Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

“Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến và sự tồn tại của nó ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.28 KB, 23 trang )

lOMoARcPSD|15547689

Học viện Ngoại giao
---------***----------

TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác-Lênin
Đề tài:
“Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam
thời phong kiến và sự tồn tại của nó ở Việt Nam
hiện nay


lOMoARcPSD|15547689

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...........................................................................2
Chương I: Cơ sở lý luận của “Tam giáo đồng nguyên”................................2
1.1. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”....................................................2
1.2. Nguyên nhân, hoàn cảnh ra đời của “Tam giáo đồng nguyên” tại
Việt Nam.........................................................................................................2
Chương II: Tam giáo đồng nguyên trong xã hội phong kiến Việt Nam.......5
2.1. “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý - Trần..............................................5
2.2. “Tam giáo đồng nguyên” thời Lê - Nguyễn.........................................8
2.3. “Tam giáo đồng nguyên” cuối XIX - đầu XX....................................10
Chương III. “Tam giáo đồng nguyên” tại Việt Nam hiện nay....................14
3.1. Giá trị của các tôn giáo với xã hội Việt Nam.....................................14
3.2. Một số đánh giá về “Tam giáo đồng nguyên” tại Việt Nam hiện nay
.......................................................................................................................16


C. KẾT LUẬN....................................................................................................18

A. MỞ ĐẦU
1


lOMoARcPSD|15547689

Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hiện đại hóa hiện nay, hầu hết các quốc gia
trên thế giới, nhất là các quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời, đều theo đuổi
mơ hình “tới hiện đại từ truyền thống”, tức phát triển đất nước dựa trên những
đặc tính của bản sắc dân tộc. Có thể ví hiện đại như khối óc, cịn văn hóa truyền
thống tựa như trái tim và đôi chân của một quốc gia dân tộc trên con đường phát
triển của quốc gia dân tộc đó. Từ cách tiếp cận văn hóa - tơn giáo, chúng ta
khơng hồi nghi khi khẳng định văn hóa truyền thống Việt Nam về bản chất là
văn hố tơn giáo, dựa trên các nền tảng tinh thần của Khổng giáo, Phật giáo và
Đạo giáo, gọi là “Tam giáo đồng nguyên”.
Tôn giáo là hạt nhân của văn hóa, kiến tạo nên văn hố. Hiểu về tơn giáo
cũng là cách để ta tự trau dồi thêm những kiến thức về văn hóa của dân tộc mình.
Trong trường hợp của Việt Nam, “Tam giáo đồng nguyên” được duy trì từ xã hội
phong kiến cho đến ngày nay, tạo nên những rường cột quan trọng trong q
trình hình thành văn hóa dân tộc. Nghiên cứu về sự hình thành, dung hợp và phát
triển của “Tam giáo” không chỉ củng cố những hiểu biết về truyền thống văn hóa
của người Việt mà cịn nâng do tinh thần dân tộc, kiến tạo nên nội lực vững chắc
cho quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, tôn
giáo là sức mạnh. Với các quốc gia đa dân tộc, có nhiều tơn giáo sống đan xen
thì việc xác định rõ đặc điểm, tính chất của tơn giáo trong từng thời đại càng có ý
nghĩa quan trọng. Tìm hiểu, nghiên cứu về “Tam giáo đồng nguyên” sẽ giúp
chúng ta giải quyết được những vấn đề thực tiễn này.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, tồn cầu hóa là chìa khóa giúp

các tơn giáo có cơ hội, điều kiện khách quan để thâm nhập và lan tỏa ra khắp thế
giới. Từ đây bắt đầu xuất hiện sự đan xen, du nhập, tiếp biến văn hóa tơn giáo
giữa các quốc gia với nhau. Lúc này, ba rường cột tôn giáo - “Tam giáo đồng
ngun” sẽ là nhân tố góp phần giữ gìn bản sắc văn hố của Việt Nam trong q
trình giao lưu và hội nhập phát triển.

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2


lOMoARcPSD|15547689

Chương I: Cơ sở lý luận của “Tam giáo đồng nguyên”
1.1. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”
Cần nói trước rằng, “Tam giáo đồng nguyên” là một trong số những quan
điểm được đề xuất khi nghiên cứu về đặc trưng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay,
bên cạnh một số quan điểm cho rằng Việt Nam thuộc cộng đồng các quốc gia
Phật giáo (như Lào, Campuchia, Thái Lan…) hay chịu ảnh hưởng của Nho giáo
(như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…).
Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” được lý giải như sau: “tam giáo” hay
ba tôn giáo bao gồm Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo: “đồng nguyên” tức cả ba
tôn giáo đều có chung một gốc, đều là bản nguyên, là nền tảng tư tưởng của dân
tộc (“đồng”: cùng với nhau; “nguyên”: gốc). “Tam giáo đồng nguyên” nhấn
mạnh việc ba tôn giáo này hịa hợp, hỗ trợ lẫn nhau. Hình ảnh “Tam giáo tổ sư”
với với Thích Ca Mâu Ni (Phật giáo) ở giữa, Lão Tử (Đạo giáo) bên trái và
Khổng Tử (Nho giáo) bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt. GS. TS
Đỗ Quang Hưng nhận xét: “Có thể nói rằng, ở Việt , thách đố về bản sắc văn hóa
vẫn là cơ bản nhất, phổ biến nhất. Người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn giữ trong
tâm thức của mình về truyền thống “Tam giáo đồng nguyên” đạo nào cũng tốt” 1.
Đánh giá này một lần nữa khẳng định được vị trí của “Tam giáo đồng ngun”

trong lịng dân tộc. Đây được xem là các tơn giáo bản sắc của Việt Nam. Trong
đó, Phật giáo giữ vai trị là cơ sở, chất “dung mơi” để hịa trộn hai yếu tố cịn lại.
1.2. Ngun nhân, hồn cảnh ra đời của “Tam giáo đồng nguyên” tại Việt
Nam
1.2.1. Trên cơ sở những nét tương đồng trong đặc điểm về “địa - văn
hóa” của Việt Nam với Đơng Á nói chung và Trung Hoa nói riêng
Khơng thể phủ nhận được rằng, các nước thuộc khu vực Đông Á và Đông
Nam Á đều chịu ảnh hưởng từ hai nền văn minh lớn của thế giới là Trung Hoa và
Ấn Độ, đặc biệt là những ảnh hưởng của tôn giáo. “Là quốc gia đa tơn giáo, tín
1 Đỗ Quang Hưng, Đời sống tơn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, Sđd, tr.65

