Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.92 KB, 96 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế
giới, đó là quy luật tất yếu. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của WTO, đó không chỉ là tin vui đối với nền kinh tế mà của tất cả các ngành
nghề nói riêng. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn vươn mình đứng dậy như
Thánh Gióng, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn thách thức không
nhỏ - sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường, đặc thù của mọi nền kinh tế. Là
một tế bào của nền kinh tế Việt Nam, qua những giai đoạn phát triển thăng trầm,
ngành dệt may cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Năm 2007 chứng kiến sự bứt phá
mạnh mẽ của ngành dệt may trên thị trường thế giới cũng như khẳng định vị trí của
mình trong nền kinh tế Việt Nam.
Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế quốc tế, trước những thay đổi về chất
và lượng của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO, lại may mắn được rèn luyện
và tìm hiểu trong môi trường năng động của ngành dệt may, trong một công ty có
bề dày truyền thống và kinh nghiệm như tổng công ty dệt may Hà Nội, em đã mạnh
dạn chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà
Nội” để tìm tòi và phát triển. Bài viết của em được trình bày theo ba chương như
sau
Chương 1: Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO
Chương 2 : Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội.
Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội, chú ý ngành dệt.
Trong suốt quá trình tìm tòi nghiên cứu em đã nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo
tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Như Bình và các thầy cô giáo trong khoa
kinh tế và kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên bài viết của em không thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót do năng lực có hạn của bản thân. Em mong nhận được sự

1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


đóng góp chỉ bảo của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn
Như Bình để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


Chương 1 : Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành
1.1.1.1. Lịch sử ngành dệt may
Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người. Sau
thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người đã bắt
chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu.
Theo các nhà khảo cổ thì sợi lanh là nguyên liệu dệt may đầu tiên của con
người. Sau đó sợi len xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà và sợi bông ở ven sông Indus.
Trong thời kỳ cổ đại, may dệt cũng tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng và sinh hoạt kinh tế:
các dân tộc sống về chăn nuôi dùng len (Lưỡng Hà, Trung Đông và Trung Á), vải
lanh phổ biến tại Ai Cập và miền Trung Mỹ, vải bông tại Ấn Độ và lụa (tơ tằm) tại
Trung Quốc. Các dân tộc Inca, Maya, Tolteca, v.v. tại châu Mỹ thì dùng các sợi
chuối và sợi thùa. Theo Kinh Thi của Khổng Tử, tơ tằm được tình cờ phát hiện vào
năm 2640 trước Công nguyên. Sau khi vua Phục Hy, vị hoàng đế đầu tiên của Trung
Quốc, khuyến khích dân chúng trồng dâu nuôi tằm, tơ lụa trở thành một ngành phồn
thịnh, một trong những hàng hoá đầu tiên trao đổi giữa Đông và Tây. Trong nhiều
thế kỷ, Trung Quốc là nước duy nhất sản xuất và xuất khẩu lụa và tơ tằm. Con
Đường Tơ Lụa, còn được truyền tụng đến ngày nay, không chỉ là địa bàn của các
nhà buôn mà còn mở đường cho các luồng giao lưu văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo,
và cả các cuộc viễn chinh binh biến.
Tuy các kỹ thuật may dệt đã mau chóng đạt mức độ tinh vi, có khi thành cả

nghệ thuật, nhưng trong suốt 5 ngàn năm, con người vẫn chỉ dùng các nguyên liệu
tự nhiên, lấy từ cây cỏ như các sợi bông, sợi đay, sợi gai dầu, sợi lanh, hay từ thực
vật như da, sợi len, tơ tằm, v.v. Vì thế sản xuất bị giới hạn, vải vóc vẫn là sản phẩm
quí, những y phục gấm vóc dành cho giai cấp quí tộc, thượng lưu, đại đa số dân
chúng chỉ mặc vải thô, quanh quẩn với một vài màu mè kiểu cọ. Mãi đến giữa thế

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kỷ 18, với cuộc cách mạng kỹ nghệ bên Anh và sự ra đời của các máy dệt cơ khí
hoá, chạy bằng hơi nước, ngành dệt mới thật sự ra khỏi sản xuất thủ công để trở
thành một kỹ nghệ.
Tuy nhiên, con người vẫn còn lệ thuộc vào thiên nhiên, và nhiều nhà khoa
học ở Âu Châu tìm tòi cách làm ra một loại sợi nhân tạo có thể sản xuất hàng loạt,
với giá rẻ. Phải đợi đến năm 1884, một người Pháp, bá tước Hilaire Bernigaud de
Chardonnet mới phát minh một cách chế tạo tơ nhân tạo, sau 6 năm nghiên cứu.
Ông Chardonnet được coi như cha đẻ của kỹ nghệ sợi hoá học là chữ gọi chung cho
các sợi nhân tạo và sợi tổng hợp. Mục đích của ông khi tìm cách làm tơ nhân tạo là
để bình dân hoá vải vóc, để bất cứ ai cũng có thể có được những bộ quần áo lụa là
cho tới lúc ấy chỉ dành cho một thiểu số. Ông đã thành công hơn dự kiến vì kỹ nghệ
phát sinh từ các sáng chế của ông đã dẫn đến cả một cuộc cách mạng trong may
mặc, biến thời trang thành một hiện tượng quần chúng trong mọi nước. Ngành dệt
may từ đó cũng phát triển ngày càng nhanh, cùng với đà tiến triển của kinh tế và
thương mại. Từ 1889 đến 1939, phải sau 50 năm sản lượng sợi hoá học trên thế giới
mới đạt mức 1 triệu tấn một năm, nhưng chỉ 12 năm sau đã tăng gấp đôi, và cứ thế
tăng vọt.
Năm 1900, trên thế giới có 1,6 tỷ người, tiêu thụ 3,8 triệu tấn sợi, hầu như
toàn bộ là các sợi tự nhiên - bông (81%) và len (19%)-, số sợi hoá học dưới 1000
tấn. Năm 1975, thế giới tiêu thụ 26 triệu tấn sợi, trong đó 50% bông, 6% len và 44%
sợi hoá học. Như thế, chỉ trong 3 phần tư thế kỷ, số lượng tiêu thụ đã nhân lên 4,3
lần cho sợi bông, 2,2 lần cho sợi len, và 11 000 lần cho sợi hoá học. Mức tăng

