Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Luận văn quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 111 trang )

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.2. Kết quả giảm hộ nghèo tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 – 2018............ 50
Bảng 2.3. Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo của tỉnh Đắk Lắk năm 2018 ... 53

vii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Kết quả giảm hộ nghèo tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 – 2018 ....... 51

viii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

DTTS:

Dân tộc thiểu số

MTQG:

Mục tiêu quốc gia

Sở Lao động – TB&XH: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội



ix


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nghèo đói luôn tồn tại trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội,
không chỉ đối với các quốc gia đang phát triển mà cả với quốc gia có nền kinh
tế phát triển vẫn xảy ra tình trạng nghèo đói ở một bộ phận người dân và cần
có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng. Đặc biệt đối với các quốc gia đa dân
tộc, nghèo đói đang là vấn đề bức thiết, trong đó có Việt Nam. Trong q
trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay, nền kinh tế của Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng
được nâng cao, tuy vậy vẫn còn nhiều hộ dân sống trong tình trạng nghèo
đói.
Trong những năm qua, xóa đói, giảm nghèo không chỉ được Đảng và
Nhà nước ta xác định là một nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài mà còn là
mục tiêu được các địa phương xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt
động của cả hệ thống chính trị. Cơng tác giảm nghèo ln được sự quan tâm
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp. Đối với tỉnh Đắk Lắk,
trên cơ sở tổng hợp các nguồn lực, chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh
tế xã hội cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo của Trung ương, địa
phương, các tổ chức chính trị - xã hội trong và ngoài tỉnh; đến nay đời sống
của người dân ngày càng được nâng lên, hiệu quả giảm nghèo đã có nhiều
chuyển biến tích cực.
Mặc dù được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước trên nhiều lĩnh
vực như: văn hóa, y tế, giáo dục, vay vốn, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở,
nước sinh hoạt, đào tạo nghề,… tuy nhiên tình trạng nghèo đói trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk vẫn cịn nhiều bất cập, có diễn biến phức tạp và đối diện với
nhiều khó khăn, thách thức khi tỷ lệ hộ nghèo còn cao; đặc biệt tỷ lệ hộ nghèo

của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ còn ở mức quá cao là 44,45%, trong khi
tỷ lệ hộ nghèo chung chỉ còn 16,57% (cao gấp 3 lần so với tỷ lệ hộ nghèo
1


chung của tỉnh). Nguy cơ tái nghèo, nghèo mới ngày càng tăng, tỷ lệ thoát
nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và
nông thôn và giữa dân tộc thiểu số với dân tộc kinh trong tỉnh còn cao. Cơ sở
hạ tầng, tư liệu hỗ trợ sản xuất cịn thiếu; cơng tác chuyển đổi ngành nghề cịn
rất hạn chế; trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật chưa cao… làm cho đời sống
của bà con đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ rất khó khăn, thiếu bền vững,
khả năng nghèo mới, tái nghèo là rất cao, chênh lệch tỷ lệ hộ nghèo giữa các
vùng cịn khá lớn.
Do đó, có thể nói rằng, cơng tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
là một trong những nội dung được ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tại Đắk Lắk, định kỳ hàng năm và từng giai
đoạn, chính quyền các cấp đã xây dựng kế hoạch bố trí ngân sách và huy
động các nguồn lực để thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo giúp
cho người thoát nghèo bền vững; việc tiếp cận và triển khai giảm nghèo đa
chiều đang được Đắk Lắk tích cực triển khai nhằm hiện thực hóa mục tiêu
giảm nghèo bền vững; việc tiến hành tổ chức thực hiện đạt kết quả khá tốt,
tỉnh hình nghèo có nhiều chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, hiện nay, về cơ bản chính sách giảm nghèo chỉ mới giải
quyết được hai khía cạnh đầu tiên của nghèo đó là nghèo về thu nhập và cải
thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tình trạng nghèo được cải thiện
khơng đáng kể, họ thốt nghèo nhanh nhưng lại dễ rơi vào tình trạng tái
nghèo. Mặt khác, cơng tác tun truyền, vận động cịn hạn chế, do đó một bộ
phận người nghèo cịn có tư tưởng trơng chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà
nước, chưa chủ động tự lực vươn lên thoát nghèo, chưa được tiếp cận nhiều
các dịch vụ xã hội và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Để góp phần tìm hiểu

cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững tác giả chọn
đề tài “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”
để nghiên cứu.
2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tính đến thời điểm hiện nay, có nhiều cơng trình tập trung vào nghiên
cứu định lượng, chỉ một số ít cơng trình có kết hợp với nghiên cứu định tính.
Các nội dung chủ yếu được tập trung nghiên cứu về thực trạng nghèo đói,
nguyên nhân nghèo đói và các giải pháp thực hiện giảm nghèo. Có thể liệt kê
một số cơng trình có liên quan như sau:
- Một nghiên cứu của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP)
cũng được tiến hành đồng thời với tựa đề “Xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam”,
1995. Điểm nổi bật trong nghiên cứu này là đã làm rõ nguyên nhân gây ra đói
nghèo ở Việt Nam và phân tích các nhóm giải pháp được thực hiện tương ứng
để giải quyết các nguyên nhân của đói nghèo [14].
- Tác phẩm“Vấn đề nghèo ở Việt Nam” của tác giả Bùi Thế Giang đã
đưa ra những vấn đề chung nhất về tình hình nghèo đói ở Việt Nam những
năm của thế kỷ 19, những tác động của nghèo đói lên đời sống dân cư và an
sinh của xã hội [10].
- “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay” Tác
phẩm của tác giả Nguyễn Thị Hằng đã đánh giá được tình hình nghèo đói của
nơng thơn Việt Nam sau 3 năm dỡ bỏ cấm vận, nền kinh tế có bước chuyển
động đầu tiên nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn Việt Nam vẫn cịn cao. Qua
đi sâu nghiên cứu tình hình nghèo đói ở nơng thơn, tác giả đã chỉ ra những
khó khăn cũng như những biện pháp thực hiện xóa đói giảm nghèo trong điều
kiện hiện tại [11].
- Trong tác phẩm “Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam” tác
giả Lê Xuân Bá đã phản ánh tổng quan về nghèo đói trên thế giới; đưa ra các

phương pháp đánh giá về nghèo đói hiện nay, nghèo đói ở Việt Nam và
nghiên cứu thực tiễn về nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình; qua đó đưa ra một số
quan điểm, giải pháp chung về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam [2].
3


- Năm 2009 cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoa với tựa
đề “Hồn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu của Việt Nam
đến năm 2015”, đây là một cơng trình nghiên cứu góp phần bổ sung các vấn
đề lý luận và thực tiễn về cơng tác hoạch định chính sách xóa đói giảm
nghèo, qua đó tác giả đã tập trung đánh giá tình hình thực hiện một số chính
sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu. Nghiên cứu đã chỉ ra mặt đạt được mà mỗi
chính sách mang lại đồng thời cũng tìm ra các vấn đề bất cập trong triển khai
thực hiện chính sách, tác giả đã tiến hành đánh giá nhằm chỉ ra những tác
động tích cực và tiêu cực của mỗi chính sách đến công cuộc giảm nghèo của
Việt Nam [15].
- Nghiên cứu của tác giả Lê Văn Bình với đề tài “Quản lý nhà nước về
xóa đói giảm nghèo vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ trong giai
đoạn hiện nay” năm 2009 đã hệ thống hóa lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
của Việt Nam và khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ trong việc
giải quyết đói nghèo từ đó tạo ra cơ sở lý luận để đổi mới công tác quản lý
nhà nước về giảm nghèo bền vững nói chung đặc biệt là khu vực Bắc Trung
bộ và Duyên hải Trung bộ [4].
- Trong sách chun khảo “Chính sách xóa đói giảm nghèo - Thực
trạng và giải pháp” của tác giả Lê Quốc Lý chủ biên: Đã nêu một số lý luận
về xóa đói, giảm nghèo; những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
của Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam;
chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010; một số
chương trình xóa đói giảm nghèo điển hình của Việt Nam thời gian qua; đánh
giá tổng qt thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam giai

đoạn 2001-2010; định hướng và mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam
trong thời gian tới; một số cơ chế nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách xóa
đói, giảm nghèo ở Việt Nam; giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam thời
gian tới [17].
4


- Tác phẩm của tác giả Nguyễn Hải Hữu “Định hướng tiếp cận giải
quyết vấn đề về nghèo đói ở nước ta” khẳng định nghèo đói là vấn đề tồn
cầu không một quốc gia nào giải quyết triệt để được. Tác giả khẳng định
những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo là một
thành cơng khơng nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội làm cho bộ
mặt các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã có sự thay đổi đáng kể, nhất là về
kết cấu hạ tầng và phát triển sản xuất; đời sống của đại đa số người dân được
nâng cao [16].
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tìm hiểu về nguyên
nhân, thực trạng và các giải pháp giảm nghèo, giúp người đọc thấy được bức
tranh toàn cảnh về chính sách giảm nghèo tại một số địa phương. Với các
cơng trình nghiên cứu khoa học của các tác giả kể trên, giúp cho tác giả có
được những nguồn tư liệu quý giá để tham khảo, kế thừa trong quá trình làm
luận văn, phục vụ cho việc xây dựng luận văn đạt kết quả cao hơn. Tuy nhiên,
để có cách tiếp cận, nhìn nhận trên các phương diện về công tác quản lý nhà
nước về giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì chưa có đề tài nào đề cập
một cách cụ thể sát với cơ sở thực tiễn và khoa học quản lý. Để từ đó có thể
áp dụng vào thực tế tại địa phương làm phong phú hơn các chính sách giảm
nghèo bền vững, góp phần thực hiện thành công công tác quản lý giảm nghèo
tại địa bàn tỉnh Đắk lắk trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giảm nghèo

bền vững, quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững làm cơ sở cho việc đề
xuất hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền
vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
5


