Tác giả Nguyễn Tuân và truyện ngắn
" Chữ người tử tù"
I- Tác giả
Sơ lược tiểu sử
Nguyễn Tuân quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là Mọc), thôn Thượng Đình, nay
thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia
đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học
cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên
Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch" qua biên giới
không có giấy phép
[1]
. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ
năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một
thời, Một chuyến đi Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp gỡ,
tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham
gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông
Đà (1960), một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và
hương vị đất nước.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học
phong phú với những trang viết độc đáo và tài hoa. Năm 1996 ông được nhà nước
Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Vài nét tính cách
Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân
tộc. Ông yêu tha thiếttiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị
Điểm, Tú Xương, Tản Đà , những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân
dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam
Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước
hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là
"chủ nghĩa xê dịch" Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ
thuộc địa (hai lần bị tù).
Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông
còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh Ông
còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam Ông
thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả
năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của
mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ
hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh
cho quan niệm ấy
Sự nghiệp văn chương
Quá trình sáng tác và các đề tài chính của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu
tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng.
Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công
xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi,Vang bóng một thời, Thiếu quê
hương, Chiếc lư đồng mắt cua
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba
đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" này trong tâm trạng bất
mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại
có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất
nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến
đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá
khứ còn "vang bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong
tục đẹp, những thú tiêu daohưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện
thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua
cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử
tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này,
người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng
khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm
tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ
cuộc chiến đấu củadân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên
cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc
đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy
nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và
sản xuất.
[sửa] Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu
tóm trong một chữ "ngông"
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ
tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được
quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, Ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót
lại và ông gọi làVang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ
kính, vừa trẻ trung hiện đại
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những
tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh
tuyệt mĩ, của gió, bão, núi caorừng thiêng, thác ghềnh dữ dội
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều
phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong
cách tự do phóng túng và ý thứcsâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm
đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn
học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan
trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật,
nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng.
Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt
tiêu cực của xã hội.
Những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Tuân
Ngọn đèn dầu lạc (1939)
Vang bóng một thời (1940)
Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
Tàn đèn dầu lạc (1941)
Một chuyến đi (1941)
Tùy bút (1941)
Tóc chị Hoài (1943)
Tùy bút II (1943)
Nguyễn (1945)
Chùa Đàn (1946)
Đường vui (1949)
Tình chiến dịch (1950)
Thắng càn (1953)
Chú Giao làng Seo (1953)
Đi thăm Trung Hoa (1955)
Tùy bút kháng chiến (1955)
Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
Truyện một cái thuyền đất (1958)
Sông Đà (1960)
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
Ký (1976)
Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982)
Yêu ngôn (2000, sau khi mất)
Kết luận
Có người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn
chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là
nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất,
không phải là người theo chủ nghĩ hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên
lương"
[3]
trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền
phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa.
Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của
ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi;
nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề
II- Tác phẩm " Chữ người tử tù"
Đoạn văn tả cảnh HC cho chữ viên quản ngục là đoạn văn kết tinh tư tưởng,
chủ đề của tác phẩm, cũng là chỗ tập trung tinh hoa trong bút lực Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ được tác giả gọi là ''một cảnh tượng xưa nay chưa từng có''. Mà
đúng là chưa từng có thật. Bởi vì từ trước đến giờ, việc cho chữ, vốn là 1 hình thức
của nghệ thuật viết thư pháp tao nhả và có phần đài các thường chỉ diễn ra trong thư
phòng, thư sảnh, thế nhưng ở đây nó lại được diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu,
hôi hám ''tường gián''. Không chỉ thế, người cho chữ lại là 1 người tù cổ đeo gông,
chân vướng xiềng .Và với bút pháp tương phản bậc thầy NT đã làm bật lên sự đối lập
về nhiều mặt. Trong bối cảnh chật hẹp của nhà tù vẫn có bó đuốc cháy đỏ rực thể hiện
chí hướng cao cả của những con người, trong cái mùi hôi của không gian lại có mùi
thơm của mực, đặc biệt là sâu trong trái tim của con người tưởng như là độc ác, tàn
nhẫn đó lại là ''một tấm lòng trong thiên hạ''.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục.
Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một
bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản
ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”.
Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng, uy nghi. Viên quản ngục và thầy thư lại,
những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì bỗng trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm
trước người tử tù. Điều đó cho thấy rằng: trong nhà tù tăm tối không phải những gì
hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng,
cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ
sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, mà chỉ có
người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo nên cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính
của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp
của thiên lương và khí phách.
Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Chỉ sáng mai HC sẽ bị
tử hình, nhưng chắc chắn rằng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài
bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó. Và nhất là lời khuyên
của ông đối với viên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người
trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với
cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của
Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao
với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên
hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. ''Đó là âm thanh
trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ''. Cái tư thế
khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu
mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình
với con người đáng thương này.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà
“những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”.
Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái
đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần
bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng
Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí
“duy mĩ” của Nguyễn Tuân
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn
“Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo trong việc tạo dựng hình tượng nhân
vât chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góc cạnh,
sáng tạo và giàu tình cảm, cảm xúc dã mang người đọc đến với một không khí cổ kính
trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng- một khung cảnh cổ xưa.
*********************************************************************
***************
Phân tích tác phẩm " Chữ người tử tù"
GỢI Ý
Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa,
trang văn đích thực thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ
truyền, với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường
về tuỳ bút.
- Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí phách chọc
trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu
quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.
1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung
lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và
nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử
tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.
2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có
tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng
khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương
tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều
lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là
một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết
yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu
hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò
“dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe
tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài
cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn
Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run
run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng
người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm
rõ chủ đề.
3. Ngục quan
- Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính
cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại
còn có “biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai
viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.
- Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn
châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như
xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.
- Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao
ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn
Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người
chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên
quản ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế
nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y
cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại
lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt
đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết
quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở
thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn
Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết
đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu
chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục
quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri
ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.
- Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó
đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên
vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang
chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái,
nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi
tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương
soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.
- Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan
trả áo mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện
cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét
vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa
sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh
thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong
một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân
vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ
đề tác phẩm.
4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.
a - Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng
tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có
tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một con người không phải tầm
thường!
- Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ
trầm trồ: “Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ
rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…
- Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút
pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ
thuật kì diệu.
b - Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành
mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất
khuất. Một cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta
muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải
ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?
c - Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết
bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung
đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa
của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một
đạo lý cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính
mà ta ngưỡng mộ và kính phục.
d - Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn
đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể
trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà
khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân
hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ”
được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng.
Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực
thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào
hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ
vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai
kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ
viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên
thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi
chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái
đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được
thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời.
] Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến
phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa
nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn
liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa
khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử
dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một
không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch
sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.
Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “…
văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể
chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật…
hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh
cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái
tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt
(pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên
hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.
Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu
lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!