trưởng phi thường này tuy thế khựng lại sau năm 1973, vì cuộc khủng hoảng về dầu
lửa và giai đoạn kinh tế suy thoái sau đó. Ngoài ra, vì dầu hoả là nguyên liệu chính
của sợi hoá học, khuynh hướng thay thế các sợi tự nhiên bằng sợi hoá học cũng
chậm lại và ngày nay sợi tự nhiên, chủ yếu là bông, vẫn tồn tại trên thị trường, và
sợi hóa học chỉ chiếm đa số với khoảng 60% .
Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng
quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới
cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe
lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai
cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói,
bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những
dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng.
Có thể hiểu tại sao ngành dệt may đã đi liền với sự phát triển của các nước
công nghiệp, cùng với sắt thép là hai ngành vừa được ưu tiên thừa hưởng những
phát minh kỹ thuật vừa là động cơ chuyển biến cả nền kinh tế từ thủ công sang công
nghiệp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ. Điều này cũng giải thích tại sao các nước
công nghiệp vẫn quyết tâm bảo vệ ngành dệt may nội địa trước sự cạnh tranh của
các nước nghèo, từ thập niên 1970 trở đi, khi các nước này tập trung xây dựng
ngành này thành trọng điểm của chiến lược phát triển. Và tại sao đó cũng là một
trong những mối tranh chấp căng thẳng từ nhiều năm trong quan hệ thương mại
giữa các nước giàu và nghèo.
1.1.1.2. Ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời.
Tù hàng nghìn năm nay người Việt đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, lanh,
gai, đay, và các cây có xơ để kéo sợi, dệt vải làm nguyên liệu cho ngành may mặc
phục vụ cho đời sống hàng ngày và trong tang lễ, hội hè, đình đám. Bằng chứng cho

sự phát triển này là đến này vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều
vùng đất nước như: lụa Vạn Phúc, khăn Phùng Xá, dệt làng Mẹo, thổ cẩm Mai
Châu… Tuy vậy phải đến cuối thế kỷ XIX ngành dệt may mới manh nha hình thành
và phát triển trong hình hài một ngành công nghiệp
Ngành dệt may Việt Nam có thể chia làm 2 giai đoạn
Giai đoạn từ thời Pháp thuộc đến năm 1975: viên gạch đầu tiên đầu tiên
đặt nền móng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam là sự ra đợi của một
vài xí nghiệp có quy mô sản xuất công nghiệp như công ty bông vải Bắc kỳ tiền
thân của công ty dệt Nam Định ngày nay, xí nghiệp tơ tằm Delignon ở Nam Trung

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bộ do người Pháp đầu tư và một vài cơ sở dệt kim tư nhân rất nhỏ bé tập trung ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn - Chợ Lớn.. Tuy nhiên
ngành dệt may Việt Nam lúc bấy giờ, dù phát triển rộng khắp ở các đô thị, thị trấn,
vùng quê, nhưng hầu như vẫn sản xuất theo phương thức thủ công, ngành công
nghiệp may sẵn chưa có vị trí đáng kể nào.
Đến năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, chính phủ có chủ trương phát
triển phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi
nhọn nên đã sớm ban hành nhiều chính sách nhằm chấn hưng ngành công nghiệp
non trẻ này. Đó là phục hồi các nhà may do Pháp để lại và khuyến khích các nhà
máy sản xuất trở lại, thành lập các công ty gia công dệt may để khuyến khích, phát
huy và thu mua các sản phẩm dệt may ở các làng nghề thủ công tham gia vào giải
quyết vải tiêu dùng trong nhân dân và xuất khẩu. Đồng thời mở hàng loạt các xí
nghiệp dệt công nghiệp mới của nhà nước với trang thiết bị nhập từ Trung Quốc và
các nước Đông Âu như dệt Nam Định, tơ Nam Định, len Hải Phòng, dệ 8/3, dệt kim
Đông Xuân… và các xí nghiệp địa phương như dệt kim Thăng Long, dệt khăn Minh
Khai… cùng hàng loạt các xí nghiệp may mới ra đời thu hút rất nhiều lao động như
May 10, May Thăng Long, May Chiến Thắng… nhiều xí nghiệp công tư hợ danh,
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp dệt, may ở các thành phố, thị xã, thị trấn

Toàn ngành công nhiệp và tiểu thủ công nghiệp dệt may miền Bắc, thời kỳ 1945-
1975 đã đáp ứng được nhu cầu về vải cho tiêu dùng, phục vụ đời sống xã hội với
mức bình quân 5 mét vải/ người và hàng năm xuất khẩu hàng trăm triệu sản phẩm
may mặc sang các nước Đông Âu dưới dạng vỏ chăn, áo gối, quần áo bảo hộ lao
động, áo choàng y tế… theo hiệp định hàng đổi hàng được ký giữa chính phủ hai
nước.
Giai đoạn từ năm 1975 đến nay : đất nước thống nhất, tiếp quản thêm nhiều
xí nghiệp ở miền Nam, ngành dệt may mở rộng tầm quản lý với quy mô to lớn và
cũng đa dạng hơn. Từ sản phẩm thuần chủng bông thiên nhiên, chúng ta đã sản xuất
và xuất khẩu sản phẩm bông pha hỗn hợp, từ sản phẩm may cấp thấp đã dần vươn
lên thành sản phẩm cao cấp hơn như sản phẩm sơ mi thời trang, jacket, quần bò,

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
complet… Với chủ trương đưa ngành dệt may trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
hướng ra xuất khẩu và phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân, vì thế nhà nước vừa
khai thác, phát huy tiềm lực sẵn có, vừa không ngừng mở rộng phát triển vả chiều
rộng lẫn bề sâu
1.1.2. Thực trạng về ngày dệt may hiện nay
Ngày nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong
đời sống kinh tế xã hội.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hàng tỷ USD, chỉ đứng sau ngành dầu
khí về xuất khẩu, tăng trưởng hàng năm luôn trên 20%. Thậm chí năm 2007 dệt may
đã vươn lên vị trí dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu, vượt qua cả dầu
thô, với kim ngạch đạt 7.75 tỷ USD, tăng 32.8% so với năm 2006, đồng thời lọt vào
top 5 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới và theo dự báo, trong năm nay,
Việt Nam sẽ vượt qua Ấn Độ và Mexico trở thành cường quốc xuất khẩu dệt may
thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Thành tựu này là kết quả nỗ lực, phấn đấu không
mệt mỏi của ngành hàng. Đặc biệt, trong đó là những bước đi khôn ngoan khi mở

rộng thị trường và vượt qua những rào cản của thị trường Mỹ. Theo dự báo của
phòng thương mại Việt- Mỹ doanh thu năm 2007 của Việt Nam vào thị trường Mỹ
chiếm đến 43% trong tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này tại Mỹ. Phải nói đây
là một thắng lợi lớn về kinh tế trong giai đoạn phát triển của ngành dệt may VN,
quan trọng hơn là trong những năm qua ngành dệt may VN đã giải quyết được hàng
chục vạn lao động, góp phần cùng đất nước giải quyết tình trạng thất nghiệp, xoá
đói giảm nghèo, ổn định chính trị và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, ngành
tiếp tục thu hút nhiều làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, các doanh
nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài ước tính chiếm khoảng 25% tổng số các
doanh nghiệp dệt may của cả nước. Dự kiến trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu
của hàng dệt may tiếp tục tăng cao, theo dự đoán khoảng 9,6 tỷ USD nếu biết giữ
vững các thị trường truyền thống như Mỹ- thị trường chiếm 55% tổng kim ngạch