3


lOMoARcPSD|15547689

ngưỡng, Việt Nam dĩ nhiên cũng là một quốc gia đa văn hóa tơn giáo. Sự du
nhập của Phật giáo, Khổng giáo và Đạo giáo vào Việt Nam đã truyền đến quốc
gia này nhiều yếu tố của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ” (Nguyễn Quang
Hưng).”2 Điều này được lý giải bởi một số yếu tố ngoại cảnh như địa lý - Việt
Nam nằm trong khu vực châu Á, gần Ấn Độ và giáp với Trung Hoa; lịch sử 1000 năm Bắc thuộc của phong kiến Trung Hoa. Sự gặp gỡ và dung hợp của hai
nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa ở nước ta đã dần hình thành nên những căn
tính trong văn hóa của người Việt. Trên cơ sở này, ta nhận thấy được Việt Nam
có những đặc trưng của một nền văn hóa nơng nghiệp. Tóm lại, dân tộc ta đã
chắt lọc, kế thừa những tinh hoa của cả hai nền văn mình lớn của nhân loại, “Đại
Việt hóa” để chúng vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tồn tại bền bỉ với thời
gian.
Dựa trên nền tảng văn hóa bản địa Đơng Nam Á trong nông nghiệp, các
tôn giáo Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo khi đi vào nước ta đã được biến đổi để
trở nên phù hợp hơn với văn hóa nói chung và văn hóa tơn giáo nói riêng của

Việt Nam. Dù khác nhau về nội dung, hình thức, lý tưởng song mỗi tôn giáo đều
dần dần ăn sâu và cắm rễ vào mảnh đất Đại Việt. Cùng với văn hóa bản địa, các
tơn giáo này đã dần hịa nhập với truyền thống, hịa hợp và thống nhất lẫn nhau,
từ đó tạo nên “Tam giáo đồng nguyên” mà ta vẫn thường nhắc đến.
1.2.2. Trên cơ sở những nhu cầu về chính trị, tư tưởng, văn hoá của
nhân dân Việt Nam
TS. Vũ Thị Thanh Thảo nhận xét: “Sự dung hợp của Nho, Phật, Đạo có
tính chất sơ khai, cạnh tranh, kết hợp và đồng hành với nhau - một quy luật của
sự giao lưu và tiếp biến văn hoá, trên cơ sở truyền thống văn hố Việt Nam.” Ta
có thể lý giải nhận định này khi soi chiếu vào các yếu tố chính trị, tư tưởng và
văn hóa của nhân dân Đại Việt.
Đứng trước yêu cầu củng cố và xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập,
thống nhất và hùng mạnh về cả văn hóa, chính trị, kinh tế và qn sự để chống
lại vó ngựa của phong kiến phương Bắc, nhà nước ta tiến đến việc thống nhất tư
2 Nguyễn Quang Hưng, Tơn giáo và Văn hóa “Lý thuyết cơ bản và giải pháp định hướng khai thác các giá trị văn
hóa tơn giáo phục vụ phát triển xã hội Việt Nam hiện nay”, Nxb Tri thức, tr.362

4


lOMoARcPSD|15547689

tưởng để từ đó hình thành sự dung hợp, hịa hợp, thống nhất giữa yếu tố văn hóa
bản địa và yếu tố văn hóa du nhập từ bên ngồi. Cùng với các yếu tố văn hóa bản
địa, các đặc trưng trong chính trị - xã hội, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo lần
lượt trở thành những nhân tố tinh thần tiêu biểu có tác động đến đời sống xã hội,
chính trị xuyên suốt các triều đại phong kiến tại Việt Nam. Chính vì những u
cầu về chính trị của các triều đại phong kiến vậy mà hình thành nên quan niệm
“Tam giáo đồng ngun”.
Ví dụ: Các triều đình tổ chức những kỳ thi tam giáo để tìm ra những hiền

tài thông thạo cả ba giáo lý đứng ra giúp nước.
Hay: Thời Đinh, Lê, Lý Trần, nhiều nhà sư đồng thời cũng là đạo sĩ.
Nhiều nhà Nho ở Việt Nam cũng mang nặng triết lý đạo Phật như Nguyễn
Gia Thiều (1741-1798), Nguyễn Du (1765-1820), Hàn Mặc Tử (19121940)...
Người Việt ta nhận ra rằng, ba tơn giáo này mới trơng thì khác nhau song
nhiều khi thì chỉ là những cách trình bày, diễn đạt khác nhau nhằm đến cùng mục
tiêu cuối cùng. Do đó, “Tam giáo", đúng như với định nghĩa xuất phát từ một
gốc, không mâu thuẫn đối chọi nhau mà ngược lại, còn bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Điều này thể hiện rõ ở vị trí của tơn giáo trong lối sống của người Việt:
Nho giáo tập trung xây dựng, quản lí xã hội sao cho quy củ; Đạo giáo chăm sóc
thể xác con người sao cho mạnh khỏe, khơng bệnh tật; Phật giáo rèn luyện tâm
tính con người sau cho thoát khỏi những khổ đau. Bởi vậy mà người dân cầu đến
“Tam giáo", áp dụng chúng trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời.
Ví dụ: Khi trai trẻ thì ra sức học Nho để cứu nước, khi khổ ải thì cầu khấn
Phật trời phù hộ, khi gặp bệnh tật ốm đau thì mời đạo sĩ trừ tà.
Hay: Để tiếp nhận kiến thức Phật giáo từ Trung Hoa, các nhà sư buộc phải
học chữ Hán, do đó cũng dần dần mà tinh thông Nho học.
Những biểu hiện này một lần nữa khẳng định rõ nét và sâu sắc hơn những ảnh
hưởng của “Tam giáo đồng nguyên" lên đời sống tinh thần của người Việt.

