Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Luận án hôn nhân hiện nay của người h’mông đen ở xã tà xùa, huyện bắc yên, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.71 MB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi dân tộc. Nó khơng chỉ
là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong chu kì đời người đối với cá
nhân, đối với gia đình và dịng họ; mà cịn phản ánh rõ đặc trưng văn hóa tộc người.
Hơn nhân gắn liền với nhiều nghi lễ, phong tục và chứa đựng nhiều sắc thái văn hoá
của mỗi dân tộc. Ngồi nhằm duy trì nịi giống, đánh dấu sự chuyển đổi và trưởng
thành của thành viên trong gia đình, hơn nhân chính là nền tảng để duy trì, củng cố
và phát triển gia đình. Chính vì thế việc nghiên cứu hơn nhân có một tầm quan
trọng đặc biệt, giúp chúng ta nhận thức được tính đa dạng của vấn đề. Bởi vậy, tập
quán hôn nhân đã trở thành như một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt
giữa tộc người này với tộc người khác.
Trong các cơng trình nghiên cứu về người H’mông, hôn nhân cũng là lĩnh
vực luôn được đề cập tới một cách khái quát hoặc khá chi tiết bằng các miêu tả về
các khía cạnh nội hàm. Các cơng trình mang tính tổng hợp thường đề cập tới tất cả
các lĩnh vực truyền thống, nhất là lĩnh vực thiết chế xã hội, trong đó có dịng họ,
hôn nhân và cưới xin. Tuy nhiên, nghiên cứu một cách có hệ thống chun sâu
riêng về hơn nhân của người người H’mơng thì cịn khiêm tốn, mà thường liên quan
đến cả lĩnh vực cưới xin hay gia đình.
Ở tỉnh Sơn La, dân tộc H’mông đứng thứ 3 về dân số, chiếm 13% tổng dân
số toàn tỉnh (sau người Thái và người Kinh). Họ cư trú tập trung ở các huyện Mộc
Châu, Thuận Châu, Yên Châu, Bắc Yên. Cho đến nay, các nghiên cứu về người
H’mông ở tỉnh này cũng chủ yếu liên quan đến lĩnh vực xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo
hay lễ hội nói chung. Tại xã Tà Xùa - một xã vùng cao của huyện Bắc Yên, người
H’mơng chiếm tới 99,57% dân số, gồm hai nhóm H’mơng Đen và H’mông Hoa cư
trú. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hai nhóm H’mơng này đến nay vẫn cịn rất khiêm
tốn. Vì thế, thơng qua nghiên cứu về hơn nhân và cưới xin, chúng ta hiểu rõ hơn sự
đa dạng văn hóa, sắc thái địa phương của người H’mơng nói chung; đồng thời nhận
diện được sự tương đồng và nét khác biệt giữa hai nhóm H’mơng ở địa phương này.

1




Ngày nay dưới tác động và ảnh hưởng của quá trình cơng nghiệp hóa và hội
nhập hóa đang diễn ra mạnh mẽ, để thích ứng được với điều kiện hồn cảnh mới,
người H’mơng xã Tà Xùa đã có những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế văn hóa - xã hội, trong đó vấn đề hơn nhân cũng có những thay đổi rõ nét. Nhiều lễ
nghi, thủ tục rườm rà, tốn kém trong đám cưới được lược bỏ, các quan niệm về hôn
nhân, độ tuổi kết hôn, thủ tục đám cưới cũng có nhiều khác biệt so với trước kia.
Những thay đổi này một mặt làm phong phú thêm đời sống văn hóa tộc người, mặt
khác đó cũng chính là những nhân tố làm thay đổi các giá trị văn hóa vốn có của
người H’mơng. Bởi vậy, nghiên cứu hơn nhân của nhóm H’mơng Đen ở xã Tà Xùa
cịn nhằm góp phần làm sáng rõ thêm vấn đề văn hóa tộc người hiện nay. Bên cạnh
đó, kết quả nghiên cứu cũng làm cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý có những chủ
trương, chính sách cụ thể trong việc bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc tộc người,
góp phần thực hiện hiệu quả Luật Hơn nhân và Gia đình của Nhà nước. Theo đó,
nghiên cứu này còn là hướng đi phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
IX Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về: xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một cán bộ giảng dạy và nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thuộc Trường
Đại học Tây Bắc, tơi có điều kiện tiếp xúc với đồng bào người H’mông xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên trong những chuyến thực tế chuyên môn. Bản thân tôi đã được tham
dự và tham gia nhiều nghi lễ thực hành phong tục tập qn độc đáo, trong đó có hơn
nhân và cưới xin của họ. Mỗi lần như thế, các nghi thức, nghi lễ này ln lơi cuốn
và thơi thúc tơi tìm hiểu về chúng với mong muốn góp phần nhỏ, giới thiệu với bạn
bè, đồng nghiệp. Vì thế, tơi quyết định chọn đề tài “Hôn nhân hiện nay của người
H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La” làm nội dung nghiên cứu
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Một số nghiên cứu về người H’mông Việt Nam
Là một trong 53 tộc người thiểu số ở Việt Nam, từ lâu người H’mông cũng là
một trong những tộc người dành được sự quan tâm, chú ý đặc biệt của các nghiên