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất khẩu dệt may, EU- thị trường chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và Nhật
Bản- chiếm 10%, đồng thời tìm kiếm thêm những thị trường mới.
Tuy đã đạt được những thành tựu đáng khen như vậy trong thời gian qua,
ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Những kết quả trên một phần là do
ngành may, trong khi may phát triển mạnh và được coi là một trong năm nước có
năng lực cạnh tranh thì ngành dệt lại đang bị tụt hậu 20 năm so với thế giới. Đạt
được kim ngạch xuất khẩu lớn như vậy, nhưng hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt
may còn thấp do chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà vẫn phải nhập khẩu từ
nước ngoài đến 80%, điều đó cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của
các doanh nghiệp dệt Việt Nam. Trong khi đó, ngành dệt Việt Nam vẫn chủ yếu là
phục vụ thị trường nội địa. Nhưng nếu tình hình này không sớm được cải thiện thì
các doanh nghiệp dệt có khả năng mất chỗ đứng ngay trong thị trường nội địa trong
tương lai gần. Bởi vì có thể so sánh trong khi một nhà máy dệt của Trung Quốc
trung bình có khoảng 6.000 máy dệt thì các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ có
khoảng vài trăm máy, đa phần là cũ, lạc hậu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp

hội Dệt May Việt Nam, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành Dệt Việt
Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành Dệt Việt Nam chỉ
đạt khoảng 3-3,5 điểm, chưa đạt mức trung bình của thế giới. Thiết bị lạc hậu dẫn
đến chất lượng vải nội không ổn định, độ bền màu kém, khiến cho khách hàng đặt
may không dám lựa chọn vải nội, buộc các doanh nghiệp may gia công lại phải
nhập khẩu vải từ các công ty nước ngoài. Không chỉ may gia công, ngay cả các
công ty may phục vụ tiêu dùng nội địa cũng không dám mạo hiểm thương hiệu của
mình khi mua vải chất lượng kém để sản xuất những mặt hàng của mình. Điều đó
làm ngành Dệt càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, những doanh nghiệp Dệt trong
nước làm ăn được hầu hết đều là các doanh nghiệp tư nhân hoặc liên doanh có vốn
đầu tư nước ngoài. Do vậy việc quan tâm cũng như tìm một hướng đi và nâng cao
sức cạnh tranh cho hàng dệt may, đặc biệt là ngành dệt Việt Nam trong thời gian tới
là một vấn đề hết sức quan trọng.

8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam trong điều
kiện Việt Nam là thành viên WTO
1.1.3.1 Cơ hội
Trước tiên phải nói đến là trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được
dỡ bỏ hạn ngạch, đồng thời được đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia cũng như
các thị trường khác trên thế giới. Điều bày đặc biệt quan trọng bởi Việt Nam sẽ có
cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu và tăng kim ngạch cũng như mở rộng cơ hội tìm kiếm
thị trường. Cơ hội cũng mở ra khi Việt Nam có điều kiện khai thác một thị trường
rộng lớn và đầy tiềm năng như Mỹ, bởi vì Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ với
Việt Nam như đã áp dụng khi đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc trước đây
do thoả thuận của hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Bên cạnh đó các rào cản xuất khẩu cũng dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam
không còn phải lo chạy vạy hạn ngạch, cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với các
thị trường mới mở rộng rất nhiều. Từ chỗ chỉ được xuất khẩu theo hạn ngạch, đến

nay các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu theo năng lực thị trường, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh vào các thị trường nước ngoài.
Dòng đầu tư nước ngoài mới tiếp tục đổ vào Việt Nam, trong đó ngành dệt
may là một trong những ngành thu hút đầu tư mạnh, tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng
phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành dệt
may cơ hội phát triển hơn nữa. Đặc biệt sự phát triển của ngành may sẽ là động lực
tạo điều kiện phát triển theo và thu hút đầu tư vào ngành dệt và nhuộm. Trên cơ sở
đó tiếp tục thu hút một lực lượng lao động lớn góp phần giải quyết việc làm cho xã
hội.
Đồng thời với dòng đầu tư nước ngoài ngành dệt may Việt Nam cũng đón
nhận trình độ quản lý và công nghệ mới tạo điều kiện cải thiện những máy móc
thiết bị đã cũ, lạc hậu và tư duy cũng như công tác quản lý không còn phù hợp với
điều kiện thị trường.
Việc sản xuất kinh doanh cũng nhiều thuận lợi hơn do thuế nhập khẩu
nguyên, phụ liệu giảm và nguồn cung cấp cũng phong phú hơn, tạo điều kiện cho

9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
việc giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao sực cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đồng thời khi là thành viên WTO, với một thị trường rộng lớn và môi trường
kinh doanh năng động và nhiều biến động hơn sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam
cọ sát với thực tế và thích ứng với quy tắc, thông lệ và luật kinh doanh quốc tế.
Những bài học từ các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giúp cho các doanh nghiệp có
kinh nghiệm và thực tiễn để đối phó với những sự kiện tiếp theo.
1.1.3.2. Thách thức
Ngành Dệt-May sử dụng một số nguyên phụ liệu chủ yếu như bông xơ,... dựa
vào nguồn nhập khẩu là chính. Trong khi đó giá dầu trên thế giới bị biến động do
tình hình chính trị trong một số khu vực trên thế giới không ổn định; hơn nữa với
việc áp thuế nhập khẩu cho mặt hàng xơ polyester để bảo vệ và kích thích sản xuất

