Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam tại sao phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở việt nam 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.17 KB, 18 trang )

Bài thảo luận môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những đặc trưng cơ bản của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Tại sao phải tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam?

1


Nhóm thảo luận 02 – Nhóm lớp 11
Đinh Văn Dũng: 10

Nguyễn Văn Đạt: 10

Nguyễn Thị Hoàng Lan: 10

Nguyễn Duy Lập: 9

Phan Thị Phượng: 9

Nguyễn Minh Kính: 9

Phạm Thị Thùy Linh: 9

Bùi Văn Tân: 9

Trần Thị Diệu Ninh: 10

Phan Trọng Tĩnh: 10



Lưu Thanh Tùng: 10

Phan Tiến Hải: 9

Đào Hải Đăng: 8

2


I. Khái quát nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam:
1, Khái quát về nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó, mọi nguồn lực kinh tế được
phân bổ theo nguyên tắc thị trường, người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hố, dịch vụ trên thị trường.
Qua đó chúng ta có thể thấy nền kinh tế thị trường có một số đặc trưng
sau:
-Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp
không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường.
Qua thị trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được mình
làm ăn hiệu quả không.
-Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ
cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của
mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
-Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và
sử dụng nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản
được giải quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế

đặc biệt là quy luật cung cầu.
-Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền
kinh tế thị trường ln duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng
hoá, dịch vụ, hạn chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
2, Khái quát về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kì
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị
3


trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lí, đến nhận thức coi kinh tế thị
trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là
sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển
kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực
hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh
tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp
với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?. Đại hội IX
xác định:
”Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và
chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội”.
Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để
“phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, cịn tính “định hướng
xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu,
tổ chức quản lí và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn
hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất cơng, tạo điều kiện cho mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó
khơng phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng khơng phải là kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn tồn là kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã
4


hội chủ nghĩa” làm cho mơ hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa.

II, Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc
trưng cơ bản sau:
1. Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết của Nhà nước. Các quy luật khách quan của nền

kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu của nền kinh tế và các
ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phịng…) được Nhà nước quản lí.
Các thơng lệ quốc tế trong quản lí và điều hành kinh tế được vận dụng một
cách hợp lí. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
Trước đây chúng ta vận động theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Đặc trưng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là: nhà nước giao kế hoạch
cho các doanh nghiệp với một hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, nhà
nước cấp phát vật tư, tiền vốn theo chỉ tiêu. Như vậy, nhà nước cho phép phân
bổ nguồn lao động theo kế hoạch. Các cơ quan cấp trên quản lý chỉ đạo kinh
doanh nhưng không chịu trách nhiệm về các khuyết điểm của mình. Cấp phát
giao nộp theo quản lý, lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Nhà nước thực hiện
bao cấp qua giá và phân phối nền kinh tế bằng hiện vật hoá, tức là quan hệ
hàng hoá, tiền tệ bị xem thường, bộ máy quản lý cồng kềnh kém hiệu quả. Tóm
lại, nền kinh tế theo cơ chế này làm cho nền kinh tế phát triển trì trệ, là nguyên
nhân cho chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng. Vì thế phải xoá bỏ cơ chế
quan liêu bao cấp, sử dụng cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mơ của nhà nước.
Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị
trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân
dân lao động của tồn thể nhân dân. Hiện tại, nhà nước vẫn sử dụng các biện
pháp quản lý giá cả kiểu hành chính như u cầu các tập đồn kinh tế và tổng
cơng ty điều chỉnh mức đầu tư, quyết định giá xăng dầu, kiểm soát giá thép, xi
măng, than. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ra quyết định về
chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 năm và phương hướng thực
5



hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt
Nam xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm để trình
Quốc hội góp ý và thơng qua.
2. Là một nền kinh tế đa dạng phát triển theo hướng cịn tồn tại các hình
thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại
hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trị quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Trên cơ sở phát triển lí
luận và tổng kết thực tiễn, Đại hội XI xác định: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Về lâu dài, kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Trong 5, 10 năm tới, khơng xác định thành phần kinh
tế nào đóng vai trị nền tảng. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển.
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh
tế đa dạng ngày càng phát triển.

Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá
nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh
tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát
triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền
kinh tế bằng trình độ khoa học, cơng nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin - cho hay độc quyền
6


kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải
được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Chủ trương khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế bằng
việc thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh
tế nhà nước, các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Đến năm 2011 nước ta có 13
tập đồn kinh tế (Tập đồn Bưu chính viễn thơng Việt Nam- VNPT, Tập đồn
điện lực Việt Nam- EVN, Tập đồn cơng nghiệp tàu thủy Việt Nam- Vinashin,…)
và 96 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - con. Tuy
nhiên, hiện khơng có ít doanh nghiệp nhà nước lớn này hoạt động không hiệu
quả và hoặc thua lỗ triền miên, dẫn tới yêu cầu phải tái cấu trúc và cổ phần hóa
các doanh nghiệp này.
3. Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế thành công.
Trong giai đoạn 1990-2008, kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng cao và ổn
định, bình quân tăng trên 7%/năm, GDP bình quân đầu người cũng từ mức chỉ
100 USD đã tăng lên trên 1000 USD. Tỷ lệ nghèo từ 58% năm 1993 nay giảm
xuống chỉ còn khoảng 11%. Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và

lớn thứ 59 trên thế giới trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm và đứng thứ 128 xét
theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Theo dự báo của
PwC thì vào năm 2025, nền kinh tế Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế lớn
thứ 28 trong số những nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới với
GDP danh nghĩa đạt 841,661 tỉ USD và GDP bình quân đầu người là 5100 USD,
cho đến năm 2050, nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng thứ 14 trên thế giới có tốc độ
tăng trưởng cao nhất trong các nền kinh tế mới nổi (10.3% mỗi năm) theo
(PPP) là 3941 tỉ USD, bình quân đầu người đạt 23000 USD/năm và sẽ đạt 70%
quy mô của nền kinh tế Vương quốc Anh vào năm 2050.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế với nước ngoài. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng
hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp
định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn
hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã có mối
quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát
triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Nước ta cũng tham gia
7


vào nhiều liên kết kinh tế quốc tế như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Tổ chức thương mại thế giới WTO,… Đó là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng
hoá tất yếu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia mang tính chất quốc tế, đồng thời
đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu. Thơng qua mở rộng quan hệ kinh
tế với nước ngồi để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong tạo
điều kiện cho việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước
khác. Tuy nhiên, việc mở rộng quan hệ hợp tác dưới nhiều hình thức như hợp
tác, liên doanh, liên kết nhưng phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập và tự

chủ, hai bên cùng có lợi.
4. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức phân
phối.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua
phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguốn lực vừa được tiến hành theo hướng
nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảnh cách phát triển giữa
các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội. Công bằng
xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phân phối theo kết quả lao động là việc trả công cho người lao động căn
cứ vào số lượng và chất lượng lao động vì số lượng nó biểu hiện ở thời gian lao
động và số lượng sản phẩm. Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ thành
thạo của người lao động và tính chất phức tạp của cơng việc. Cũng có thể nói
phân phối teo lao động là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít. Có sức
lao động khơng làm khơng hưởng.
Việc phân phối lại qua phúc lợi xã hội cũng được chú trọng, thể hiện tính
ưu việt của chế độ ta. Bên cạnh việc lao động để tạo ra của cải cho chính mình
và xã hội thì có rất nhiều người trong xã hội ta chịu thiệt thịi, có hồn cảnh khó
khăn, suy giảm hoặc mất tạm thời hoặc vĩnh viễn sức lao động như ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động,…
những người đã đóng góp xương máu, có cơng trong hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc ta. Những người này được nhà nước ta quan tâm hỗ trợ
thông qua các chính sách phúc lợi xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
cứu trợ xã hội, chính sách cho người có cơng với cách mạng, chính sách hỗ trợ
hộ nghèo,…
5. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.

