng hoạt động giám sát tối cao vic tuõn theo Hin phỏp, lut v Ngh
quyt ca mỡnh, Quốc hội bảo đảm điều kiện thực thi thống nhất trong cả
nớc các quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Bằng hoạt động quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng nhất của đất n-
ớc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Quốc hội là đại diện uỷ quyền
hợp pháp của công dân thực hiện quyền lực nhà nớc liên quan tới quyền và
lợi ích hợp pháp của mỗi công dân và điều chỉnh các cơ quan nhà nớc phục
vụ dân.
Hội đồng nhân dân (HĐND) là một thiết chế quan trọng trong cơ chế
pháp lý đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trên phạm vi lãnh
thổ của từng địa phơng. Trong hoạt động của mình, HĐND: căn cứ vào Hiến
pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nớc cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các
biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa ph-
ơng; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an
ninh ở địa phơng; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Nh vậy, về nguyên tắc cơ bản, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
đợc đảm bảo thực hiện trớc hết và cao nhất thông qua hoạt động của các cơ
quan đại diện ở trung ơng và địa phơng. Nếu thực tế vẫn cho thấy còn những
bất cập trong cơ chế bảo đảm thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thì
điểm cần khắc phục đầu tiên phải tính đến là hoàn thiện tổ chức và hoạt động

của các cơ quan dân cử cũng nh mối quan hệ của những cơ quan này với các
cơ quan khác của nhà nớc.
Cơ quan hành pháp bao gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân (UBND)
các cấp tạo thành hệ thống các cơ quan chấp hành và hành chính trực tiếp thực
hiện chức năng quản lý nhà nớc. Cơ quan hành pháp thực thi quyền hành
pháp. Quyền hành pháp đợc thực hiện bởi các thẩm quyền: ban hành chính
sách quản lý, ra quyết định quy phạm hành chính bằng hoạt động lập quy, áp
dụng pháp luật bằng việc ra quyết định hành chính cá biệt, cụ thể, thực hiện các
25

×