trong nước của Chính phủ, làm cho giá nhập xơ cao, trong khi sản xuất trong nước
về bông, xơ không đáp ứng được nhu cầu (đáp ứng bông khoảng 5%, xơ tổng hợp
khoảng 30%), cho nên các doanh nghiệp vẫn phải nhập để đảm bảo sản xuất.
Các doanh nghiệp sản xuất Dệt-Nhuộm chưa có hiệu quả, đặc biệt là chưa
làm chủ được kỹ thuật, làm chất lượng vải không ổn định. Vì vậy, chưa được khách
hàng tiêu thụ sản phẩm may đánh giá để có thể trở thành nhà cung cấp vải cho các
doanh nghiệp may gia công trong nước chứ chưa nói đến việc gia tăng xuất khẩu vải
(vải đáp ứng: dệt kim khoảng 60%, dệt thoi khoảng 30%). Cũng chính vì thế mà
khách hàng Mỹ thường chỉ định nhà cung cấp vải từ nước ngoài (như Trung Quốc,
Ấn Độ, Đài Loan, ...) để cung cấp cho các doanh nghiệp may.
Không thể không nói đến là sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn khi
Việt Nam ngày một hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong thời gian tới
Việt Nam sẽ mở cửa thị trường sâu hơn, do đó việc các “đại gia” dệt may trên thế
giới cùng nhảy vào sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt và không loại trừ khả
năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phá sản hàng loạt. Đặc biệt là hàng Trung
Quốc khi không phải chịu thuế nhập khẩu thì sẽ là thách thức lớn đối với các doanh
nghiệp Việt Nam trong việc cạnh tranh không chỉ trên thị trường nội địa, như vậy

10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không chỉ các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn cũng phải lao đao. Khi
những sự hỗ trợ và bảo hộ của chính phủ không còn, đồng thời thị trường bị chia sẻ
cho các doanh nghiệp nước ngoài, sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc khẳng định vị trí và phát triển.
Đồng thời, một vấn đề cần đặc biệt lưu ý là kiện bán phá giá đối với hàng dệt
may Việt Nam, đây không phải là nguy cơ mà đã đang và sẽ đe doạ các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Các thi trường mở rộng nhưng nguy cơ tiềm
tàng trong đó cũng không phải là ít. Từ ngày 11/1/2007, hàng dệt may Việt Nam
không còn phải chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, nhưng dưới áp
lực của các nhà sản xuất dệt Hoa Kỳ, Bộ Thương Mại nước này đã đưa ra một rào

cản mới, đó là việc xây dựng cơ chế giám sát nhập khẩu và tự khởi động điều tra
chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Điều này đã gây
ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường kinh doanh khi thị trường Mỹ chiếm đến trên
50% thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam. Nhiều nhà nhập khẩu lớn dè
dặt khi đặt hàng tại Việt Nam, thậm chí rút đơn hàng khỏi Việt Nam trong những
tháng đầu năm và trong quý III/2007. Nhiều công ty không dám đầu tư mở rộng sản
xuất do sợ rủi ro. Mặc dù Bộ Thương mại Mỹ đã công bố chính thức chưa tìm thấy
bất cứ dấu hiệu cho thấy ngành dệt may Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ,
nhưng bộ Thương Mại Mỹ thông báo vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế giám sát cho đến
hết 2008.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng sẽ phải cạnh tranh với nhau để tìm kiếm
nguồn lao động phù hợp trong tình trạng biến động lao động như hiện nay. Doanh
nghiệp sẽ phải đối phó và giải quyết với tình trạng đình công của người lao dộng
như đã xảy ra trong năm 2007 vừa qua.
Ngoài ra, các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia
công, nguyên, phụ liệu nhập khẩu quá cao và nhiều, do đó giá trị thực xuất khẩu
chưa cao. Việc cạnh tranh và khẳng định vị thế về chỗ đứng và thương hiệu là một
trong những thách thức với Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã và đang chuyển
hướng sang kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao cấp. Đây cũng là một hướng đi

11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mới và hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Tuy vậy, việc xây dựng một thương hiệu cho
hàng hoá Việt Nam vẫn còn là đòi hỏi lâu dài. Khi đã xây dựng và khẳng định được
thương hiệu của mình, chỗ đứng cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới sẽ
được công nhận. Đồng thời khâu thiết kế cũng là một trong những vấn đề cần được
quan tâm trong thời gian tới. Ngành dệt may Việt Nam muốn có có một vị thế mới
không thể không thực hiện tốt khâu thiết kế này. Trong khi các doanh nghiệp nước
ngoài, đặc biệt quan tâm đến vấn đề này thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa
có những đầu tư đúng mực và chưa giải quyết được vấn đề thiết kế sản phẩm. Chỉ

một số doanh nghiệp, cá nhân có những tiếng nói nhất định trong thiết kế trên thị
trường thế giới như Lê Minh Khoa ở Hồng Kông, Việt Hùng ở Mỹ và Canada,
Minh Hạnh ở Pháp… Đây chính là một trong những khó khăn thách thức của doanh
nghiệp Việt Nam, nếu không đầu tư cho thiết kế mẫu mã sản phẩm mới, thì không
chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay tại sân nhà, thị trưòng Việt Nam các doanh
nghiệp cũng không tìm được chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng.
1.2. Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
1.2.1. Cạnh tranh
1.2.1.1. Khái niệm
Có thể nói cạnh tranh chính là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh đã được
các nước trên thế giới thừa nhận và coi như là một môi trường, là động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh
và góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Vì vậy, cạnh tranh được hiểu theo nghĩa chung là sự tranh đấu giữa các chủ
thể tham gia hoạt đọng kinh tế nhằm tối đa hoá lợi ích của mình. Theo nghĩa hẹp,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được hiểu là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các
nhà sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi
nhất để thu được lợi ích tối đa. Cạnh tranh gắn liền với cơ chế thị trường và trở
thành quy luật kinh tế đặc thù của nền kinh tế thị trường. Khi chuyển sang nền kinh

12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tế thị trường , chúng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh
tế bao gồm, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói
nguồn gốc nảy sinh cạnh tranh là mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã
hội của lao động sản xuất hàng hoá cũng như sự độc lập và tách biệt về lợi ích giữa
các chủ thể kinh tế - sản phẩm của cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế

hoạt động. Khác với nền kinh tế tập trung, mọi hoạt động sản xuất và tiêu thụ đều
theo kế hoạch, được hoạch định từ trên xuống, từ cấp quốc gia đến các bộ ngành và
các doanh nghiệp cụ thể. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một sản
phẩm nào đưa ra đều phải chịu một sức cạnh tranh nhất định, bởi vì ở đó có nhiều
doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất một mặt hàng, việc sản xuất tiêu thụ phải tuân
theo các quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp phải tìm mọi cách
để cạnh tranh với nhau để làm sao tiêu thụ được hết sản phẩm của mình đồng thời
thu được lợi nhuận cao nhất. Với cơ chết thị trường các doanh nghiệp phải chủ động
trong sản xuất kinh doanh từ khâu cung ứng nguyên liệu phụ kiện, tổ chức sản xuất
đến việc tiêu thuh sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm để khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh
nghiệp mình. Do đó mức độ và tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày
một đa dạng và gay gắt hơn.
1.2.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Đối với nền kinh tế quốc dân: cạnh tranh là một trong những điều kiện quan
trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại
hoá nền sản xuất xã hội, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động xã hội, cho
phép sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất và phục vụ ngày càng tốt nhu cầu đa
dạng và phong phú của người tiêu dùng. Cạnh tranh lành mạnh cho phép tự phát
duy trì những cân đối của nền kinh tế và là môi trường, động lực thúc đẩy sự phát
triển bình đẳng cùng có lợi của mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các loại
hình doanh nghiệp, qua đó góp phần xoá bỏ dần những đặc quyền không nên có và
xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.