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến QLNN về giảm nghèo bền
vững.
- - Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhằm chỉ ra những hạn chế và
nguyên nhân làm cơ sở cho việc đề xuất hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý nhà nước trong lĩnh vực này trên địa bàn của tỉnh.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công tác giảm
nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững giai đoạn từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử
và duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giảm nghèo bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về
giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở Việt
Nam và trên thế giới.
- Phương pháp tổng hợp: Dựa trên những tài liệu, thông tin thực tiễn của
các ngành, các địa phương và các dữ liệu thu thập được để phân tích, đánh giá
thực trạng giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững,
6


những kết quả và hạn chế làm cơ sở để đưa ra những kết luận và đề xuất mang
tính khoa học phù hợp với lý luận và thực tiễn về các giải pháp tăng cường quản
lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như
thống kê, so sánh...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Luận văn hệ thống hóa, làm rõ khái niệm lên quan đến giảm nghèo bền
vững, quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, xác định rõ những nội dung
quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững; những yếu tố tác động đến quản
lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những khuyến nghị của luận văn là cơ sở để hoàn hiện hệ thống pháp
luật, cơ chế chính sách về giảm nghèo bền vững nhằm tăng cường quản lý nhà
nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Luận văn là tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
và cơ quan có thẩm quyền trong quản lý về giảm nghèo bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, nội dung đề tài gồm có 03 chương,
với kết cấu như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chương 3. Quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

7


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1. Giảm nghèo bền vững
1.1.1. Những vấn đề chung về nghèo
1.1.1.1. Khái niệm nghèo
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính chất toàn cầu, là
một trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển của con người, cộng
đồng cũng như mỗi quốc gia. Cho đến nay có nhiều định nghĩa về nghèo đói
được đưa ra, tùy theo từng quốc gia quan niệm về nghèo đói có vài điểm khác
biệt.
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Thái Lan năm 1993, các quốc gia
trong khu vực đã thống nhất cao cho rằng:“Nghèo là tình trạng một bộ phận
dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người
mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và phong tục tập quán địa phương”[3, tr.15]. Có thể xem đây
là định nghĩa chung nhất về nghèo đói, trong đó các tiêu chí chuẩn mực và
đánh giá cịn mang tính động, bởi nó chưa tính đến sự khác biệt và độ chênh
lệch giữa các quốc gia, các vùng miền, các điều kiện lịch sử cụ thể quy định
sự phát triển ở mỗi nơi.
Theo Liên Hợp Quốc (UN) trong Tuyên bố vào tháng 6 năm 2008 đã

xác định: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các
hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là khơng có đủ ăn, đủ mặc, không được đi
học, không được đi khám, khơng có đất đai để trồng trọt hoặc khơng có nghề
nghiệp để ni sống bản thân, khơng được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có
nghĩa là sự khơng an tồn, khơng có quyền và bị loại trừ của cá nhân, hộ gia
đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội
8


hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và cơng trình
vệ sinh an tồn” [8, tr.17].
Ngồi ra cũng có quan niệm khác về nghèo đói của chuyên gia kinh tế
học người Mỹ Galbraith cũng quan niệm: “con người bị coi là nghèo khổ khi
mà thu nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt
dưới mức thu nhập cộng đồng. Khi đó họ khơng thể có những gì mà đa số
trong cộng đồng coi như cái cần thiểu để sống một cách đúng mực”[33, tr.1].
Quan điểm về nghèo ln mang tính động, nó tùy thuộc vào tính chất
khơng gian, thời gian, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế
xã hội của từng địa phương hay từng quốc gia. Cũng như trên thế giới, quan
niệm về nghèo ở Việt Nam khá đa dạng, trong “Chiến lược tồn diện về tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo”, năm 1993 tại Hội nghị chống nghèo đói do
Ủy ban kiểm tra – xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ
chức tại Thái Lan, Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo đói như
sau “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của địa phương” [14, tr.33].
Có thể nói rằng, nghèo là tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân
chỉ dành hầu như tồn bộ cho nhu cầu ăn, thậm chí khơng đủ chi cho ăn,
khơng có phần tích lũy và họ khơng thể vươn tới các nhu cầu văn hóa – tinh

thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất để ưu tiên
cho mưu sinh hằng ngày.
1.1.1.2. Chuẩn nghèo đơn chiều và chuẩn nghèo đa chiều.
Xác định được mức độ giàu nghèo là một việc không dễ dàng vì nó gắn
với từng thời kỳ, từng quốc gia và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Ở
Việt Nam, kể từ khi có chủ trương xóa đói giảm nghèo, các cơ quan trong
nước và quốc tế cũng đã đưa ra những chuẩn mực để xác định tình hình nghèo
9