2


cứu khoa học xã hội và Nhân văn, nhất là các nhà Dân tộc học/Nhân học. Vì thế,
bên cạnh các nghiên cứu liên quan tới các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa,
ngơn ngữ, chữ viết, tri thức dân gian, loại hình diễn xướng, dân ca, văn học nghệ
thuật..., thì các nghiên cứu về mảng đề tài hôn nhân và cưới xin của người H’mông
cũng đã được cơng bố khá nhiều trong các cơng trình nghiên cứu, bài viết, các đề tài
luận văn, luận án. Đây là những tài liệu quý giá giúp cho tôi tham khảo và kế thừa
trong q trình hồn thành luận văn.
Có thể nhắc đến một số cơng trình nghiên cứu về người H’mơng như cuốn
“Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” của tập thể tác giả Viện Dân
tộc học [37] đã giới thiệu những nét khái quát nhất về lịch sử tộc người người
H’mơng. Tìm hiểu một cách toàn diện về đời sống kinh tế, quan hệ xã hội, tơn giáo
tín ngưỡng, quan hệ dịng họ và hơn nhân, gia đình.... của người H’mơng. Nhìn
chung, tác giả đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan và khái quát nhất trên tất
cả các mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của tộc người H’mông.
Cuốn “Dân tộc Mông ở Việt Nam” của hai tác giả Cư Hịa Vần, Hồng Nam
[36]. Trong cuốn sách này, hai tác giả đã khảo tả tương đối tồn diện về dân tộc
H’mơng, như: địa vực cư trú, nguồn gốc lịch sử, tên gọi, những nhóm người, các
đặc điểm kinh tế, đời sống, quan hệ xã hội và các phong tục tập quán như ma chay,
cưới xin, tập quán sinh đẻ và nuôi con. Cuốn sách này không chỉ cung cấp những
thông tin khái quát về người H’mơng ở Việt Nam mà cịn là nguồn tài liệu tham
khảo có giá trị, cung cấp nhiều thơng tin cho chúng tôi nghiên cứu về hôn nhân của
người H’mông.
Cuốn “Văn hóa tâm linh của người Hmơng ở Việt Nam truyền thống và hiện
tại”, tác giả Vương Duy Quang [27] đã khái quát về lịch sử tộc người, hoạt động kinh
tế và một phần quan trọng về quan hệ xã hội của người H’mơng. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh về gia đình, dịng họ và quan hệ giữa làng và dịng họ trong cộng đồng

người H’mơng. Có thể nói, quan hệ dịng họ chính là một trong những nhân tố có ảnh
hưởng lớn đến vấn đề hôn nhân của người H’mông kể cả trong quá khứ và hiện nay.

3


Trong cuốn “Đặc trưng văn hoá và truyền thống cách mạng các dân tộc ở
Kỳ Sơn Nghệ An” của tập thể tác giả Trần Tất Chủng, Phạm Quang Hoan, Cầm
Trọng, Nguyễn Ngọc Thanh [7] tập trung nghiên cứu về 3 dân tộc chính ở huyện Kì
Sơn, tỉnh Nghệ An gồm người Thái, người Khơ-mú và người H’mông. Nội dung về
đặc trưng văn hóa các dân tộc chiếm ½ dung lượng cuốn sách, đã đề cập đến các
mặt về kinh tế truyền thống, văn hóa vật chất, tổ chức xã hội, hơn nhân và gia đình.
Trong đó nghi lễ hơn nhân của người H’mơng ở Kì Sơn Nghệ An cũng được mô tả
một cách chi tiết về các bước trong tiến trình hơn nhân.
Cuốn “Văn hóa dân tộc Mơng ở Hà Giang” của Trường Lưu và Hùng Đình
Quý [22] và cuốn “Văn hóa người Mơng ở Nghệ An” của tác giả Hoàng Xuân
Lương [21] là một trong những khảo tả khá đầy đủ về văn hóa của các nhóm
H’mơng Trắng và H’mông Hoa nơi đây. Tuy nhiên, phần hôn nhân và cưới xin
cũng chỉ được trình bày khái quát.
Tương tự, cuốn“Tiếp cận văn hóa Hmơng” của hai tác giả Mã A Lềnh, Từ
Ngọc Vụ [19] cũng cung cấp cho chúng ta cái nhìn khái qt, tồn diện về lịch sử
cư trú, tổ chức xã hội - dòng họ và mối quan hệ thân tộc, huyết thống, văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần với những giá trị biểu hiện đặc trưng... trong đó vấn đề
hơn nhân cũng được đề cập đến là được xem là một trong những bước ngoặt trong
chu kì đời người của cộng đồng người H’mơng.
Cuốn sách ảnh “Người Hmông ở Việt Nam” của Vũ Quốc Khánh và cộng sự
[18]. Với dung lượng gồm 8 phần đã giới thiệu một cách khái quát về người
H’mông ở Việt Nam với các nội dung cụ thể: Nguồn gốc - lịch sử và sự phân bố
dân cư; Bản làng; Trang phục; Nhà; Ẩm thực; Chợ; Lễ hội. Hiện nay đây được coi
là cơng trình sách ảnh duy nhất cung cấp cho chúng ta những hiểu biết và cái nhìn

sơ lược nhất về đời sống thực tế người H’mông ở Việt Nam.
Cuốn “Phong tục tập quán một số dân tộc thiểu số” của tập thể các tác giả
Ninh Văn Hiệp, Tuấn Dũng, Hoàng Quyết, Trương Thị Xứng, Bùi Ngọc Quang
[13]. Cuốn sách là tập hợp sưu tầm và giới thiệu về phong tục tập quán của một số
dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó có nội dung về đám