13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đối với doanh nghiệp: cạnh tranh quyết định sự tồn tại, phát triển hay phá
sản của một doanh nghiệp, bởi cạnh tranh tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm. Một doanh nghiệp được xem là có khả năng cạnh tranh khi nó
có thể đứng vững và thực hiện việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện

môi trường kinh doanh mở.
Cạnh tranh tạo ra môi trường, động lực phát triển, thúc đẩy mỗi doanh
nghiệp nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trong thị trường thông qua tỷ
lệ thị phần mà doanh nghiệp nắm giữ, đồng thời nó quyết định uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường.
Do cạnh tranh tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả nên buộc các doanh
nghiệp phải nhạy bén với nhu cầu luôn biến đổi của thị trường, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ để cải tiến phương pháp
quản lý sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp sản phẩm ngày một tốt hơn, chất lượng
tốt hơn và giá rẻ hơn cho thị trường.
Đối với người tiêu dùng: trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là
“thượng đế”, là người có quyết định tối cao trong hành vi tiêu dùng. Nhờ cạnh
tranh, người tiêu dùng có thể nhận được hàng hoá và dịch vụ ngày càng phong phú,
đa dạng với chất lượng cao hơn và giá cả phù hợp hơn. Cạnh tranh làm cho người
tiêu dùng thực sự được tôn trọng, thúc đẩy và nâng cao việc các doanh nghiệp đảm
bảo và làm thoả mãn người mua hàng.
1.2.2. Các lý thuyết về năng lực cạnh tranh
1.2.2.1. Lý thuyết về môi trường bên ngoài - môi trường vĩ mô ( PEST )
 Kinh tế: Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng
đến thành công và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh
tế chủ yếu ảnh hưởng đến doanh nghiệp là tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát…

14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
 Công nghệ: đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn, trực tiếp cho chiến lược
kinh doanh của các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh doanh nghiệp. Trong thời đại hiện

nay khi mà tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão thì việc đầu tư
thay đổi công nghệ là vấn đề các nhà kinh doanh phải thường xuyên quan
tâm.
 Văn hóa - xã hội: Đối với chiến lược trung và dài hạn có thể nói đây là loại
nhân tố thay đổi nhanh chóng theo hướng du nhập những lối sống mới. Đây
cũng là cơ hội cho các nhà sản xuất, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn
cho doanh nghiệp trong việc nhìn nhận, đánh giá và xác định xu hướng tiêu
dùng mới, căn cứ theo độ tuổi, sở thích, địa vị công việc của người tiêu dùng
để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như có những chiến lược cạnh tranh
hợp lý trong từng thời điểm.
 Môi trường tự nhiên: các nhà kinh doanh phải quan tâm đến các yếu tố về
tự nhiên, khí hậu, sinh thái, thời vụ để sản xuất các sản phẩm phù hợp với
người tiêu dùng
 Chính trị, luật pháp: các nhân tố chính trị, luật pháo có tác động trực tiếp
đến các doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội,
trở ngại, thậm chí cả rủi ro cho doanh nghiệp. Sự ổn định về chính trị, sự
nhất quán về quan điểm chính sách lớn luôn hấp dẫn các nhà đầu tư. Hệ
thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện là cơ sở để kinh doanh ổn định,
cũng là một điều kiện để doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh trên thị trường
1.2.2.2. Lý thuyết môi trường ngành ( Mô hình Porter )
 Đối thủ cạnh tranh hiện tại: là lực lượng thứ nhất trong mô hình 5 lực
lượng của mô hình Porter, là quy mô cạnh tranh trong số các doanh nghiệp
hiện tại của ngành. Nếu đối thủ cạnh tranh yếu, doanh nghiệp có cơ hội tăng
giá sản phẩm, thu về nhiều lợi nhuận. Ngược lại, nếu đối thủ cạnh tranh hiện
tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là đáng kể. Cạnh tranh trong một ngành sản
xuất thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành,

15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thực trạng cầu của ngành và các hàng rào lối ra. Hàng rào lối ra là mối đe

dọa lớn khi cầu của ngành giảm mạnh. Hàng rào lối ra là kinh tế, là chiến
lược và là mối quan hệ tình cảm giữa doanh nghiệp đang hoạt động. Hàng
rào lối ra bao gồm việc đầu tư máy móc thiết bị, nhà xưởng lớn, quan hệ
chiến lược giữa các đơn vị kinh doanh, giá trị của các nhà lãnh đạo, chi phí
xã hội khi thay đổi. Tất cả các vấn đề này tạo nên rào cản cho việc từ bỏ
ngành.
 Đối thủ cạnh tranh tiềm năng: là lực lượng thứ hai trong lực lượng cạnh
tranh. Các nhà chiến lược cần phán đoán đối với các doanh nghiệp là đối thủ
tiềm ẩn, là các doanh nghiệp hiện tại chưa cùng cạnh tranh trong cùng một
ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định
gia nhập ngành. Đây là mối đe dọa cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh
nghiệp hiện tại muốn tìm cách ngăn cản các doanh nghiệp muốn gia nhập
vào ngành thì phải tạo hàng rào lối vào một cách vững chắc. Đó là:
• Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: phải làm chủ một công nghệ đặc
thù, những sáng chế, cải tiến kỹ thuật, làm chủ được nguồn nguyên
liệu, quản lý sản xuất, ứng dụng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực
có tay nghệ cao. Tất cả những yếu tố trên nhằm nâng cao năng suất
lao động, tạo chi phí thấp. Tận dụng được những ưu thế này, rõ ràng
các doanh nghiệp đã giảm thiểu được chi phí cho sản xuất và như thế,
tăng khả năng cạnh tranh của mình với các doanh nghiệp khác.
• Khác biệt hóa sản phẩm: tạo sự khác biệt cho những hình ảnh, nhãn
hiệu sản phẩm đã rất thân thiện với khách hàng. Chi phí cho việc tạo
sự thay đổi này là rất cao và mạo hiểm.
• Kinh tế quy mô: chính là số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng
lên thì tất cả chi phí cho một đơn vị sản phẩm sẽ giảm.
• Kênh phân phối: chủ yếu đã được các doanh nghiệp hiện tại thiết lập
nên sẽ là vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị
trường.