5


lOMoARcPSD|15547689

Chương II: Tam giáo đồng nguyên trong xã hội phong kiến Việt Nam
2.1. “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý - Trần
2.1.1 Biểu hiện của việc dung nạp tam giáo thời Lý - Trần
2.1.1.1 Phật giáo
Phật giáo đặc biệt phát triển dưới thời Lý - Trần. Trong hoàn cảnh đất

nước non trẻ bị đe dọa bởi vó ngựa các thế lực phong kiến phương Bắc, Phật
giáo được xem là chìa khóa trong việc cai trị và xây dựng kỉ cương chính trị của
đất nước. Đương thời tầng lớp phong kiến cầm quyền phần đa xuất thân từ chỉ
huy quân sự ít học nên các nhà sư vừa giỏi Phật và biết Nho trở thành những
hiền tài cần thiết cho triều đại. Có thể kể đến một số nhà sư như Pháp Thuận,
thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Nguyễn Minh Không. Mặt khác, Đại Việt lúc này
đang cần một điểm tựa về ý thức và Phật giáo được xem là phù hợp hơn cả. Điều
này được lý giải như sau: trong khi Phật giáo hướng tới việc độc lập dân tộc của
Đại Việt cả về chính trị - xã hội và văn hóa với những bản sắc riêng, tránh bị lệ
thuộc vào phong kiến phương Bắc thì tầng lớp Nho sĩ lại đang quay trở lại với
quỹ đạo của văn hóa Trung Hoa Khổng giáo. “Các nho sĩ được tuyển chọn vào
phụng sự quốc gia thường có khuynh hướng Bắc hóa, muốn thay đổi pháp độ
cho giống Trung Quốc.”3
Vậy tại sao Phật giáo lại được triều đình thời Lý - Trần trọng dụng và có
nhiều nhà sư tham gia vào cơng việc triều chính như vậy? Có bốn ngun nhân
chính như sau:
Một là, các nhà sư là những người có học thức cao, có ý thức về quốc gia,
sống gần gũi với nhân dân quần chúng, hiểu được những khổ đau của họ
Hai là, các nhà sư khơng có ý định tranh giành quyền bính
Ba là, khác với các nhà nho, các nhà sư khơng câu nệ vào thuyết trung
qn, có thể phục vụ bất cứ vị vua nào
Bốn là, các vua đều tôn trọng sự tham vấn của nhà sư.
Dưới thời nhà Lý, Phật giáo đã đóng góp nhiều thành tựu cho phong hóa
và văn hóa Việt Nam. Các thiền sư chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc
3 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Sđd, tr.484

6


lOMoARcPSD|15547689


Việt Nam độc lập với Trung Hoa, các vua có học thức cao hơn và từ bi, độ lượng
với dân hơn. Chúng ta cũng chứng kiến vai trò to lớn của Phật giáo trong một số
lĩnh vực như kiến trúc, mĩ thuật. Dưới thời Lê Thánh Tông, Phật đản trở thành
một quốc lễ lớn. Về thời Trần, đỉnh cao của Phật giáo thời kỳ này là việc thành
lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đạt tới đỉnh cao ở thời kỳ thiền sư Pháp Loa
(1284-1330)4. Số tăng sĩ thời điểm này đạt khoảng 30.000 người. Nhiều chùa
chiền trong cả nước đã được dân chúng tập trung xây dựng.
2.1.1.2 Nho giáo
Thời Lý - Trần, Nho giáo trở thành công cụ thiết yếu cho q trình xây
dựng thiết chế theo mơ hình Đông Á Trung Hoa của nhà nước quân chủ tập
quyền. Biểu hiện đậm nét của Nho giáo ở thời kỳ này là chế độ khoa cử. Điều
này lý giải vì sao dù Phật giáo đặc biệt chiếm ưu thế song các vua vẫn cần đến sự
bổ trợ của Nho giáo. Vua Trần Thái Tông lưu tâm rằng: “Bậc đại thánh và đại sư
đời trước khơng khác gì nhau. Như thế đủ biết đạo giáo của Đức Phật phải nhờ
đến tiên thánh mà truyền lại cho đời…”
Dưới thời Lý, Nho giáo chỉ giữ một vị trí khiêm tốn. Văn Miếu được xây
dựng năm 1070, là nơi dạy học cho con các vua quan trong triều đình. Năm
1075, nhà Lý tổ chức khoa thi Thái học sinh đầu tiên và đến 1076 thì mở trường
Quốc Tử Giám. So với thời Lý thì đến thời Trần, Nho giáo và Nho học phần nào
khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học được mở, tầng lớp nho sĩ ngày một phát
triển với nhiều gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Trạng Hiền, Mạc Đĩnh
Chi… hay Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật.
2.1.1.3 Đạo giáo
Nguyễn Duy Hinh nhận định: “Đạo giáo trở thành một tôn giáo trong tam
giáo thời Lý Trần. Nhưng đến thời Lê Nguyễn thì Đạo giáo khơng cịn là một tơn
giáo nữa mà bị nát vụn ra thành Đạo giáo dân gian.”5 Dưới thời Lý, các đạo sĩ
giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh ở triều đình, bằng việc làm các lễ
tống trừ ma quỷ vào các dịp lễ hay làm phép cầu đạo. Một số những Đạo sĩ nổi
tiếng thời Lý có thể kể đến là Thơng Huyền đạo nhân, Giác Hải thiền sư…

4 Người kế nghiệp Phật hồng Trần Nhân Tơng ở n Tử
5 Nguyễn Duy Hinh, “Những biểu hiện của Đạo giáo ở Việt Nam hiện nay”. Trong: Nguyễn Duy Hinh, Một số
bài viết về tôn giáo học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr.961-970