đói làm cơ sở cho việc xây dựng các Chương trình xóa đói giảm nghèo phù
hợp với tập qn và mức sống của người dân.
Chuẩn nghèo là thước đo nhằm xác định ai là người nghèo hoặc không
nghèo để thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo của nhà nước, nhằm bảo
đảm cơng bằng trong thực hiện các chính sách giảm nghèo .
Ở Việt Nam, căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, đến nay nước ta đã qua 7 lần điều chỉnh chuẩn
nghèo theo hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người nghèo. Các
tiêu chí này thay đổi theo thời gian cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập
quốc gia.
Ngày 19/11/2015, Thủ tường Chính phủ đã ban hành Quyết định số
59/2015/QĐ-TTg quy định Chuẩn nghèo giai đoạn 2016 – 2020, nội dung về
các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 2020; chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho
giai đoạn 2016 – 2020. Các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng
cho giai đoạn 2016 - 2020 gồm tiêu chí về thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận
dịch vụ xã hội cơ bản.
Về tiêu chí về thu nhập, chuẩn nghèo ở khu vực nơng thôn là 700.000
đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng; chuẩn cận
nghèo ở khu vực nông thôn là 1.000.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành
thị 1.300.000 đồng/người/tháng.

Về tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: Gồm 5
dịch vụ xã hội cơ bản: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ
số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn;
tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình qn đầu
người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn
thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
10


Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho
giai đoạn 2016 – 2020, cụ thể:
- Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống hoặc
có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên;
- Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống hoặc
có thu nhập bình qn đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên;
- Hộ cận nghèo khu vực nơng thơn là hộ có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ
số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản;
- Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ
số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản;
- Hộ có mức sống trung bình ở khu vực nơng thơn là hộ có thu nhập
bình qn đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng;

- Hộ có mức sống trung bình ở khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình
quân đầu người/tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng [22].
Mức chuẩn nghèo trên là căn cứ để đo lường và giám sát mức độ thiếu
hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; là cơ sở
xác định đối tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội;
hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội khác trong giai đoạn 2016 – 2020
[7].

11


Chuẩn nghèo đơn chiều: Trong những năm trước đây, nghèo đói
thường được đo lường thơng qua thu nhập hoặc chi tiêu, người ta thường đánh
đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Chuẩn nghèo đơn chiều được xác
định dựa trên mức chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy ra
bằng tiền (đo bằng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu năng
lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sinh hoạt bình thường của con người,
khoảng 2.100 Kcal/người/ngày và chi tiêu phi lương thực thực phẩm).
Hộ nghèo là những đối tượng có mức thu nhập thấp hoặc chi tiêu thấp
hơn chuẩn nghèo. Cách đo lường này đã duy trì trong thời gian dài và có ưu
điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo,
ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo
thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống, thu nhập thấp khơng phản ánh
hết được các khía cạnh của nghèo đói, một số nhu cầu cơ bản của con người
không thể quy ra tiền hoặc không thể mua được bằng tiền. Có những trường
hợp hộ gia đình có tiền nhưng không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu
tối thiểu.
Mặc dù một số hộ khơng có tên trong danh sách hộ nghèo nhưng lại
thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng xa học sinh phải học
trong những căn nhà lá đơn sơ, bốn bề gió lùa. Do đó, nếu chỉ dùng thước đo

duy nhất dựa trên thu nhập hay chi tiêu sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng
nghèo, dẫn đến sự thiếu cơng bằng, chưa chính xác, từ đó các chính sách hỗ
trợ mang tính cào bằng và chưa phù hợp với nhu cầu [7].
Chuẩn nghèo đa chiều: Bắt đầu từ năm 2007, Alkire và Foster đã
nghiên cứu về cách thức đo lường mới về nghèo đói để đáp ứng tính đa chiều,
đây cũng là cách đo lường mà UNDP sử dụng để tính tốn chỉ số nghèo đa
chiều MPI và đã được đề xuất áp dụng trên thế giới sau năm 2015 để theo dõi,
đánh giá đói nghèo. Chỉ số đo lường đa chiều được tính tốn dựa trên 3 chiều
nghèo Y tế, Giáo dục và Điều kiện sống với 10 chỉ số về phúc lợi, chuẩn
12


nghèo được xác định bằng 1/3 tổng số thiếu hụt. Đã có 32 nước trên thế giới
(Mexico, Colombia, Braxin, Trung Quốc…) đã chuyển đổi và áp dụng phương
pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đo lường nghèo đa chiều để xác
định, phân loại đối tượng nghèo, đánh giá và xây dựng các chính sách giảm
nghèo và phát triển xã hội.
Cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam là sử dụng song
song đo lường ngưỡng thiếu hụt các nhu cầu xã hội cơ bản và mức sống tối
thiểu (chuẩn thu nhập), cách tiếp cận này dựa theo quyền con người, quyền
được bảo đảm an sinh xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con
người, các nhu cầu này được coi là quan trọng ngang bằng nhau và con người
có quyền được đáp ứng tất cả các nhu cầu này để đảm bảo cuộc sống bình
thường. Việc lựa chọn các chiều nghèo tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc
gia và đối với Việt Nam, các chiều được lựa chọn vào các nhu cầu cơ bản
trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013, Nghị quyết số 15NQ/TW và Nghị quyết số 76/2014/QH13, bao gồm 5 chiều: Y tế, giáo dục,
nhà ở, nước sạch và vệ sinh và tiếp cận thông tin. Các chiều thể hiện quyền
được đáp ứng các nhóm nhu cầu cơ bản, sẽ được cho điểm bằng nhau, ví dụ:
có tất cả 5 chiều (mỗi chiều là một tiêu chí thành phần), mỗi chiều được 20
điểm, như vậy tổng số điểm sẽ là 100 điểm; với phương pháp đo lường nghèo