8



Bước đầu chúng ta đã xác định và thực hiện quan điểm mới về sự phát
triển, trong đó, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Trong điều kiện hiện nay, mối quan hệ giữa tự nhiên xã hội và con người đã có
những thay đổi căn bản. Thay vì coi tự nhiên là nguồn của cải vơ tận và chỉ biết
khai thác từ đó những gì có lợi cho mình như trước đây, con người ngày nay đã
nhận ra rằng, bên cạnh việc chinh phục tự nhiên, cịn phải bảo vệ và phục hồi
mơi trường thiên nhiên. Sau hội nghị thượng đỉnh họp tại Rio-de-janneiro,
Braxin, ngày 3/6/1992, vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã trở
thành đặc trưng cơ bản của thời đại, là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược
phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nhà nước bắt đầu xây dựng và thực hiện thể chế, luật pháp và các chính
sách về tài ngun thiên nhiên và mơi trường. Nhằm cụ thể hóa những quy
định chung về bảo vệ tài nguyên, môi trường đã được khẳng định trong hiến
pháp, nhà nước đã ban hành “Luật bảo vệ môi trường ” năm 1993. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, tăng cường trách
nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân đối với việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc
xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, chúng ta cũng đã
từng bước xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn môi trường và quản lý môi
trường phù hợp với điều kiện Việt Nam ISO 14000.
Nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2004) về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước đã
chỉ rõ con đường và các giải pháp bảo vệ mơi trường.
Hiện nay, đã có chủ trương đầu tư không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước
hàng năm cho sự nghiệp mơi trường.
Hình thành các cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường từ trung ương
đến các tỉnh, thành phố. Đào tạo và từng bước nâng cao năng lực của đội ngũ
cán bộ chuyên trách, bước đầu khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào
thực hiện mục tiêu bảo vệ mơi trường.
6. Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào q trình phát triển kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng
thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
9


văn minh. Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân
để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để khuyến khích
nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp tham gia
phát triển kinh tế. Nghị định của chính phủ về khuyến khích phát triển công
nghiệp nông thôn, Nhà nước tổ chức hoạt động khuyến khích, hướng dẫn, hỗ
trợ và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sản xuất cơng
nghiệp nơng thơn. Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Nhà nước bảo hộ,
khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá
nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo pháp
luật Việ t Nam.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam. Trong q trình tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy có một
số ý kiến cho rằng, khơng thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với
nhau, nếu đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì
chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngơ mình Sở”. Theo
chúng tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì
kéo Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định
hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
điều trái với quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này khơng
thốt ra được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư

bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng”
với kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của
kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời
trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái
phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về
những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở
chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế
thị trường khơng thể có kế hoạch, khơng thể thực hiện được công bằng xã hội,
không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v..
Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ
“định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho n lịng, cho có vẻ “giữ
vững lập trường” mà thơi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản
chủ nghĩa.
10


Chúng tôi cho rằng, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những
điều cịn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu khơng xác định rõ nội dung định
hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng tơi
cịn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định
là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định khơng thể duy trì mãi
mơ hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị
trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế
hàng hóa với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác
khẳng định rằng : “… sản xuất hàng hóa và lưu thơng hàng hóa là những hiện
tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy

mô và tầm quan trọng của chúng khơng giống nhau… Chúng ta hồn tồn
chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất
ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ
biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thơng hàng hóa, những phạm trù
chung cho tất cả các phương thức ấy” (1). Phải chăng việc nhận thức cho đúng
và nói cho được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc
thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay?.

III. Tại sao phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa?
1.Thể chế KTTT định hướng XHCN là gì?
Thể chế kinh tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ
và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh, trao
đổi trên thị trường.
Thể chế KTTT bao gồm:
• Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường – các bên tham gia
thị trường với tư cách là chủ thể thị trường.
• Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà
các bên tham gia thị trường mong muốn.
• Các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu
cầu, quy định của luật lê.
11


Thể chế KTTT định hướng XHCN được hiểu là thể chế KTTT, trong đó các
thiết chế, cơng cụ và ngun tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để
phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2. Khái quát những thành tựu khi xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Sau hơn 25 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành cơng từ thể chế
kinh tế kế hoạch hố tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những thành tựu nổi
bật của công cuộc đổi mới. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn lực cho phát
triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống
nhân dân. Biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận
dụng vào xây dựng đường lối kinh tế của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng đã
được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Hai là, chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã đổi mới cơ bản,
từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là
chủ yếu chuyển sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan
xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, tạo động lực và
điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển
kinh tế - xã hội.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống
nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân
được Nhà nước bảo vệ, tự chủ, tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để
phát triển.
Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới, từ can thiệp trực tiếp
bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang
quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Năm là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xố
đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
12