16

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
 Nhà cung cấp: là lực lượng thứ ba trong lực lượng cạnh tranh. Các nhà
cung cấp có thể được coi là áp lực đe dọa khi họ có khả năng tăng giá bán
đầu vào hoặc giảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp, làm
giảm tính cạnh tranh của nhà sản xuất. Áp lực của các nhà cung cấp
thường thể hiện trong các tình huống: nhà cung cấp độc quyền, không có
sản phẩm thay thế, doanh nghiệp mua yếu tố sản phẩm không phải là
khách hàng quan trọng và ưu tiên của nhà cung cấp, vật tư của nhà cung
cấp là quan trọng với doanh nghiệp, các nhà cung cấp vật tư cũng có
chiến lược liên kết dọc. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở: Mức độ
tập trung của các nhà cung cấp, tầm quan trọng của số lượng sản phẩm
đối với nhà cung cấp, sự khác biệt của các nhà cung cấp, ảnh hưởng của
các yếu tố đầu vào đối với chi phí hoặc sự khác biệt hóa sản phẩm, chi
phí chuyển đổi của các doanh nghiệp trong ngành, sự tồn tại của các nhà
cung cấp thay thế, nguy cơ tăng cường sự hợp nhất của các nhà cung cấp,
chi phí cung ứng so với tổng lợi tức của ngành
 Khách hàng: khách hàng có thể được coi như là một sự đe dọa cạnh
tranh, có quyền đòi hỏi doanh nghiệp giảm giá hoặc có nhu cầu chất
lượng cao và dịch vụ tốt. Tức là khách hàng có quyền nêu những nguyện
vọng cũng như mong muốn có lợi cho mình đến các doanh nghiệp, vì suy
cho cùng, các sản phẩm sản xuất ra nhằm phục vụ khách hàng và đây
cũng chính là lực lượng phản ánh năng lực cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp.Áp lực của khách hàng thường được thể hiện khi: khách hàng mua
số lượng lớn - họ có thể dùng ưu thế của mình để mặc cả giảm giá, ngành
cung cấp phụ thuộc vào khách hàng với tỷ trọng lớn, khách hàng có thể
vận dụng liên kết dọc có xu hướng khép kín sản xuất, khách hàng có đầy
đủ thông tin về thị trường của các nhà cung cấp thì áp lực mặc cả càng
lớn. Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở: Vị thế mặc cả, số lượng người
mua, thông tin mà người mua có được, tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng
hóa, tính nhạy cảm đối với giá, sự khác biệt hóa sản phẩm, mức độ tập


17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trung của khách hàng trong ngành, mức độ sẵn có của hàng hóa thay thế,
động cơ của khách hàng.
 Sản phẩm thay thế: lực lượng cuối cùng trong mô hình Porter là sự đe
doạ của sản phẩm thay thế. Là sản phẩm khác thỏa mãn được nhu cầu của
người tiêu dùng. Đe dọa này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự phân tích
và theo dõi thường xuyên những tiến bộ công nghệ nhằm đổi mới công
nghệ, đổi mới sản phẩm. Các nguy cơ thay thế thể hiện ở: chi phí chuyển
đổi trong sử dụng sản phẩm, xu hướng sử dụng sản phẩm thay thế của
khách hàng, tương quan giữa giá cả và chất lượng các mặt hàng thay thế.
1.2.2.3. Lý thuyết về môi trường bên trong doanh nghiệp
 Lý thuyết chuỗi giá trị : là quy trình tạo ra giá trị, được phân thành họat
động chính và hoạt động phụ trợ
Các hoạt động chính bảo gồm các hoạt động liên quan đến cơ sở hạ tầng (cấu trúc
và lãnh đạo), nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển, quản lý vật tư, chế tạo tiếp
thị bán hàng và dịch vụ
Các hoạt động hỗ trợ là các hoạt động chức năng giúp cho các hoạt động chính như
hoạt động chế tạo và Marketing. Chức năng quản lý vật tư, kiểm soát lưu chuyển
vật tư qua chuỗi giá trị từ cung cấp đến sản xuất và đi vào phân phối góp phần cho
việc giảm chi phí tạo ra giá trị. Chức năng nghiên cứu và phát triển nhằm phát triển
sản phẩm mới, phát triển công nghệ có thể hạ thấp chi phí chế tạo và tạo ra những
sản phẩm hấp dẫn hơn, bán được giá cao hơn, chức năng này ảnh hưởng đến chức
năng Marketing, góp phần tạo ra giá trị. Chức năng quản lý nhân lực đảm bảo rằng
doanh nghiệp sử dụng hợp lý những người có kỹ năng để thực hiện hiệu quả các
hoạt động tạo ra giá trị. Hoạt động hỗ trợ cuối cùng là cơ sở hạ tầng, là khung cảnh
chung của toàn doanh nghiệp trong đó xảy ra các họat động tạo ra giá trị. Để đạt
được những mục tiêu về hiệu quả, chất lượng, đổi mới sản phẩm và thỏa mãn khách
hàng thì doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh tranh bao gồm những hoạt

động tạo giá trị khác biệt.
 Các yếu tố thuộc về nội lực của doanh nghiệp

18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Nguồn nhân lực: đây là yếu tố hết sức quan trọng đối với sự thành
công của doanh nghiệp. Con người cung cấp đầu vào để hoạch định
mục tiêu, lựa chọn, thực hiện và kiểm tra chiến lược của doanh
nghiệp. Cho dù các kế hoạch, mục tiêu có được xác lập đúng đắn đến
mức độ nào đi chăng nữa, cũng khó mang lại hiệu quả nếu như trong
tổ chức đó không có những con người làm việc có hiệu quả
• Máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất: đây là yếu tố hết sức cần
thiết với doanh nghiệp, đánh giá đúng thực trạng máy móc thiết bị và
công nghệ của doanh nghiệp, nhằm lựa chọn chiến lược đầu tư đúng
đắn, nâng cao trình độ công nghệ và sử dụng công nghệ thành thạo,
để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh trong môi trường hiện đại của khu
vực và quốc tế
• Văn hóa: là yếu tố riêng của mỗi doanh nghiệp, thể hiện bản sắc
riêng, phong cách riêng của mỗi doanh nghiệp. Văn hóa là tâph hợp
cá giá trị, niềm tin, quy định, cá tính… Văn hóa thể hiện sự đoàn kết,
tập hợp sức mạnh của mọi người trong doanh nghiệp, cùng đồng tâm
thực hiện nhiệm vụ. Cần khơi dậy yếu tố văn hóa trong doanh nghiệp,
giúp cho mọi người hòa đồng, cùng cống hiến vì tương lai phát triển
của doanh nghiệp.
• Tiềm lực tài chính: là yếu tố phản ánh sức khỏe của doanh nghiệp về
vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, về lập kế hoạch tài chính, giám sát hoạt
động, phản ánh quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Phát huy hiệu rủa hoạt động tài chính để doanh nghiệp phát
huy được năng lực nội tại của mình. Doanh nghiệp nào có tiềm lực tài
chính tốt, phát huy tốt tiềm lực đó tấy yếu sẽ thu được nguồn lợi