7


lOMoARcPSD|15547689

Sau khi nhà Trần lên ngôi, Trần Thủ Độ đã cho các đạo sĩ phong thuật đi
yểm khắp sông núi cả nước, dùng phép thuật để trấn yểm, trừ tà. Điều này chứng
tỏ rằng Đạo giáo đã có chỗ đứng khá vững chãi trong xã hội đương thời.
2.1.2. Mối quan hệ tam giáo đồng nguyên thời Lý Trần
Nhìn chung, Phật giáo giữ được vai trị then chốt trong văn hóa, chính trị
và xã hội xuyên suốt các triều đại thời Lý - Trần. Song càng về cuối triều Trần,
Phật giáo càng suy giảm và khơng cịn đảm đương được vai trò quốc giáo. Điều
này được Nguyễn Lang6 lý giải như sau:
Thứ nhất, đó là nguyên nhân nội tại của Phật giáo thời Trần. Số lượng tăng
sĩ quá đông thời kỳ này đã khiến các nhà sư, các chùa chiền không cịn kiểm sốt
được chất lượng tu thiền, học đạo hay gây dựng các thế hệ học trị kế nghiệp.
Điển hình là thiền phái Trúc Lâm kể từ sau Huyền Quang (1254-1334) 7cũng bắt
đầu đi xuống. Việc tu hành của các tăng ni thời kỳ này bị sao nhãng vì một bộ
phận không nhỏ các nhà tu hành trở nên bị tha hóa, khơng cịn như trước.
Thứ hai, thời cuối Trần đã có xuất hiện một số xung đột, tranh chấp giữa
Nho giáo và Phật giáo. Hai khuynh hướng chính trị này tranh giành nhau ác liệt.
Trong khi Phật giáo chủ trương dung hợp với các yếu tố văn hóa khác, thì Khổng
giáo, nhất là Tống Nho, lại chủ trương độc tơn. Mặt khác, ảnh hưởng của Nho
thần trong triều đình từ khi Hồ Quý Ly - một người không sùng Phật giáo lên
ngôi lại càng lớn. Trong bối cảnh khu vực đương thời, nhà Tống và nhà Minh
ngày càng phát triển Khổng giáo và điều này tác động không nhỏ tới các nước

xung quanh, trong đó có Việt Nam.8
Điều này dẫn đến việc đến đầu thế kỷ XV, Nho giáo thay thế Phật giáo
đóng vai trị chủ đạo, cịn Phật giáo và Đạo giáo vẫn tiếp tục phát triển dù đã lùi
ra khỏi vũ đài chính trị và phát triển trong lòng nhân dân.
Trường hợp của Phật giáo vào cuối thời Trần cho thấy bài học quý giá
rằng: “Một giáo hội dựa quá nhiều trên thế lực triều đình để phát triển mà khơng
6 Bút danh của nhà sư Thích Nhất Hạnh
7 Nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thời Trần
8 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Sđd, tr.484

8


lOMoARcPSD|15547689

biết quay về tìm thế đứng trong dân gian, thì một khi sự ủng hộ của triều đình
khơng cịn, giáo hội ấy hẳn nhiên sẽ thiếu lưng tựa và hiện tượng suy đồi là
chuyện hiển nhiên phải tới.”9
2.2. “Tam giáo đồng nguyên” thời Lê - Nguyễn
2.2.1 Biểu hiện của việc dung nạp tam giáo thời Lê - Nguyễn
2.2.1.1. Phật giáo
Thời Lê, với việc Nho giáo lên ngơi, triều đình chủ trương kỳ thị Phật giáo
tới mức trạng nguyên Lương Thế Vinh vì sùng Phật mà khơng được ghi trong
Văn miếu. Có thể nói, triều Hậu Lê được xem như là triều đại mà Phật giáo suy
đồi nhất kể từ khi Đại Việt giành lại độc lập từ tay phong kiến phương Bắc đến
thế kỷ 15 - 16.
Giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, Phật giáo có nhiều chuyển đổi sâu
sắc. Khi vai trị của Nho giáo khơng cịn mạnh như thời Lê Trung Hưng thì đây
lại là cơ hội để chấn hưng, phục hồi Phật giáo. Giai đoạn này nhiều chìa chiền
được xây mới như chùa Thiên Mụ (Huế), Hương Tích (Hà Tây)... Cả Đàng

Trong và Đàng Ngồi đều có các thiền sư đóng vai trị quan trọng trong việc
chấn hưng Phật giáo, có thể kể đến như thiền sư Chân Nguyên (Đàng Ngoài) và
thiền sư Liễu Quán (Đàng Trong). Giai đoạn này, Đại Việt cũng bắt đầu có sự du
nhập của một số môn phái Phật giáo mới như Tào Động do thiền sư Thủy
Nguyệt (1636-1704) sau ba năm đi du học ở Trung Hoa mang về.
Tóm lại, dưới thời Lê - Nguyễn, Phật giáo đã khơng cịn đóng vai trị chủ
đạo trên vũ đài chính trị mà rút lui về sinh hoạt, tu tập ở các thiền môn và ảnh
hưởng chủ yếu trong đời sống dân gian.
2.2.1.2. Nho giáo
Dưới thời Hậu Lê, nền văn hóa dân tộc của Đại Việt bị thống chiếm với
văn hóa giáo điều và từ chương của Tống Nho. Nho học chiếm vai trò chủ đạo
trong tình hình kinh tế, chính trị và xã hội trong suốt giai đoạn này.
Dưới thời nhà Nguyễn, Nho giáo trở thành cơng cụ đắc lực cho các triều
đình trong việc trị nước, thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Nhà Nguyễn đề cao tư
9 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Sđd, tr.353

9


lOMoARcPSD|15547689

tưởng Nho giáo với mục đích khẳng định vị thế và quyền lực của vương triều
cũng như các tầng lớp vua quan, quý tộc. Trong bối cảnh đó, nhà Nguyễn ra sức
cho chấn hưng Nho giáo trong cả nước. Các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu
Trị và Tự Đức, Nho giáo đều giữ vai trị độc tơn trong xã hội. Biểu hiện nổi bật
nhất của Nho giáo trong giai đoạn này là việc nâng cao giáo dục, trọng người
hiền tài. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia.” (Thân Nhân Trung10). Đồng thời,
triều đình cũng duy trì và phát triển hoạt động của hai cơ quan giáo dục chính là
Quốc Tử Giám và Quốc Sử Quán và thống nhất chế độ thi cử.
2.2.1.3. Đạo giáo