4


cưới và tục sinh đẻ của người H’mông ở Cao Bằng. Nội dung này đã cung cấp cho
tác giả những hiểu biết về các nghi lễ trong đám cưới của người H’mơng ở Cao
Bằng, đó sẽ là cơ sở để tác giá có cái nhìn so sánh, đối chiếu với hôn nhân của
người H’mông ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên trong quá trình thực hiện luận văn.
Trong cuốn “Bạo lực trong gia đình người Mơng tại vùng núi phía Bắc Việt
Nam”, tác giả Nguyễn Thế Huệ [16] qua nghiên cứu tại 9 thôn/bản thuộc 4 xã của
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai và huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã phân tích, làm rõ
thực trạng và các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình trong cộng đồng người
H’mơng. Từ đó đề xuất một số giải pháp về phịng, chống bạo lực gia đình. Qua
phân tích, tác giả cũng chỉ rõ một trong các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình
đó là trình độ nhận thức kém và tình trạng tảo hơn hiện vẫn đang diễn ra trong cộng
đồng tộc người H’mông.
Tác giả Bùi Xuân Trường với “Tác dụng của luật tục với việc quản lí xã hội
ở các dân tộc Thái, Hmông - Tây Bắc Việt Nam” [34]. Cuốn sách đã hệ thống hoá
các tư liệu về luật tục, xác định ảnh hưởng của luật tục đối với xã hội đương thời
của người Thái và H’mông, trong đó có các ảnh hưởng của luật tục đến vấn đề hơn nhân.
Nghiên cứu “Giữ “lí cũ” hay theo “lí mới”? Bản chất của những cách phản
ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành” của
tác giả Nguyễn Văn Thắng [32] đã góp phần làm rõ bản chất của vấn đề giữ “lí cũ”
và theo “lí mới” của người H’mơng cũng như ảnh hưởng của những cách phản ứng
khác nhau này của người H’mơng tới văn hóa và xã hội của họ, trong đó có những

ảnh hưởng về hơn nhân, gia đình, dịng họ. Đặc biệt với tình hình cải đạo của người
H’mơng ở xã Tà Xùa diễn ra ngày càng phổ biến, cuốn sách đã góp phần làm rõ
thêm về sự lựa chọn biến đổi này.
Cuốn “Dân số kế hoạch hóa gia đình người Hmơng ở Hịa Bình” của tập thể
các tác giả Viện Dân tộc học gồm PGS.PTS Khổng Diễn và các cộng sự [9] là cuốn
sách song ngữ Việt - H’mơng đầu tiên, nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách dân
số kế hoạch hóa gia đình tới đồng bào dân tộc H’mơng ở tỉnh Hịa Bình. Dựa trên số
liệu điều tra điền dã thu được tại hai xã Hang Kia và Pà Cò, huyện Mai Châu, cuốn

5


sách đã khái lược về thực trạng kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hịa Bình, trên cơ sở đó đề xuất việc sử dụng kết hợp các
biện pháp phòng tránh thai theo y học hiện đại cùng với các bài thuốc dân gian đã
được người H’mông áp dụng từ xa xưa nhằm đạt mục tiêu giảm tỉ lệ sinh trong cộng
đồng tộc người vốn còn tồn tại nhiều hạn chế về nhận thức và bất bình đẳng xã hội.
Chuyên khảo “Người Hmơng ở Pà Cị huyện Mai Châu tỉnh Hịa Bình” của
tác giả Khổng Diễn [8] đã cho chúng ta thấy được bức tranh tổng quát nhất về tình
hình dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa của người H’mơng ở Pà Cị,
huyện Mai Châu. Từ đó chỉ ra những khó khăn cơ bản nhất của người H’mơng nơi
đây nhằm góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc nói chung và với người
H’mơng tỉnh Hịa Bình nói riêng.
Tác giả Đỗ Ngọc Tấn và cộng sự với cơng trình nghiên cứu “Hơn nhân gia
đình các dân tộc Hmông, Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng” [31] đã đi sâu
phân tích, làm rõ những đặc điểm, thực trạng trong hơn nhân và gia đình của hai
dân tộc H’mông và Dao căn cứ vào số liệu điều tra cụ thể. Tuy nhiên cuốn sách
không nghiên cứu chun sâu về một nhóm H’mơng nào và cũng chưa phân tích
các nghi lễ diễn ra trong hơn nhân của người H’mông.
Cuốn “Đám cưới của người Hmông Lềnh (Hmông Hoa) ở Lào Cai” của tác

giả Trần Hữu Sơn [29] đã giới thiệu nhiều nghi lễ độc đáo, đặc trưng của tộc người
với các lễ xem tuổi, lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Cuốn sách đã
nghiên cứu về một nhóm địa phương cụ thể là nhóm H’mơng Lềnh ở Lào Cai. Đây
là nguồn tư liệu quan trọng cho độc giả khi nghiên cứu về người H’mơng ở Lào Cai
nói chung và nhóm tộc người H’mơng Lềnh (H’mơng Hoa) nói riêng.
Luận văn Thạc sĩ “Hơn nhân của người Hmông Hoa ở xã Pú Luông, huyện
Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc [24] đã tập trung
nghiên cứu, làm rõ sự biến đổi hôn nhân giữa truyền thống và hiện đại của người
H’mông Hoa ở xã Pú Luông, huyện Mù Cang Chải. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên
những vấn đề đang đặt ra trong hôn nhân của người H’mông Hoa hiện nay và kiến
nghị một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người.