3. Những hạn chế yếu kém trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Có thể thấy rõ q trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ
và chưa thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai, tài ngun, tài
sản cơng…cịn nhiều bất cập, vướng mắc.
Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà
nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thốt tài
sản nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hố. Doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác cịn bị phân biệt đối xử.
Ba là, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển
chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thơng suốt. Tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được
khắc phục.
Bốn là, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương
cịn mang tính bình qn, chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương,
chưa khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa
thực hiệntốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu
tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Năm là, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý cịn thấp. Cải
cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, tệ tham nhũng, quan
liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng.
Sáu là, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới
chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh
xã hội còn kém. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ mơi

trường chưa được giải quyết tốt.
“Trong điều kiện tồn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất nước có thể
tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, phải xây
dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các nguồn lực dịch
chuyển trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo tín hiệu của thị
13


trường quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát triển hài hòa, cân đối
của nền kinh tế. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp phát triển nguồn nhân
lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới, tạo
lập lợi thế cạnh tranh động để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội so với các chủ thể
kinh doanh khác, qua đó thúc đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục cơ cấu đầu
tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với nhiều sản
phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế. Đây chính là biện
chứng của sự phát triển”.
Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường là 1 trong 3 khâu đột phá chiến lược
(hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm
là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và
đô thị lớn). “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một đột phá then chốt, có
tác động trực tiếp đến q trình tái cơ cấu, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng”. .
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, mà nhờ đó đã huy động được các
nguồn lực cho phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta còn nhiều bất cập, hạn chế. Xuất phát từ những điều đó, chúng
ta cần tiếp tục hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.

4. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
a- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
Đại hội IX và X đã chỉ ra những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đại hội XI đã tiếp tục xác định, làm rõ hơn nội
dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta như
sau:
(1) Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh
tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
14


(2) Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xố đói, giảm
nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
(3) Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để
làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ
thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác,
cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo (điểm mới so với Đại hội X là không xác định kinh tế nhà nước
cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Bởi vì, trong 5 năm tới kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa thể vươn lên
đóng vai trị nền tảng được).

(4) Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế,
đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Phát triển
kinh tế đi đơi với phát triển văn hố, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách. Cơng bằng trong phân phối các
yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển. Phân phối
kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống
an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
(5) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ
chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn
chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
b- Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp
- Tiếp tục thể chế hố quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu,
các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp
15


về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu,
tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với
xã hội.
- Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất
đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài

sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thốt,
lãng phí.
- Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập
đồn kinh tế và các tổng cơng ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà
nịng cốt là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện
Luật Hợp tác xã. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở nơng thơn và hình
thành hợp tác xã của các chủ trang trại.
- Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở
thành một trong những động lực của nền kinh tế (đây là điểm mới so với Đại
hội X). Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh
vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành
một số tập đồn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế
nhà nước. Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những ngành,
lĩnh vực kinh tế phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển của đất nước,
nhất là các lĩnh vực công nghệ cao.
- Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu
hỗn hợp như cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên,
công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần.
(So với Đại hội X, Đại hội XI xác định nền kinh tế nước ta hiện nay có 4
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi)
c- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
- Sớm hồn thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật
về kinh doanh phù hợp với điều kiện Việt Nam, bảo vệ thị trường nội địa, đồng
thời tuân thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam
tham gia.
16



- Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các loại thị
trường hàng hoá, dịch vụ. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời chú trọng
mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong nước, bảo vệ lợi ích của cả người sản
xuất và người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hoá, vệ sinh, an
toàn thực phẩm.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối: Từng bước
mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước và cam kết quốc tế.
- Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đất
đai, bảo đảm hài hồ các lợi ích của Nhà nước, của người giao lại quyền sử
dụng đất và của nhà đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng đất đai có hiệu
quả; khắc phục tình trạng sử dụng lãng phí và tham nhũng đất đai.
(Sở hữu đất đai là vấn đề lớn, khó phức tạp. Sau Đại hội XI, Quốc hội khoá
XIII sẽ tiến hành sửa đổi Luật Đất đai. Báo cáo chính trị chỉ nêu định hướng
chung như trên, còn cụ thể sẽ được đề cập trong Luật Đất đai (sửa đổi)).
- Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; có nhiều hình thức thơng tin giới thiệu các hoạt động và
sản phẩm khoa học, cơng nghệ; hồn thiện các định chế về mua bán các sản
phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường.
- Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền công phải
được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
d- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của
các tổ chức đảng; tăng cường, sử dụng hợp lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu
để tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội.
- Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù

hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và vận
dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường.
Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của
các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước.
17


- Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.

18



×