Khác với thời Lý - Trần, Đạo giáo được xem như một tôn giáo độc lập
trong hệ thống tam giáo, dưới thời Lê - Nguyễn, Đạo giáo khơng cịn là một tơn
giáo nữa mà bị nát vụn ra thành Đạo giáo dân gian.
Dưới thời Hậu Lê, Đạo giáo khơng có nhiều biến chuyển rõ nét. Chỉ tới
thời Nguyễn, khi triều đình cho điều chỉnh các điều kiện tu hành, nhiều giá trị
triết lý, lý tưởng của Đạo giáo mới lại có cơ hội để tiếp cận nhận thức của các
tầng lớp trong xã hội. Nhiều nơi trên cả nước xuất hiện hàng loạt đền miếu và
đạo quán, được triều đình chu cấp kinh phí để tiến hành xây dựng hoặc trùng tu.
Một số cơng trình đạo qn tiêu biểu trong giai đoạn này là: Đền Bạch Hổ
(Quảng Ngãi)11, Đền Thượng (Ninh Bình)12, Miếu Hỏa Thần (Hà Nội)13...
2.2.2. Mối quan hệ “Tam giáo đồng nguyên” thời Lê - Nguyễn
Chuyển biến đậm nét nhất của “tam giáo đồng nguyên" trong giai đoạn
này là Nho giáo trở thành hạt nhân chi phối trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội,
giáo dục và chính trị. Phật giáo, Đạo giáo chuyển xuống vị trí thứ yếu trong tam
giáo.
Dưới thời Nguyễn, các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, ở
một mức độ nhất định, đều để tâm tới việc phát triển Phật giáo.
Ví dụ: Gia Long cho tu bổ chùa Thiên Mụ
10 Một danh sĩ Việt Nam, đứng địa vị Phó đơ Ngun súy Tao đàn Nhị thập bát Tú của Lê Thánh Tông
11 Thờ thần là con Cọp trắng
12 Thờ Đinh Tiên Hoàng
13 Thờ thần Lửa

10


lOMoARcPSD|15547689

Hay: Minh Mạng sắc dựng lại chùa Thánh Duyên vốn do chúa Nguyễn
Phúc Chu lập và bị phá hủy trong cuộc chiến Tây Sơn.

Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, phong trào Cần Vương tuy do
các sĩ phu (Nho sĩ) phát động nhưng cũng có khơng ít tăng ni, Phật tử tham gia.
Hai nhà yêu nước là Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu cũng kêu gọi Phật tử
tham gia các phong trào yêu nước. Hai ông vốn là những nhà Nho, nhưng thức
thời đều thể hiện sự vị nể đối với Phật giáo. Phan Chu Trinh đặc biệt ủng hộ các
phong trào trấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ.
2.3. “Tam giáo đồng nguyên” cuối XIX - đầu XX
2.3.1. Biểu hiện của việc dung nạp “Tam giáo đồng nguyên” cuối XIX đầu XX
2.3.1.1. Phật giáo
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam cuối XIX - đầu XX xảy ra nhiều biến
động lớn, nhất là sự khủng hoảng và suy vong của triều Nguyễn, sự xâm lăng
của thực dân Pháp, biến nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến, Phật
giáo bắt đầu suy yếu. Xuất hiện thực trạng các tăng ni, Phật tử rơi vào con đường
cờ bạc, rượu chè, mê thanh sắc. Số đơng tăng già thì chỉ nghĩ đến danh vọng,
chức tước, trụ trì, sắc tứ… Các nhà sư khơng cịn được trọng vọng như trước mà
chỉ làm tay sai cho các bậc quan quyền, vua chúa.
Trước tình hình đó, nhiều tăng sĩ trong nước đã khởi xướng lên phong trào
trào chấn hưng Phật giáo nhằm cải biến, củng cố vị trí của Phật giáo cũng như
góp sức vào phong trào yêu nước của dân tộc. “Phật pháp suy đồi, Tăng đồ thất
học và khơng đồn kết. Cho nên, muốn chấn hưng Phật giáo phải thực hành 3
việc: chỉnh đốn Tăng già; kiến lập Phật học đường và diễn dịch, xuất bản kinh
sách Việt ngữ” (Hòa thượng Khánh Hòa14).
Thực chất, từ những năm đầu thế kỉ XX, không chỉ Việt Nam mà các quốc
gia khác trên thế giới cũng xuất hiện các cuộc chấn hưng Phật giáo. Khởi đầu là
phong trào chấn hưng Phật học ở Ấn Độ do cư sĩ David Hewavitarane khởi
14 Phó Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1973)
11