6


2.2. Một số nghiên cứu về người H’mông ở tỉnh Sơn La
Nghiên cứu về người H’mông ở tỉnh Sơn La cũng được nhiều nhà nghiên
cứu, học giả trong nước quan tâm với nhiều cơng trình nghiên cứu trên các lĩnh vực
khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến “Dân tộc Mơng Sơn La với việc giải quyết vấn đề
tín ngưỡng tôn giáo hiện nay” của tác giả Thào Xuân Sùng (chủ biên) [30]; Chuyên
khảo“Một số vấn đề về tổ chức xã hội của người Hmông ở Sơn La trước cách mạng
tháng Tám năm 1945” của tác giả Trần Bình [4]; “Tín ngưỡng, tơn giáo người
Hmơng ở tỉnh Sơn La” của tác giả Hồng Bé [5]; “Dịng họ người Hmơng Trắng
(quan nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La)”
tác giả Hồ Ly Giang [11]; “Văn hóa lễ hội của người Mơng: Truyền thống và biến
đổi” tác giả Nguyễn Hoàng Yến và các cộng sự [40]... trong đó nghiên cứu về hơn
nhân của người H’mơng có các nghiên cứu “Truyền thống biến đổi trong quan hệ
dịng họ, hơn nhân của người Hmơng Hoa ở Tây Bắc hiện nay” (Nghiên cứu bản
Hua Tạt, xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) của tác giả Nguyễn Thị Oanh
[26]; “Tục cưới xin của người Hmông Trắng ở Thuận Châu, Sơn La (Qua nghiên

cứu tại bản Nậm Giắt, xã Phỏng Lái)” tác giả Dương Hà Hiếu [14],... những cơng
trình này tuy đã bàn đến hơn nhân của người H’mông nhưng chỉ dừng lại ở việc
miêu tả sơ lược về hôn nhân của người H’mông Hoa và người H’mông Trắng ở một
bản cụ thể của tỉnh Sơn La. Hôn nhân của người H’mơng Đen ở huyện Bắc n nói
chung và xã Tà Xùa nói riêng cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu
chun sâu nào.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu nêu trên, chúng ta cịn có thể kể đến
nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác, là những bài nghiên cứu đăng trên
các Tạp chí chuyên ngành như: “Trẻ em và phụ nữ người Hmông, thực trạng và nhu
cầu trợ giúp (Nghiên cứu tại bản Sảng Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang)” của
tác giả Lâm Bá Nam - Phạm Văn Thành [23]; “Ảnh hưởng của du lịch đến một số
thiết chế xã hội của người Hmông ở Sapa” của Trần Hữu Sơn [28]; “Tri thức địa
phương về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em người Hmông ở xã Văn Lăng, huyện
Đồng Văn, tỉnh Thái Nguyên” của Vũ Thị Hồng - Nguyễn Thị Minh Nguyệt [15];

7


“Di dân tự do của người Hmông ở miền núi Thanh Hóa từ 1990 đến nay” của Vũ
Trường Giang [12]; “Lễ lên đồng của người Hmông Trắng ở Tây Bắc” của Khổng
Kim Anh - Đặng Thị Hoa [1]; “Lễ cưới của người Hmông Trắng ở Lào Cai” của
Nguyễn An Châu [6]... cùng hệ thống các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ, khoá
luận tốt nghiệp của cử nhân hiện đang được lưu trữ tại Viện Dân tộc học, thư viện
các trường đại học... Những cơng trình nghiên cứu này một mặt giúp chúng tơi có
cái nhìn tồn diện và sinh động về dân tộc H’mông - một dân tộc thiểu số với nhiều
nét văn hóa đặc sắc, đa dạng, bên cạnh đó cũng có dịp tìm hiểu sâu hơn về một số
nhóm nhỏ trong dân tộc H’mơng từ đó thấy được cái riêng biệt nằm trong cái chung
của cộng đồng người H’mông ; Mặt khác những nghiên cứu trên cịn góp phần cung
cấp những luận cứ khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách đề xuất những giải
pháp can thiệp phù hợp nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho

đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa nói riêng
nhằm xóa bỏ các hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa mới lành mạnh, văn minh
nhưng vẫn đảm bảo bản sắc văn hóa truyền thống tộc người.
Tổng quan tài liệu cũng cho thấy mặc dù các cơng trình nghiên cứu về văn
hóa H’mơng tuy đa dạng nhưng nghiên cứu về hôn nhân vẫn là lĩnh vực cịn nhiều
khoảng trống, đặc biệt là nghiên cứu về hơn nhân của người H’mơng Đen. Các cơng
trình nghiên cứu chun sâu về sự giống và khác nhau giữa các nhóm địa phương
trong tộc người H’mơng cũng chưa có. Bởi vậy việc nghiên cứu, tìm ra những đặc
điểm riêng và các xu hướng biến đổi của từng nhóm là cần thiết nhằm đưa ra những
định hướng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người theo
định hướng của Đảng và Nhà nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thơng qua nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống các đặc điểm hôn
nhân truyền thống của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, luận văn phác họa bức
tranh văn hóa của người H’mơng ở huyện Bắc n, tỉnh Sơn La nói chung, nhóm
H’mơng Đen nói riêng.