nhuận cao.
• Quản lý sản xuất: là lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp gắn liền
với việc tạo ra sản phẩm. Đây là một trong những hoạt động chính
yếu của doanh nghiệp, quản lý sản xuất tốt sẽ tiết kiệm được chi phí,

19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, góp vào sự thành
công chung của doanh nghiệp.
• Hoạt động Marketing: là quá trình quảng bá, giới thiệu sản phẩm,
nghiên cứu thị trường, tung sản phẩm ra thị trường nhằm chiếm lĩnh
thị phần, nâng cao thương hiệu sản phẩm, đánh bóng tên tuổi doanh
nghiệp và sản phẩm để sản phẩm có thể tiếp cận và gần gũi với người
tiêu dùng.
• Vị trí địa lý của doanh nghiệp: đây cũng là yếu tố hết sức quan
trọng. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ hấp dẫn khách hàng, tạo cơ hội cho
doanh nghiệp phát triển
1.2.2.4. Lý thuyết phân tích SWOT
Ma trận SWOT dùng để tổng hợp những nghiên cứu về môi trường bên ngoài và
bên trong doanh nghiệp. Phân tích môi trường bên ngoài để phát hiện cơ hội và
những đe dọa đối với doanh nghiệp. Phân tích môi trường nội bộ để xác định thế
mạnh và điểm yếu của chính doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích các yếu tố trong ma trận, căn cứ vào mục tiêu, phương hướng
phát triển kinh doanh và các nguồn lực của mình, doanh nghiệp có thể thiết lập các
kết hợp. Về nguyên tắc có 4 loại kết hợp:
• Cơ hội với điểm mạnh (O- S)
• Cơ hội với điểm yếu (O- W)
• Đe dọa với điểm mạnh (T- S)
• Đe dọa với điểm yếu (T- W)
Bảng 1: Ma trận SWOT

Ma trận
SWOT
Điểm mạnh (S) Điểm yếu (W)
Cơ hội (O) Là chiến lược sử dụng những điểm mạnh
bên trong của doanh nghiệp để tận dụng
Là chiến lược nhằm cải
thiện những điểm yếu bên

20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những cơ hội bên ngoài. Tất cả các nhà
quản trị đều mong muốn tổ chức của họ
ở vào vị trí mà những điểm mạnh bên
trong có thể được sử dụng để lợi dụng
những xu hướng và biến cố của môi
trường bên ngoài. Thông thường các tổ
chức sẽ theo đuổi các chiến lược WO,
ST hay WT để có thể ở vào vị trí mà họ
có thể áp dụng các chiến lược SO. Khi
doanh nghiệp có những điểm yếu lớn thì
nó sẽ cố gắng vượt qua, làm cho chúng
trở thành những điểm mạnh. Khi một tổ
chức phải đối đầu với những mối đe doạ
quan trọng thì nó sẽ tìm cách tránh
chúng để có thể tập trung vào những cơ
hội
trong bằng cách tận dụng
những cơ hội bên ngoài.
Đôi khi những cơ hội lớn
bên ngoài đang tồn tại,

nhưng doanh nghiệp có
những điểm yếu bên trong
ngăn cản nó khai thác
những cơ hội này
Nguy cơ
(T)
Là chiến lược sử dụng các điểm mạnh
của doanh nghiệp để tránh khỏi hay giảm
đi ảnh hưởng của những mối đe doạ bên
ngoài. Điều này không có nghĩa là một
tổ chức hùng mạnh luôn luôn gặp phải
những mối đe doạ từ bên ngoài
Là các chiến lược phòng
thủ nhằm làm giảm đi
những điểm yếu bên trong
và tránh khỏi những mối đe
doạ từ bên ngoài. Một tổ
chức đối đầu với vô số mối
đe doạ bên ngoàii và những
điểm yếu bên trong có thể
khiến cho nó lâm vào hoàn
cảnh không an toàn chút
nào. Trong thực tế, một tổ
chức như vây phải đấu
tranh để tồn tại, liên kết,
hạn chế chi tiêu, tuyên bố
phá sản hay phải chịu vỡ
nợ
Lập một ma trận SWOT bao gồm các bước sau
• Liệt kê các điểm mạnh chủ yếu bên trong tổ chức

• Liệt kê các điểm yếu bên trong tổ chức
• Liệt kê các cơ hội lớn bên ngoài tổ chức
• Liệt kê các đe doạ quan trọng bên ngoài tổ chức

21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Kết hợp điểm mạnh bên trong với cơ hội bên ngoài và ghi kết quả của chiến
lược SO vào ô thích hợp
• Kết hợp điểm yếu bên trong với cơ hội bên ngoài và ghi kết quả của chiến
lược WO vào ô thích hợp
• Kết hợp điểm mạnh bên trong với mối đe doạ bên ngoài và ghi kết quả của
• cược ST vào ô thích hợp
Từ những phân tích cụ thể về môi trường bên ngoài, môi trường bên trong để biết rõ
vị trí của doanh nghiệp nhằm phát huy điểm mạnh, kiểm soát và hạn chế rủi ro,
khắc phục những hạn chế, từ đó có những chiến lược cạnh tranh phù hợp.
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều lĩnh vực,
nhiều mặt trong cả quá trình sản xuất kinh doanh và giữa các lĩnh vực này đều có
mối quan hệ tác động hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy nhau tạo thế cạnh tranh vững chắc
cho doanh nghiệp. Đó là:
• Thương hiệu sản phẩm: đây là vấn đề mỗi doanh nghiệp không những phải
coi trọng mà là yếu tố quyết định sống còn đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Sản phẩm được sản xuất trong doanh nghiệp đã có thương hiệu và uy tín trên
thị trường tất nhiên sẽ hấp dẫn người tiêu dùng, được người tiêu dùng chọn
lựa và do đó giúp cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao trong tiêu
thụ sản phẩm và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
• Chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm chính là vũ khí cạnh tranh vô
cùng quan trọng, được coi là chiến lược hàng đầu của mọi doanh nghiệp và
là yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong xu thế
hội nhập quốc tế việc nâng cao chất lượng sản phẩm ngày càng được các nhà

quản trị doanh nghiệp coi trọng, hàng loạt các chỉ tiêu chất lượng được ứng
dụng như ISO9000, ISO9002…
• Giá cả sản phẩm: đây cúng là một vấn đề cạnh tranh quan trọng mà các
doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm. Doanh nghiệp phải xây dựng một chiến
lược giá cả hợp lý trên từng thị trường, từng khách hàng, từng thời điểm