lOMoARcPSD|15547689


xướng. Ở Trung Hoa, cư sĩ Dương Nhân Sơn, Âu Dương Tiệm, Mai Quang Hy,
Thích Nhân Sơn phát động trấn hưng Phật giáo để phục vụ công tác nghiên cứu
Phật học. Tương tự, ở Nhật Bản, Miến Điện, Sri Lanca cũng có những cuộc chấn
hưng Phật giáo với mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, phong trào chấn hưng Phật
giáo đã cho thấy khơng ít nỗ lực. Nhiều cao tăng trong nước đã tích cực kêu gọi
việc nghiên cứu, lý giải kinh điển và giáo lý Phật giáo, cũng như tìm cách để
phát triển, giáo dục có quy mơ nhằm đào tạo Tăng tài phụng sự cho Giáo hội và
đất nước. Nghiên cứu Phật học được thúc đẩy rõ rệt. Hội Nam Kỳ nghiên cứu
Phật học thành lập năm 1931. Ở Bắc Kỳ, Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập năm
1934. Nhiều tạp chí về Phật học được phát hành trong cả nước như Từ Bi âm
(1932), Viên âm (1933(, Tiến Hóa (1938), Đuốc Tuệ (1935)...
Tóm lại, cơng cuộc chấn hưng Phật giáo đầu thế kỉ XX có thể coi là một
dấu ấn đậm nét trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
2.3.1.2. Nho giáo
Bước qua thời kỳ đỉnh cao, Nho giáo những năm cuối XIX - đầu XX hoàn
toàn sụp đổ. Pháp xâm chiếm nước ta, nhà nước phong kiến khơng cịn quyền uy
đã khiến cho vị trí của Nho giáo trong xã hội ngày càng bị thu hẹp lại. Lý giải
điều này, GS. Nguyễn Khắc Thuần nhận định: “Chúng ta biết rằng, nhà nước
phong kiến là đỉnh cao tôn thờ của nhà Nho. Người ta đi học Nho là để ra phò
vua giúp nước. Và người ta lấy việc trung quân làm lý tưởng. Vậy mà bấy giờ,
vua không cịn xứng đáng đại diện cho quốc gia, triều đình cũng khơng cịn xứng
đáng đại diện cho quốc gia. Cho nên lý tưởng của nhà Nho theo đó mà sụp đổ.
Đây là nguyên nhân chính trị. Nhưng nguyên nhân chính trị đó có ảnh hưởng
mạnh mẽ đối với sự sụp đổ của Nho giáo.”
Về giáo dục, Pháp xâm lược nước ta mang theo một hơi thở mới, truyền
bá một nền giáo dục mới, là cái nơi sinh ra nhiều trí thức Tây học đương thời.
Nho giáo lúc này khơng cịn sức nặng trên bàn cân so sánh với giáo dục phương
Tây, thể hiện nhiều khía cạnh cực đoạn. Sự chấm dứt của nền giáo dục Nho học
đánh dấu ở khoa thi hương cuối cùng của nền thi cử Nho giáo Việt Nam vào năm

1918 và khoa thi hội vào năm 1919 là khoa thi hội cuối cùng. Đây được xem như

12


lOMoARcPSD|15547689

là sự sụp đổ có tính quy luật, khi Nho giáo khơng cịn đáp ứng đủ những u cầu
về mặt học thuật, nhận thức đối với quần chúng nhân dân.
Tuy vậy, đương thời vẫn có những cuộc chấn hưng Nho giáo nhằm “cứu"
nền Nho học đang trên bờ vực tồn vong. Các nhà nghiên cứu như Phan Bội Châu
và Trần Trọng Kim chủ trương làm cho Nho giáo thích ứng với những điều kiện
lịch sử mới. Không phê phán Tây học nhưng cả Phan Bội Châu và Trần Trọng
Kim đều cho rằng người Việt Nam phải đứng trên đôi chân của văn hóa Nho
giáo truyền thống trên con đường tự lập tự cường dân tộc. Học tập khoa học và
công nghệ phương Tây, nhưng vẫn dựa trên tinh thần văn hóa truyền thống
Khổng giáo để tự cường dân tộc. Quan điểm của hai nhà nghiên cứu Nho học
này thể hiện khá rõ xu hướng hiện đại hóa tư tưởng của Nho giáo.
2.3.1.3. Đạo giáo
Đạo giáo thời kỳ này khơng cịn tồn tại như một khách thể độc lập mà tồn
tại trong các tôn giáo bản địa. Một số tôn giáo có chứa các yếu tố, triết lý Đạo
giáo có thể kể đến như Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Bưu Sơn Kỳ Hương.
Ví dụ: trong giáo lý của Bưu Sơn Kỳ Hương có đề cập đến tư tưởng vơ vi
của Đạo giáo.
2.3.2. Mối quan hệ “Tam giáo đồng nguyên” cuối XIX - đầu XX
Tam giáo đồng nguyên cuối XIX - đầu XX đã phản ánh được nhiều biến
chuyển to lớn của văn hóa xã hội Việt Nam. Q trình dung hợp, tiếp thu và kế
thừa các tam giáo ở Việt Nam đã ảnh hưởng nhiều đến các tiền đề tư tưởng khác
của các tôn giáo bản địa.
Một là giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương. Giáo lý này cho thấy sự tiếp biến, kết

hợp các tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo với các tín ngưỡng dân gian.
Chính các lý thuyết nhà Phật, các tư tưởng vô vi của Đạo giáo và các rường cột
quan trọng trong quan hệ Nho gia đã khiến thuyết Bửu Sơn Kỳ Hương trở nên
vừa giản đơn, vừa chan hòa với tư tưởng, triết lý sống của quân chúng nhân dân.
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo đã kế thừa những triết lý
của Bửu Sơn Kỳ Hương để làm cơ sở lý luận cho tư tưởng giáo lý của mình.

13


lOMoARcPSD|15547689

Hai là đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài thâu hóa Đạo Phật chủ yếu ở giác độ từ
bi. Về Nho giáo, Cao Đài sử dụng giáo lý “Tam cang, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ
đức, Trung dung.” Về Đạo giáo, Đạo Cao Đài tiếp thu dưới góc độ thần bí. Cao
Đài đã kết hợp hình thức địng bóng cầu cơ của Đạo giáo với Thông linh học
phương Tây, trở thành phong trào cầu cơ, chấp bút, gọi tắt là “Cơ bút". Đây cũng
là phương tiện khai sinh ra Đạo Cao Đài.
Ba là tư tưởng Phật giáo Hòa Hảo. Tư tưởng này vừa hòa hợp Phật giáo,
Nho giáo, Đạo giáo lại với nhau, vừa hịa hợp chính “tam giáo" với bản sắc dân
tộc Việt. Tuy nhiên, đúng với tên gọi của nó, Phật giáo giữ vai trò chủ đạo trong
tư tưởng này, Nho giáo và Đạo giáo chỉ thể hiện trong luân thường đạo lý (Nho)
và phong thái an nhiên tự tại (Đạo).