8


- Trong bối cảnh tác động của các điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu và
hội nhập ngày càng sâu rộng, luận văn cũng chỉ ra thực trạng của những khía cạnh
biến đổi, ngun nhân hay nói cách khác là những tác động dẫn đến sự biến đổi
trong hôn nhân của nhóm H’mơng Đen nơi đây.
- Một số vấn đề đặt ra và một số đề xuất khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ các mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung thực hiện các

nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Tổng hợp, phân tích các tài liệu thành văn liên quan đến người H’mơng nói
chung và hơn nhân người H’mơng nói riêng.
- Triển khai các đợt điền dã Dân tộc học để thu thập tài liệu...
- Luận văn tập trung phân tích, lý giải các khía cạnh nội hàm liên quan đến
hôn nhân và lễ cưới gồm: quan niệm, ngun tắc, tính chất, hình thức...; các bước
thực hành trước và trong lễ cưới của nhóm H’mơng Đen nơi đây.
- Chỉ rõ các khía cạnh biến đổi và phân tích, lý giải nguyên nhân của sự biến
đổi trong hơn nhân hiện nay của nhóm H’mơng Đen tại điểm nghiên cứu. Trong
chừng mực nào đó, luận văn cũng sẽ cố gắng so sánh với hơn nhân của nhóm
H’mơng Hoa tại địa bàn nghiên cứu.
- Thảo luận một số vấn đề đặt ra và các khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La nêu trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người H’mông Đen ở xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Trong đó, nội dung luận văn tập trung phân tích, lý
giải sâu về các đặc điểm trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa và
thực trạng trong hôn nhân của người H’mông Đen hiện nay. Cách thực hiện này sẽ

9


làm rõ những biến đổi trong hôn nhân và các yếu tố tác động và cả những vấn đề
đặt ra trong hơn nhân hiện nay ở nhóm H’mơng này. Ngồi ra, luận văn có một số
so sánh với hơn nhân của nhóm H’mơng Hoa đồng tộc của họ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu hôn nhân của người H’mơng, nhóm H’mơng Đen ở
xã Tà Xùa, huyện Bắc n, tỉnh Sơn La.

Về khơng gian: Địa bàn nghiên cứu chính của luận văn được xác định là bản
Tà Xùa A, Tà Xùa C của xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, nơi người
H’mông Đen tập trung sinh sống đơng nhất và lâu đời nhất. Ngồi ra, luận văn còn
khảo sát thêm một số bản khác trên địa bàn xã là nơi sinh sống chủ yếu của người
H’mông Hoa để thấy được những điểm khác biệt trong tập quán hơn nhân của hai
nhóm người H’mơng cùng sinh sống trên địa bàn xã.
Về thời gian: Trên phạm vi cả nước, sau khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước (1986), tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội
đã có những chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên do Tà Xùa là một xã vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, giao thông đi lại rất khó khăn, đồng bào người H’mơng sống khép kín, ít
giao lưu với bên ngồi, cho nên cho đến trước năm 1998, diện mạo nông thôn của
người H’mông nơi đây chưa thay đổi mạnh mẽ, đời sống người dân tại địa bàn vẫn
hết sức khó khăn. Phải kể từ năm 1998 trở đi, khi Chương trình phát triển kinh tế xã
hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (gọi tắt là Chương
trình 135) được triển khai tại địa phương, thì kinh tế - xã hội của địa phương mới có
sự chuyển biến, đời sống đồng bào H’mông ở xã Tà Xùa mới bắt đầu có những thay
đổi. Giai đoạn 2 của Chương trình 135 (2005 - 2010) đã thực sự tác động mạnh mẽ
đến đời sống người dân. Đặc biệt, hệ thống đường giao thông được đầu tư xây
dựng, việc đi lại thuận tiện hơn từ đó mở ra các cơ hội về làm ăn kinh tế, giao lưu
trao đổi văn hóa, lớp trẻ được đi học, đi làm ở những thành phố lớn và phát triển...
từ đó nhận thức của người dân có sự thay đổi đáng kể so với trước đây. Chính
những yếu tố này là cơ sở và là nguyên nhân dẫn tới nhiều thay đổi sâu rộng trong
đời sống xã hội của người H’mơng nơi đây, trong đó có sự thay đổi của hơn nhân.