đa chiều đã và sẽ góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn
quốc tế, góp phần thực hiện quyền con người một cách cụ thể và thiết thực
nhất [7].
Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa
chiều đã tạo điều kiện để nhận dạng đối tượng nghèo chính xác hơn, cụ thể
hơn, tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân, đồng thời
có giải pháp hỗ trợ phù hợp hơn nhu cầu và đặc tính của hộ nghèo, hộ cận
nghèo, giúp cho các nhà quản lý nhà nước nhìn nhận rõ hơn các vùng miền,

13


khu vực có mức độ thiếu hụt cao, làm cơ sở xây dựng các chính sách giảm
nghèo để giảm dần sự chênh lệch, khoảng cách giữa các vùng, nhóm dân cư.
1.1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói ở Việt Nam
Có thể nói rằng, việc tìm ra những ngun nhân dẫn đến đói nghèo nói
chung, nghèo nói riêng có ý nghĩa quan trọng giúp các cấp chính quyền nhận
thức rõ nhiệm vụ và đề ra các phương hướng giảm nghèo. Thực trạng nghèo
đói ở Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Ngun nhân có tính lịch sử:
+ Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải
qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, những tổn thất về con người,
về vật chất và tinh thần do chiến tranh để lại là trở ngại ảnh hưởng lớn đến
việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Sau khi thống nhất, Nhà nước Việt
Nam đã thực thi một số chính sách kinh tế khơng thành công đã để lại tác
động xấu đến nền kinh tế làm suy kiệt nguồn lực của Nhà nước và Nhân dân.
+ Các ngành sản xuất ở Việt Nam xuất phát điểm là yếu kém, cụ thể:
sản xuất nông nghiệp đơn điệu, sản xuất công nghiệp thiếu hiệu quả, nền
thương nghiệp tư nhân không phát triển, nền thương nghiệp quốc doanh
khơng đủ sức cung cấp hàng hố và dịch vụ cho nhu cầu xã hội.

+ Bên cạnh đó, một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn không được
đào tạo, khơng được khuyến khích ra thành thị lao động. Thất nghiệp tăng cao
trong thời gian trước đổi mới.
- Nguyên nhân từ thực tiễn:
+ Do Chính phủ thường xuyên điều chỉnh mức chuẩn nghèo cho tiếp
cận với mức chuẩn nghèo thế giới, đối với các nước đang phát triển hiện nay
ở mức là 1 USD/người/ngày. Bên cạnh đó, số lượng dân cư sống ở các vùng
nông thôn cao 67,86% (năm 2014), trong khi đó tổng sản phẩm quốc dân ở
khu vực nông thôn rất thấp. Hệ số Gini là 0,434 và hệ số chênh lệch thu nhập
giữa các nhóm thu nhập là 9,35 nên sự bất bình đẳng cao [34].
14


+ Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhưng chưa nhanh và khơng
đảm bảo tính bền vững. Liên tục xảy ra sự không ổn định nguy cơ lạm phát và
giảm phát cao, tình trạng thất nghiệp có xu hướng gia tăng. Người dân, đặc biệt
là nông dân chịu nhiều rủi ro, thiên tai, dịch bệnh, thất nghiệp, giá cả tăng cao,
chính sách thay đổi, hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng,
do đó nguy cơ tái nghèo cao. Đồng thời có sự chênh lệch lớn về điều kiện kinh tế
xã hội giữa các vùng miền, giữa thành thị và nơng thơn, giữa các dân tộc.
+ Ngồi ra, môi trường bị phá hoại ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp, trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nơng nghiệp. Tình trạng
lạm dụng sử dụng hố chất trong sản xuất nơng nghiệp cịn khá phổ biến, cịn
sử dụng các kỹ thuật canh tác khơng phù hợp với việc bảo vệ môi trường,
thảm thực vật bị phá hoại, tỉ lệ che phủ rừng bị giảm do tình trạng phá rừng.
Những việc làm đó tác động đến chất lượng của môi trường đất, nước và tài
nguyên sinh vật.
1.1.2. Giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
1.1.2.1. Khái niệm
Đề cập đến giảm nghèo trong đó ln bao hàm xóa đói, và cũng giống

như khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Giảm nghèo là
một phạm trù cũng chỉ mang tính lịch sử, do đó chỉ có thể từng bước giảm
nghèo chứ chưa thể xóa sạch được nghèo. Hiểu một các chung nhất, Theo
Tiến sỹ Trần Thị Hằng, giảm nghèo được định nghĩa như sau: “Giảm nghèo
là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thốt khỏi
tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm
xuống”[12, tr.33]. Nói một cách khác, giảm nghèo là q trình chuyển một bộ
phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở một khía cạnh khác, giảm
nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có nhiều
sự lựa chọn hơn để cải thiện mọi mặt đời sống.
Cho đến nay, vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về giảm nghèo