Chương III. “Tam giáo đồng nguyên” tại Việt Nam hiện nay
3.1. Giá trị của các tôn giáo với xã hội Việt Nam
3.1.1. Phật giáo

14



lOMoARcPSD|15547689

Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện tại thực hiện ba vai trị, nhiệm vụ
chính.
Một là định hướng tư tưởng cho con người. Xu hướng hiện đại hóa, tồn
cầu hóa đã khiến cho một số văn hóa ngoại lai, bao gồm cả các trào lưu tâm linh,
tín ngưỡng khơng lành mạnh đã du nhập vào nước ta. Chính những văn hóa
ngoại lai hợm hĩnh này đã lơi kéo và định hướng sai lệch cho một bộ phận không
nhỏ các cá nhân mà phần đa là người trẻ có lối sống và tư tưởng lệch lạc, thiếu
trọng tình cảm, sống cực đoan vị kỉ. Trong bối cảnh như vậy, Phật giáo đã từng
bước trở thành vai trị quan trọng có ảnh hưởng đến định hướng tư tưởng của xã
hội. Điển hình là việc người Việt, các tín đồ Phật tử đến chùa học tập và tiếp thu
các giáo lý đạo Phật. Theo thời gian, họ giác ngộ được rằng: bản chất tốt đẹp của
Phật học có thể giúp con người thoát khỏi những tham - sân - si của cuộc sống,
hướng họ đến một cuộc sống tốt đẹp, an lạc và thanh thản hơn.
Hai là gìn giữ và phát triển đời sống tín ngưỡng dân tộc. Là trụ cột chính
của “tam giáo đồng nguyên", ta không thể phủ nhận được những ảnh hưởng to
lớn của Phật giáo đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc. Hiện nay, việc
thực hành tín ngưỡng dân gian dựa trên những nền tảng tư tưởng, văn hóa của
Phật giáo đã và đang có những đóng góp tích cực cho đời sống tín ngưỡng của
nhân dân. Điển hình là việc hiện nay, ngồi đi lễ Phật, cúng đường Tam bảo thì
nhiều Phật tử cịn thực hành các nghi thức Phật giáo tại gia. Hay các nghi thức
truyền thống trong các gia đình, dịng tộc như tang ma, cưới hỏi, cúng đất, giải
hạn… đều phải cậy đến sự dẫn dắt của các chư Tăng. Các hoạt động khác như
cúng đường Tam bảo hay phóng sinh đều là những biểu hiện tích cực của Phật
giáo khi tác động đến đời sống tín ngưỡng của người dân Việt Nam.
Ba là bổ trợ cho các triết lý đạo đức truyền thống của dân tộc. Có thể thấy
tư tưởng đạo đức của Phật giáo có nhiều nét tương đồng với tư tưởng đạo đức
của người Việt. Theo dòng chảy của lịch sử, nhiều giá trị của Phật giáo đã hòa

vào lòng dân tộc, kết tinh lại ở những giá trị đạo đức cao cả như: tinh thần yêu
nước, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết… Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa triết lý đạo phật và tư tưởng truyền thống, rằng:

15


lOMoARcPSD|15547689

luôn nhân hậu, khoan dung và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có tội nhưng biết
quay đầu hối cải, sửa chữa sai lầm.
3.1.2. Nho giáo
Tinh thần của Nho giáo trong quản lý xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc,
hình, chính” một cách nhuần nhuyễn và hợp lý. Đến thời điểm hiện tại, nhiều
phần của giáo lý này vẫn được nước ta áp dụng và đổi mới theo hướng hiện đại,
tiên tiến hơn. Nhờ có “lễ" mà người Việt Nam biết tuân theo những phong tục lễ
nghi truyền thống nhằm gìn giữ nếp sống truyền thống của dân tộc.
Ví dụ: “Ăn trơng nồi, ngồi trơng hướng"
Hay: “Kính trên nhường dưới"
Chính từ những chừng mực, điều độ này mà trật tự, luân lí xã hội được
thiết lập.
Lễ nhạc kết hợp đồng điệu với nhau cũng là một đặc tính khác trong Nho
học. Tư tưởng dùng nhạc để dạy người của Khổng tử cho đến ngày nay vẫn
mang tính thời đại và có giá trị thực tiễn cao. Điển hình là các nhạc phẩm của
các nhạc sĩ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã có sức
mạnh cổ vũ, động viên tinh thần của thanh niên, sẵn sàng “quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh” cũng như củng cố được khối đại đoàn kết dân tộc.
3.1.3. Đạo giáo
Như đã nói ở trên, từ sau thời Lý - Trần, Đạo giáo đã khơng cịn tồn tại ở
nước ta với tư cách là một tơn giáo mà hịa vào các tôn giáo bản địa khác. Do

vậy mà những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt
Nam vẫn chưa dừng lại. Những biểu hiện của tư tưởng Đạo giáo như thuật phong
thủy, phương pháp dưỡng sinh, võ thuật, các hình thức cúng bái, trừ tà vẫn phổ
biến trên khắp cả nước. Thủ đơ Hà Nội ngày nay vẫn cịn một số đạo qn, là di
tích cịn sót lại của Đạo giáo, gọi chung là Thăng Long tứ quán. Thăng Long tứ
quán bao gồm Trấn Vũ Quán15, Huyền Thiên quán16, Đồng Thiên quán17 và Đế
thích quán18.
15 Nay gọi là Đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh
16 Nay gọi là Chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai
17 Nay gọi là Chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành
18 Nay gọi là Chùa Vua ở phố Thịnh Yên

16


lOMoARcPSD|15547689

Khơng thể phủ nhận rằng Đạo giáo có ảnh hưởng rất đậm nét đối với đời
sống tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên những tín ngưỡng ấy khơng sao chép
ngun bản mà là sự sáng tạo không ngừng nghỉ qua thời gian, theo suốt chiều
dài lịch sử của người Việt. Điều này cũng lý giải vì sao tín ngưỡng thờ thánh ở
nước ta không thể được xem là Đạo giáo.
3.2. Một số đánh giá về “Tam giáo đồng nguyên” tại Việt Nam hiện nay
“Tam giáo đồng nguyên" ở thời điểm hiện tại vẫn là một trong những giá
trị mang tính nền tảng của văn hóa Việt Nam, đặc biệt trong mối quan hệ văn hóa
- tơn giáo. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận lại một số vấn đề mà “Tam giáo" còn
chưa giải quyết được khi áp dụng những tư tưởng, giáo lý, học thuyết của nó vào
trong cuộc sống hiện đại. Nhiều tư tưởng, giáo lý từng đóng vai trò then chốt,
chủ đạo của một thời, nay đã rơi vào dĩ vãng vì khơng cịn phù hợp với xã hội
hiện đại, cấp tiến. Dưới đây là một số quan điểm của cá nhân tơi, sau q trình