10


Đây là lý do tác giả lấy mốc trước và sau năm 1998 để phân định giữa truyền thống
và biến đổi về hôn nhân trong luận văn. Đặc biệt, sự thay đổi sâu sắc về nhiều mặt
của đời sống xã hội của H’mơng nơi đây, trong đó có hơn nhân bắt đầu từ sau năm

2005 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc
Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn tác giả đã sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu có sẵn
Để tổng hợp và phân tích các tài liệu có sẵn, chúng tơi tiến hành tìm tịi và
đọc các cơng trình nghiên cứu về người H’mơng đã cơng bố nói chung, nhất là các
cơng trình, bài viết liên quan đến trực tiếp đến nội dung của đề tài luận văn. Theo
đó, tác giả cũng tiếp cận với một số luận án, luận văn của những người đi trước,
trong đó có đề cập đến hơn nhân và cưới xin của người H’mông. Các tài liệu như
báo cáo, số liệu về dân số, dân tộc, số liệu thống kê liên quan đến dân tộc H’mông ở
huyện, xã cũng được tham khảo, cập nhật.
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng xun suốt trong q trình thực
hiện và hồn thành luận văn. Theo đó, tác giả đã thực hiện 4 đợt điền dã tại địa bàn
xã Tà Xùa từ tháng 5/2017 đến tháng 12/2018, mỗi đợt điền dã kéo dài ít nhất 5
ngày, dài nhất 10 ngày. Tác giả đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân từ đó
hịa nhập và có những hiểu biết sâu sắc hơn về văn hóa và phong tục tập quán của
đồng bào nơi đây. Các thao tác cơ bản trong phương pháp này bao gồm (i). Quan
sát tham dự được tác giả sử dụng trong suốt quá trình điền dã tại địa phương và đã

11



tham dự tham dự một số đám cưới của người H’mông Đen ở bản Tà Xùa A và C
vào dịp tháng 5/2017 và tháng 12/2018; (ii). Thao tác phỏng vấn sâu với nhiều đối
tượng khác nhau gồm nông dân, giáo viên, cán bộ xã, hưu trí, người bn bán nhỏ,
chủ homestay... với các độ tuổi, giới tính khác nhau. Trong đó, tác giả tập trung
phỏng vấn với các đối tượng là người cao tuổi, người am hiểu phong tục tập quán,
các ông mối, cô dâu chú rể và bố mẹ chồng cơ dâu chú rể và (iii). Ngồi ra, để biết
được ý kiến của họ về những biến đổi trong hơn nhân và cưới xin hiện nay, tác giả
cịn tiến hành một số buổi thảo luận nhóm nhỏ với các bạn trẻ gồm những người
được học hành và những người ở nhà lao động sản xuất.
Trong quá trình thu thập tư liệu và tham dự, tác giả cũng sử dụng công cụ bổ
trợ chủ yếu là chụp ảnh và quay video clip nhằm ghi lại những tư liệu thực tế sinh
động về đám cưới của nhóm H’mơng Đen tại địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp hồi cố
Đây là phương pháp rất cần thiết và hết sức quan trọng đối với tác giả, bởi
kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế. Theo đó, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi, lắng
nghe và ghi chép lời kể từ những người lớn tuổi, trưởng họ người H’mông Đen...
căn cứ vào tư liệu hồi cố để thiết lập lại lịch sử di cư, lập bản của người H’mông
Đen ở xã Tà Xùa, cũng như ý kiến đánh giá của họ về các khía cạnh biến đổi và
nguyên nhân của sự biến đổi trong hôn nhân của họ.
Ngoài ra, các phương pháp bổ trợ khác như thống kê, phân tích, so sánh đối
chiếu các nguồn thơng tin, tư liệu, các số liệu thu thập được cũng được áp dụng
nhằm đưa ra kết quả chính xác nhất trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu chun sâu đầu tiên về hôn nhân của
người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Luận văn cung cấp
một cách đầy đủ và có hệ thống về quan niệm, nguyên tắc, phong tục tập quán và
nghi lễ trong hơn nhân của nhóm H’mơng này từ truyền thống đến hiện tại, góp
phần bổ sung tý liệu mới cho ngành Dân tộc học/Nhân học.


12


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cùng với việc trình bày và phân tích những đặc điểm của hơn nhân truyền
thống, luận văn cung cấp tư liệu mới về những thay đổi trong hôn nhân cũng như lễ
cưới, lý giải những nguyên nhân tác động dẫn tới thay đổi của các khía cạnh trong
hơn nhân hiện nay của nhóm H’mơng Đen tại địa phương.
Nguồn tư liệu của luận văn góp phần làm cơ sở khoa học trong việc định
hướng và gợi ý cho chính quyền địa phương trong việc xây dựng chính sách về văn
hóa - xã hội bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người H’mơng nói chung và
người H’mông xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La nói riêng. Đồng thời góp
phần xây dựng đời sống văn hóa mới của cộng đồng tộc người H’mơng trong bối
cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ trương xây dựng Nông thôn
mới của Nhà nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết và khái quát về tộc người nghiên cứu
Chương 2. Đặc điểm hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Chương 3. Biến đổi trong hôn nhân của người H’mông Đen từ năm 1998
đến nay.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xác định cần làm rõ những
khái niệm cơ bản liên quan đến hôn nhân gồm: hôn nhân, ngoại hơn dịng họ, hơn
nhân hỗn hợp, nghi lễ, truyền thống, biến đổi...
Khái niệm Hơn nhân có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng Việt, hôn nhân được định nghĩa là việc kết hôn giữa nam và nữ… [33,
tr.712]. Cịn trong Từ điển Nhân học thì “Hơn nhân là mối quan hệ gắn bó được
thừa nhận về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm mục
đích duy trì nịi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc nhằm tạo
ra hộ gia đình mới” [35, tr.519].
Trong cuốn “Nhân học - Một quan điểm về tình trạng nhân sinh” của hai tác
giả Emily A. Schulzt và Robert H. Lavenda, khái niệm hơn nhân được giải thích:
“Hơn nhân là một q trình xã hội mà mơ hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một
người đàn ông và một người đàn bà, là một sự kiện làm biến đổi những thành viên
của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và những
khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi
kèm” [10, tr.342]. Theo hai tác giả này thì, hơn nhân cũng tạo nên tính hợp pháp
của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và
họ hàng bên chồng [10].
Luật Hơn nhân và Gia đình ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014 của Nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa: “Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã kết hôn” [20]. Đồng thời tại điều 3, mục 4,5 Luật này cũng nêu rõ:
“Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hơn nhân và gia đình, được lặp đi lặp lại trong
một thời kì dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng…
Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật

14


này về điều kiện kết hơn và đăng kí kết hơn”.

Nội hàm hơn nhân bao gồm nhiều yếu tố/khía cạnh như quan niệm, ngun
tắc, tính chất và hình thức hơn nhân, cư trú sau hơn nhân... vì vậy trong q trình
thực hiện luận văn, tác giả cũng phải nghiên cứu một số khái niệm khác có liên
quan đến hơn nhân nhằm thể hiện được đặc trưng và bản sắc văn hóa tộc người
H’mơng nói chung và người H’mơng Đen ở xã Tà Xùa nói riêng.
Nội hơn tộc người: là việc chỉ kết hôn với người trong cùng một dân tộc,
hoặc cùng một nhóm tộc người với mình. Đây là tập quán/xu thế phổ biến của nhiều
tộc người thiểu số trong việc kết hơn trước kia.
Ngoại hơn dịng họ: là khái niệm chỉ được kết hơn với những người ngồi
dịng họ của mình và được quy định bởi tập quán pháp của tộc người. Ở người
H’mông cũng vậy, thông thường, việc kết hơn giữa những người cùng dịng họ bất
kể ở xa hay gần đều bị nghiêm cấm.
Hôn nhân hỗn hợp dân tộc: Khái niệm này dùng để chỉ việc kết hôn giữa hai
người không cùng một tộc người/dân tộc với nhau mà không trái với quy định của
pháp luật. Hôn nhân hỗn hợp là một hiện tượng phổ biến diễn ra trong nền kinh tế
thị trường hiện nay. Bởi vì q trình tiếp xúc giao lưu văn hố khơng chỉ bó hẹp
trong phạm vi một cộng đồng tộc người mà xu hướng sẽ phát triển ra bên ngồi.
Khơng những thuộc phạm vi quốc gia mà còn giữa quốc gia này với quốc gia khác
trong xu thế tồn cầu hố như ngày nay.
Nghi lễ hôn nhân: được hiểu là những nghi lễ phải thực hành và tuân theo
trong hôn nhân theo quy định của phong tục, tập quán của mỗi tộc người. Để hợp
thức hóa về hơn nhân, đơi trai gái và gia đình hai bên bắt buộc phải thực hiện một
số nghi lễ theo tập quán tộc người quy định. Nghi lễ hôn nhân được thực hiện nhằm
đảm bảo sự chứng kiến và công nhận của cộng đồng về việc kết hôn của đôi trai gái,
đồng thời bên trong các nghi lễ đều chứa đựng yếu tố tâm linh, liên quan đến đời
sống tín ngưỡng của mỗi tộc người.
Truyền thống: theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, truyền thống là thói
quen được hình thành đã lâu trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ

15



này qua thế hệ khác [33, tr.1055].
Biến đổi là khái niệm chỉ sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều
thay đổi khác với trước [33, tr.64]. Văn hóa nói chung và hơn nhân nói riêng ln
ln có sự vận động và biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế - văn hóa để
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
1.1.2. Các lý thuyết tiếp cận
Luận văn vận dụng lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử gồm: (i). Đảm bảo tính khách quan, có nghĩa là
nghiên cứu sự vật hiện tượng như chúng đang tồn tại thực tế, các kết luận phải xuất
phát từ thực tế, khơng phán đốn chủ quan; để có hiểu biết đúng đắn về sự vật, hiện
tượng phải hướng tới cái bản chất, không hướng tới cái ngẫu nhiên, không ổn định;
(ii). Nghiên cứu sự vật hiện tượng trong sự phát triển. Theo đó, mỗi sự vật, hiện
tượng đều có q trình nảy sinh, vận động (biến đổi) và phát triển; đều tồn tại trong
một không gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu, cần nhìn nhận sự vật, hiện
tượng trong những giai đoạn cụ thể và trong tồn bộ tiến trình phát triển; cần chú ý
đến hồn cảnh lịch sử cụ thể làm nảy sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực khách
quan và chủ quan. Có như vậy sẽ giúp ta thấy được sự vận động, biến đổi cũng như
lý giải được quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó và (iii). Nghiên
cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn, nghĩa là khi xem xét sự vật,
hiện tượng cần phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời, phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
- Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người
Việc áp dụng lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người giúp tác giả luận văn nhận
diện được rõ những sắc thái riêng trong hôn nhân của nhóm H’mơng Đen ở xã Tà
Xùa. Lý thuyết này chỉ rõ rằng: Bản sắc tộc người là tổng thể những yếu tố vật chất
và tinh thần mang tính đặc trưng và đặc thù của một tộc người, giúp phân biệt tộc
người này và tộc người khác, và giữa các nhóm khác nhau của cùng một tộc người.