15


bền vững hay giảm nghèo theo hướng bền vững. Tuy nhiên vấn đề giảm
nghèo luôn được đề cập đến khi nhắc đến sự phát triển bền vững. Có thể
khẳng định rằng, giảm nghèo bền vững là một trong những yếu tố quan trọng
tạo nên sự phát triển bền vững. Đồng thời phát triển kinh tế bền vững là cơ sở,
điều kiện để giảm nghèo bền vững. Do vậy, để tìm hiểu khái niệm về giảm
nghèo bền vững chúng ta cần phải tìm hiểu rộng hơn về các vấn đề này, nó
bao gồm các nội dung về giảm nghèo và phát triển bền vững.
Trước hết, thuật ngữ phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm
sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Thuật ngữ “phát triển bền vững”
được Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế IUCN sử dụng lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn
Thế giới với nội dung: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng
tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội
và sự tác động đến môi trường sinh thái học” [13, tr.26]. Khái niệm này được
sử dụng phổ biến hơn vào năm 1987 trong báo cáo của Uỷ ban Môi trường và

Phát triển Thế giới - WCED, trong báo cáo đã nêu rõ: “Phát triển bền vững là
sự phát triển đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến những
khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai”[15, tr.29]. Nói cách
khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã
hội cơng bằng và mơi trường được bảo vệ, gìn giữ, cụ thể như sau:
- Kinh tế bền vững: có ý nghĩa quyết định trong phát triển bền vững.
Đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế cần tạo điều kiện thuận lợi trong
việc phát triển xã hội bền vững và mơi trường bền vững.
- Xã hội bền vững: địi hỏi sự phát triển sự công bằng và xã hội phải
chú trọng cho phát triển con người, tạo điều kiện cho tất cả mọi người có cơ
hội phát triển tiềm năng và có điều kiện sống ngày càng tốt hơn.

16


- Môi trường bền vững: phải đảm bảo sự cân bằng giữa yêu cầu bảo vệ
môi trường với nhu cầu khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ sự
phát triển xã hội và lợi ích của con người.
Trong tuyên bố chung của Hội nghị thượng đỉnh Rio+20 (12/2012) đã
khẳng định: “không thể phát triển bền vững chừng nào thế giới cịn đói nghèo
và cùng khổ”[7, tr.11]. Tun bố này đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện
phát triển bền vững đồng thời với việc xố đói giảm nghèo. Quan điểm của
Nhà nước ta là không thể giúp người nghèo thoát nghèo bằng cách tặng nhà,
tặng phương tiện sống, v.v.. Đây là cách xố nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời,
khơng bền vững. Như vậy, muốn giảm nghèo bền vững, Nhà nước, cơ quan
chức năng trong thực hiện các chương trình giảm nghèo cần quan tâm đến
việc phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển mới, để họ có thể
tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó cần quan tâm đến sự hỗ trợ, ngăn ngừa và loại
trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không để xảy ra rủi ro sau đó đi khắc phục hậu
quả. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo cần được ưu tiên cho các vùng có khả

năng, điều kiện thốt nghèo nhanh và có thể lan toả sang các vùng lân cận.
Tuy chưa có một khái niệm chung, đầy đủ cho “giảm nghèo bền
vững”, nhưng có thể hiểu là để giảm nghèo bền vững cần phải kết hợp và thoả
mãn cả hai yêu cầu, đó là giảm nghèo và phát triển bền vững, điều đó thể hiện
trên các khía cạnh tạo cơ hội cho người nghèo thốt nghèo, ổn định và khơng
ngừng tăng thu nhập để khơng bị tái nghèo khi có các tác động bất lợi của tự
nhiên và xã hội. Việc giảm nghèo phải đảm bảo được sự phát triển bền vững
trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.
Như vậy, có thể hiểu giảm nghèo bền vững là quá trình giảm nghèo đảm
bảo được sự cải thiện đồng thời của sự bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường
của một đất nước, một địa phương, một cộng đồng dân cư hay của một hộ gia
đình.
1.1.2.2. Các chính sách giảm nghèo bền vững
17


Những năm qua, việc tập trung thực hiện thành công Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và các chương trình giảm nghèo đã tạo điều kiện để
người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; cơ sở hạ tầng của các
huyện, xã nghèo được tăng cường; đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt,
Để tạo sự chuyển biến mới trong công tác giảm nghèo thời gian tới, Chính
phủ quyết nghị về định hướng giảm nghèo bền vững với các chính sách hỗ trợ
giảm nghèo gồm chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung và chính sách hỗ trợ
giảm nghèo đặc thù như sau:
- Về các chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung:
+ Hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người
nghèo: Tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận các nguồn vốn, gắn
với việc hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến công và chuyển giao
kỹ thuật, cơng nghệ vào sản xuất; thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng
ưu đãi đối với hộ nghèo, nhất là hộ có người khuyết tật, chủ hộ là phụ nữ.