tìm hiểu và tham khảo, đã rút ra được về vấn đề “Tam giáo đồng ngun" cũng
như vị trí của các tơn giáo ở Việt Nam hiện tại.
Trước hết, phải nói đến một số yếu tố ngoại cảnh có tác động đến sự suy
yếu của “tam giáo" tại nước ta. Sự du nhập của các trào lưu tư tưởng và tôn giáo
ngoại lai đã ít nhiều làm biến đổi văn hóa của dân tộc. Thêm vào đó, đời sống
tơn giáo trên thế giới cũng đang khủng hoảng khi sự suy yếu của Khổng giáo,
Phật giáo và các tơn giáo tín ngưỡng bản địa khơng cịn đóng vai trị căn tính của
văn hóa dân tộc. Đây có thể coi là mức “báo động đỏ" đối với bất cứ dân tộc nào
trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
Rõ ràng, các tơn giáo truyền thống vẫn đang ảnh hưởng lên nếp sống của
người dân Việt Nam hằng ngày, dù có nhiều giá trị sống của người Việt khơng đã
được thay đổi so với trước.
Ví dụ: Gia đình hiện đại có nhiều nét khác biệt so với gia đình truyền
thống. Thời nay, nhu cầu của mỗi cá nhân ngày cành trở nên phong phú, khó có
thể tồn tại mơ hình ba bốn thế hệ sống chung dưới một mái nhà. Nhưng gia đình
sẽ rơi vào khủng hoảng nếu cha không ra cha, con không ra con, nói cách khác là

17


lOMoARcPSD|15547689

“nhà dột từ nóc.” Đây là minh chứng cho thấy các giá trị Nho giáo vẫn có giá trị
căn cốt trong gia đình và xã hội Việt Nam hiện đại.
Điều này dẫn đến yêu cầu kết nối giữa truyền thống Á đông và cái hiện đại
của các giá trị phương Tây, song đáng tiếc thay, giới nghiên cứu tôn giáo ở nước
ta hiện nay vẫn chưa chú ý tới điều này một cách thỏa đáng. Chúng ta cần một sự
đánh giá khách quan về vai trò của Khổng giáo, Phật giáo và các tơn giáo, tín
ngưỡng bản địa trong xã hội hiện đại. Mọi sự đề cao hay coi nhẹ quá mức yếu tố
này hay yếu tố kia đều sẽ gây nguy hiểm đến các giá trị đạo đức, tư tưởng nền

tảng của xã hội. Đó mới tạo động lực cho sự phát triển xã hội ở Việt Nam hiện
nay.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng một số những quan điểm lỗi thời của
các tôn giáo truyền thống ngày nay đã khơng cịn phù hợp, khơng cịn đáp ứng
được những tính chất hiện đại, đổi mới trong xã hội. Ta không thể bê nguyên các
quan điểm của Khổng giáo từ cách đây cả ngàn năm vào áp dụng cho xã hội hiện
đại. Xã hội Việt Nam hiện nay vẫn đang trên đà hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa, cũng khơng cịn chỗ cho những quan niệm bất bình đẳng, trọng
nam khinh nữ như tam tịng. Và kể cả một số những giá trị căn cốt của Khổng
giáo như trung, hiếu, rồi các khái niệm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và nhiều giá trị của
Khổng giáo thời nay cũng cần phải có một sự diễn giải khác để thích nghi với
hiện đại.
Rõ ràng, cả hai thái cực, bê nguyên hay phủ nhận sạch trơn các giá trị của
những tôn giáo này đều là không hợp lý. Bản thân các tơn giáo, tín ngưỡng bản
địa ngay trong lịch sử đã chứa đựng khơng ít các quan niệm mê tín, dị đoan và
cần phải loại bỏ xã hội hiện đại nếu chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn
hóa dân tộc đích thực, văn minh.

C. KẾT LUẬN

18


lOMoARcPSD|15547689

Có thể ví văn hóa Việt Nam như một cái cây mà bộ rễ chính là Khổng giáo, Phật
giáo và Đạo giáo, cũng như các tơn giáo tín ngưỡng bản địa khác. Bộ rễ đó ni
sống văn hóa Việt Nam cả ngàn năm qua, từ phong kiến cho đến hiện đại. Giờ
đây, thành phần của văn hóa Việt Nam khơng cịn đóng khung trong những tín
ngưỡng bản địa và ba tơn giáo chính là Khổng giáo, Phật giáo và Đạo giáo

nhưng “tam giáo" này vẫn có vai trị quyết định. Tuy có những thăng trầm,
nhưng chúng vẫn là cái kiềng ba chân, là bệ đỡ tinh thần văn hóa quốc gia dân
tộc Việt Nam. Cũng như người ta không thể lựa chọn được cha mẹ và nơi chôn
rau cắt rốn của mình, văn hóa Việt Nam cũng khơng thể từ bỏ được những tôn
giáo truyền thống và yếu tố bản địa của nó. “Tam giáo đồng nguyên" tạo nên bệ
đỡ vững chắc nhất cho văn hóa truyền thống Việt Nam.
Như cách nhà trí thức Phạm Quỳnh từng bày tỏ: “Truyền Kiều còn, tiếng ta còn.
Tiếng ta còn, nước ta còn.” Hiểu theo nghĩa rộng nhất, một quốc gia dân tộc sẽ
khơng cịn, nếu để mất bản sắc và văn hóa của nó. Mất văn hóa là mất tất cả. Văn
hóa Việt Nam bị suy yếu, thậm chí khơng cịn, nếu những bệ đỡ truyền thống của
nó bị bẻ gãy. Nó chỉ có thể phát triển tiếp được nếu các bệ đỡ tinh thần của nó Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo còn sức sống.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

19



×