22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác nhau để làm sao tiêu thụ sản phẩm được nhanh chóng, quay vòng vốn
nhanh và ổn định sản xuất.
• Tổ chức quản lý sản xuất: việc bố trí hợp lý từ khâu cung ứng nguyên phụ
liệu đến quản lý khoa học quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao
động, tiết kiệm chi phí.
• Hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm: kênh tiêu thụ sản phẩm là hệ thống tổ chức
và công nghệ điều hoà, cân đối, thực hiện hàng hoá để tiếp cận và khai thác
hợp lý nhất nhu cầu của thị trường để đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến
khách hàng cuối cùng nhanh nhất
• Số lượng sản phẩm: bên cạnh các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu trên, các
doanh nghiệp cũng thường cạnh tranh bằng số lượng sản phẩm, vì nó đáp
ứng được nhu cầu khách hàng về mặt số lượng và cũng đem lại hiệu quả cao.
Nó đòi hỏi ngoài chất lượng, giá cả phù hợp, doanh nghiệp còn phải có chính
sách sản xuất, dự trữ hợp lý để tung ra thị trường vào các thời điểm thích
hợp, nhắm lấn át đối thủ cạnh tranh và thu lợi nhuận, mở rộng thị phần của
doanh nghiệp.
• Các lĩnh vực cạnh tranh khác: đó là các lĩnh vực yểm trợ nhằm phục vụ mục
đích bán hàng tốt nhất như dịch vụ sau bán hàng, có thể là vận chuyển miễn
phí, chính sách bảo hành sản phẩm và chăm sóc khách hàng, các hoạt động
quảng cáo, xúc tiến bán hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, triển lãm giới
thiệu sản phẩm, in ấn tài liệu cùng với catalogue các danh mục sản phẩm
của doanh nghiệp…Đây vừa là các biện pháp, cũng là nghệ thuật để thông

tin về hàng hoá, tác động vào người mua về phía mình để bán được nhanh và
nhiều hàng hoá hơn
Cuối cùng các lĩnh vực trên có tác động liên hoàn, hỗ trợ nhau phát triển thể
hiện rõ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh
của Tổng Công ty dệt may Hà Nội
2.1. Tổng quan về tổng công ty dệt may Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu tổ chức của công ty
2.1.1.1. Lịch sử hình thành
Ngày 7 tháng 4 năm 1978, việc ký kết hợp đồng xây dựng giữa Techno-
Import Việt Nam và hãng Unionmatex- cộng hoà liên bang Đức được tiến hành.
Chưa đầy một năm sau đó, tức là vào tháng 2 năm 1979, công trình xây dựng nhà
máy sợi Hà Nội đã được ký kết giữa hai tổ chức trên được khởi công. Cuối cùng
vào ngày 21 tháng 11 năm 1984 nhà máy dệt Hà Nội chính thức đi vào hoạt động.
Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1991 nhà máy dệt Hà Nội được đổi tên thành xí
nghiệp liên hợp sợi dệt kim Hà Nội với tên giao dịch quốc tế là Hanosimex (theo
QĐ-138-CNN-TCLĐ), rồi đến ngày 19 tháng 6 năm 1995 xí nghiệp liên hợp sợi dệt
kim Hà Nội được đổi tên thành công ty dệt Hà Nội (theo 840-TCLĐ, bộ công
nghiệp nhẹ).

24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chính thức vào ngày 28 tháng 2 năm 2000, cái tên công ty dệt may Hà Nội
chính thức ra đời. Từ đó đến nay là giai đoạn phát triển không ngừng của toàn công
ty trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc chuyển đổi mô hình doanh
nghiệp và hoạt động kinh doanh. Đặc bệt trong giai đoạn này công ty tập trung triển
khai thực hiện mô hình công ty mẹ- công ty con và thực hiện cổ phần hoá các công

ty thành viên.
2.1.1.2. Quá trình phát triển
Năm 1984 nhà máy sợi Hà Nội (hay còn gọi là nhà máy sợi Tây Đức) đi vào
hoạt động chính thức. Lần đầu tiên ở miền Bắc nước ta có một nhà máy quy mô 10
vạn cọc sợi , được đầu tư thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước Tây Âu.
Sự kiện này có thể nói đã đánh dấu một bước nhảy vọt của ngành Dệt-Sợi Việt Nam
trong thập kỷ 80. Khi đó công ty có 181 cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ và
quản lý cùng với 1551 công nhân viên, quả là một con số đáng kể khi so sánh với
công ty May Thăng Long trong những ngày đầu thành lập chỉ có 28 cán bộ và 550
công nhân. Tuy nhiên một thời gian ngắn ban đầu do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan, nhưng chủ yếu là do thiếu kinh nghiệm quản lý và chưa tiếp cận thị
trường, khi các chuyên gia nước ngoài về nước đã xảy ra tình trạng hàng loạt thiết
bị trục trặc kỹ thuật, thiếu phụ tùng thay thế. Riêng hệ thống dây chuyền kéo sợi có
khoảng 20% số máy lắp dở dang không hoạt động được. Hệ thống tải điện thông
gió, cấp nước không đồng bộ. Sản xuất nhiều biến động, năng suất lao động
thấp,chất lượng sản phẩm kém.
Trước tình hình như vậy,cán bộ lãnh đạo nhà máy đã không ngừng củng cố
tổ chức, xây dựng mối quan hệ đoàn kết nội bộ từ nhà máy xuống các đơn vị, củng
cố các mặt quản lý, sắp xếp lao động hợp lý. Đồng thời trong hoàn cảnh nền kinh tế
còn khó khăn, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kế hoạch hoá, ban lãnh đạo nhà
máy đã dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, mạo hiểm vay ngoại tệ để đầu tư
nhập thiết bị phụ tùng, mua nguyên liệu sản xuất để phục hồi số máy “chết” đưa các
công trình phụ trợ vào hoạt động đồng bộ. Đồng thời , nhà máy đẩy mạnh quan hệ

25

×