Đồng thời thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất
là lao động nghèo; ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở trường, lớp học, thiết bị,
đào tạo giáo viên dạy nghề; gắn dạy nghề với tạo việc làm đối với lao động
nghèo. Mở rộng diện áp dụng chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động đối với lao
động nghèo trên cả nước.
+ Hỗ trợ về giáo dục và đào tạo: Thực hiện có hiệu quả chính sách
miễn, giảm học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ chi phí học tập
đối với học sinh nghèo ở các cấp học, nhất là bậc mầm non; tiếp tục thực hiện
chính sách tín dụng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên, nhất là sinh viên nghèo.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách ưu đãi, thu hút đối với giáo viên công tác ở
địa bàn khó khăn; khuyến khích xây dựng và mở rộng “Quỹ khuyến học”; ưu
tiên đầu tư trước để đạt chuẩn cơ sở trường, lớp học ở các xã nghèo, thơn, bản
đặc biệt khó khăn.

18


+ Hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng: Thực hiện có hiệu quả chính sách cấp
thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế đối với
người thuộc hộ cận nghèo; xây dựng chính sách hỗ trợ người nghèo mắc bệnh
nặng, bệnh hiểm nghèo. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ việc cung cấp dinh
dưỡng cho phụ nữ, trẻ em nghèo ở địa bàn nghèo. Tăng cường hơn nữa chính
sách ưu đãi, thu hút đối với cán bộ y tế công tác ở địa bàn nghèo. Ưu đãi đầu
tư trước để đạt chuẩn cơ sở bệnh viện, trạm y tế ở các huyện, xã nghèo.
+ Hỗ trợ về nhà ở: Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở cho
hộ nghèo khu vực nông thôn, miền núi để cải thiện nhà ở, ưu tiên hộ nghèo ở
người cao tuổi, người khuyết tật. Xây dựng cơ chế, chính sách của địa phương
để hỗ trợ nhà ở đối với người nghèo ở đô thị trên cơ sở huy động nguồn lực
của cộng đồng, gia đình, dịng họ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình
đầu tư xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp.

+ Hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý: Thực hiện
có hiệu quả chính sách trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, tạo điều
kiện cho người nghèo hiểu biết quyền, nghĩa vụ của mình, chủ động tiếp cận
các chính sách trợ giúp của Nhà nước, vươn lên thoát nghèo.
+ Hỗ trợ người nghèo hưởng thụ văn hóa, thơng tin: Tổ chức thực
hiện tốt chương trình đưa văn hóa, thơng tin về cơ sở; đa dạng hóa các hoạt
động truyền thơng, giúp người nghèo tiếp cận các chính sách giảm nghèo, phổ
biến các mơ hình giảm nghèo có hiệu quả, gương thốt nghèo.
- Về các chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù:
+ Hộ nghèo, người nghèo dân tộc thiểu số; hộ nghèo, người nghèo
sinh sống ở huyện nghèo, xã nghèo và thơn, bản đặc biệt khó khăn được
hưởng các chính sách ưu tiên sau: Hộ nghèo, người nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn, xã an tồn khu, xã biên giới và các thơn, bản đặc biệt khó khăn
được hưởng chính sách hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ; Hộ
19


nghèo ở các thôn, bản giáp biên giới không thuộc huyện nghèo trong thời gian
chưa tự túc được lương thực được hỗ trợ 15 kg gạo/khẩu/tháng theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ;
+ Những đối tượng này có chính sách ưu đãi cao hơn về mức đầu tư,
hỗ trợ về lãi suất đối với hộ nghèo ở các địa bàn đặc biệt khó khăn. Nhà nước
mở rộng chính sách cử tuyển đối với học sinh thuộc hộ gia đình sinh sống ở
các địa bàn đặc biệt khó khăn; xây dựng chính sách học bổng cho con em hộ
nghèo dân tộc thiểu số ở các địa bàn đặc biệt khó khăn học đại học. Đồng thời
ưu tiên hỗ trợ nhà văn hóa cộng đồng, đưa thơng tin về cơ sở, trợ giúp pháp lý
miễn phí đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở các địa bàn đặc biệt khó khăn;
Xây dựng dự án bảo tồn đối với các nhóm dân tộc ít người, dự án định canh
định cư để hỗ trợ người dân ở các địa bàn đặc biệt khó khăn (núi đá, lũ quét,

thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai);
+ Tiếp tục và mở rộng thực hiện các chính sách ưu đãi đối với huyện
nghèo, xã nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, bao gồm: Chính sách
hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; chính sách giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, nâng cao dân trí; chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo; chính sách,
cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện;
+ Ưu tiên đầu tư trước để hoàn thành, đạt chuẩn theo tiêu chí nơng
thơn mới đối với cơ sở trường lớp học, trạm y tế, nhà văn hóa ở các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi;
+ Ưu tiên đầu tư trước để đạt chuẩn các cơng trình hạ tầng cơ sở theo
tiêu chí nơng thơn mới ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo, xã an toàn khu;
+ Mở rộng chương trình quân dân y kết hợp; xây dựng mơ hình giảm
nghèo gắn với an ninh quốc phịng để hỗ trợ sản xuất, tạo thu nhập cho người
nghèo trên địa bàn biên giới; tăng cường bộ đội biên phòng về đảm nhiệm vị
trí cán bộ chủ chốt ở các xã biên giới;
20


+ Các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án sử
dụng vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA và các chương trình khác phải tập
trung các hoạt động và nguồn lực ưu tiên đầu tư trước cho các huyện nghèo,
xã nghèo để đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo ở các địa bàn này.
1.1.2.3. Vai trị của xóa đói giảm nghèo đối với phát triển kinh tế - xã hội
Giảm nghèo bền vững là bộ phận cấu thành quan trọng của phát triển
kinh tế - xã hội, nếu như cơng tác giảm nghèo nói chung, giảm nghèo bền
vững nói riêng ở quốc gia nào đạt hiệu quả cao thì kinh tế - xã hội ở quốc gia
đó phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của quốc gia,
khu vực, ngược lại quốc gia nào khơng giải quyết được vấn đề đói nghèo thì
quốc gia đó ln ẩn chứa nguy cơ phát triển khơng bền vững và có nguy cơ

bất ổn về chính trị, xã hội. Do vậy, giảm nghèo bền vững có vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu trong
tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ.
Bên cạnh các chính sách nhằm đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển
kinh tế, giảm nghèo bền vững còn là một chính sách được ưu tiên hàng đầu
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Giảm nghèo bền
vững có tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững là hai mặt của một vấn đề
nhưng chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Phát triển
kinh tế - xã hội sẽ góp phần giảm nghèo bền vững và ngược lại, giảm nghèo
bền vững sẽ tạo đà thúc đẩy quá trình phát trển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công tác giảm nghèo bền
vững thể hiện những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, giảm nghèo bền vững góp phần ổn định kinh tế chính trị, xã
hội. Bởi bộ phận dân cư nghèo thường là những người ít có điều kiện để tiếp
cận các dịch vụ cơ bản nên hiểu biết và nhận thức còn hạn chế, dễ tự ti mặc
cảm và dễ bị kẻ xấu lợi dụng. giảm nghèo bền vững giúp nâng cao trình độ
21


dân trí, cung cấp và hỗ trợ các dịch vụ thiết yếu để người dân hiểu biết chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, giảm nghèo bền vững giúp cho bộ phận dân cư nghèo nhận
thức được việc phát triển kinh tế xã hội là mục tiêu phấn đấu của tất cả mọi
người thuộc mọi tầng lớp khác nhau. Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ
của tồn dân tộc khơng kể giàu nghèo, địa vị sắc tộc…người nghèo cũng phải
có trách nhiệm gánh vác nhiệm vụ với mọi người theo khả năng của mình.
giảm nghèo bền vững bằng cách giáo dục, đào tạo, tuyên truyền để người
nghèo có được hiểu biết và có kiến thức làm giàu để thoát nghèo đồng thời
giáo dục tư tưởng cho người nghèo xóa bỏ tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự

giúp đỡ của nhà nước, của cộng đồng, tự mình vươn lên làm giàu cho bản
thân. Nghĩa là vận động, tuyên truyền, giáo dục thuyết phục để họ chủ động,
tích cực tham gia phấn đấu vươn lên vì mục tiêu thốt nghèo của chính bản
thân họ.
Thứ ba, giảm nghèo bền vững sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống,
chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho bộ phận dân cư nghèo. Giải
quyết ngày một tốt hơn vấn đề việc làm cho người nghèo làm tăng thu nhập và
giảm tỷ lệ hộ nghèo trong cộng đồng. Nâng cao hiệu quả của chính sách giảm
nghèo bền vững cịn là tăng cường cơng tác, huy động, khai thác nguồn lực tài
chính để hỗ trợ người nghèo, giúp cho người nghèo, cộng đồng nghèo có các
điều kiện tương ứng để thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thông qua giảm nghèo bền vững giúp cho việc đào tạo, giáo dục cho
người nghèo cũng như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ tổ
chức quản lý trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, đào tạo nâng
cao năng lực cho cộng đồng, hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật cho người
nghèo ở các vùng kém phát triển để họ nhận thức được vai trò cá nhân trong
22


×