Bản sắc tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử, gắn liền với hoàn cảnh

16


kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên của tộc người, được bảo lưu lâu dài.
- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa
Lý thuyết này chỉ ra rằng: sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn
hóa khác nhau và hậu quả của sự tiếp xúc đó là sự thay đổi hay biến đổi của một số
loại hình văn hóa ở cả hai nền văn hóa. Theo đó, giao lưu tiếp biến văn hóa là q
trình trong đó một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng bởi một nền văn hóa khác
bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng. Đó là sự trao đổi những đặc tính văn hóa
nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Tiếp biến văn hóa cịn
được hiểu là q trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn
hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng trở nên giống nhau hơn. Lý
thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa cho thấy biến đổi là q trình tất yếu của mọi
sự vật và hiện tượng, trong đó bao gồm cả văn hóa tộc người nói chung và hơn nhân
nói riêng.
Ngày nay, dưới sự tác động của q trình phát triển, tồn cầu hóa và xu
hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ thì sự giao lưu, biến đổi văn hóa của các tộc
người, trong đó có hơn nhân của nhóm H’mơng Đen là khơng tránh khỏi. Do đó,
khi nghiên cứu văn hóa tộc người, trong đó có các quan niệm, nguyên tắc, đặc điểm
và các nghi lễ trong hơn nhân của nhóm H’mơng Đen nơi đây, tác giả luận văn
không thể chỉ xem xét vấn đề này một cách biệt lập hay trong trạng thái tĩnh, mà
luôn đặt chúng trong trạng thái động, trong quá trình biến đổi, tiếp biến.
1.2. Khái quát về địa bàn và tộc người nghiên cứu
1.2.1. Đôi nét về địa bàn nghiên cứu
- Huyện Bắc Yên: Bắc Yên là một huyện vùng cao nằm ở phía Đơng Bắc của
tỉnh Sơn La, cách Thành phố Sơn La 100 km về phía Đơng Bắc, tọa độ địa lý điểm
trung tâm là 21013’23” độ vĩ bắc và 104022’09” độ kinh đơng, có độ cao trung bình

từ 1.000m -1.400m so với mặt nước biển, diện tích tự nhiên là 1.103,71 km2, phía
Bắc và Tây Bắc giáp huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái và huyện Mường La tỉnh Sơn
La; phía Đơng giáp huyện Phù n; phía Nam và Đơng Nam giáp huyện Mộc Châu
và n Châu; phía Tây và Tây Nam giáp huyện Mai Sơn [38].

17


Trước khi thành lập huyện (1964), phần lớn đất đai và cư dân Bắc Yên thuộc
huyện Phù Yên và một số xã thuộc huyện Yên Châu (tỉnh Sơn La) [2, tr.11]. Ngày
27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa (khóa V), kì họp thứ hai
quyết định bỏ cấp khu (khu tự trị) trong hệ thống đơn vị hành chính, hợp nhất tỉnh
Yên Bái, Lào Cai và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, chuyển huyện Bắc Yên,
Phù Yên (thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ) về tỉnh Sơn La [2, tr.13].
Đến ngày 16/1/1979, theo Quyết định số 18-CP của Hội đồng Chính phủ, xã
Phiêng Ban của huyện Bắc Yên chia thành 2 xã: xã Hồng Ngài và xã Phiêng Ban.
Ngày 13/3/1979, theo Quyết định số 105-CP của Hội đồng Chính phủ, chuyển tăng
cường các xã Mường Khoa, Tạ Khoa, Mường Sại, Phiêng Côn của huyện Yên Châu
về huyện Bắc Yên. Ngày 7/9/1999, thành lập thị trấn huyện Bắc Yên [2, tr.14]. Đến
nay, trải qua nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính, huyện Bắc n gồm có 16 xã, thị
trấn, 152 bản, tiểu khu, trong đó có 111 bản đặc biệt khó khăn. Dân số trên 65.000
người với 7 dân tộc anh em cùng chung sống (Thái, Mường, H’mông, Dao, Kinh,
Tày, Khơ-mú), trong đó đơng nhất là dân tộc H’mơng chiếm 42,7% [38]. Người
H’mông huyện Bắc Yên gồm các ngành H’mông trắng (H’mông Đơ), H’mông Hoa
(H’mông Lềnh), H’mông đen (H’mông Đu) và H’mông đỏ (H’mông Si), phân bố
rộng rãi ở 13 xã, 63 bản trên địa bàn huyện, trong đó tập trung đông nhất ở khu vực
vùng cao gồm các xã Tà Xùa, Háng Đồng, Làng Chếu, Xím Vàng, Hang Chú,
Chim Vàn.
- Xã Tà Xùa: Tà Xùa là xã vùng cao cịn nhiều khó khăn của huyện Bắc n,
cách trung tâm huyện 14,5 km. Phía Bắc giáp xã Bản Mù huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên

Bái; phía Nam giáp xã Phiêng Ban; phía Đơng giáp xã Suối Tọ và xã Suối Bau
huyện Phù Yên; phía Tây giáp xã Làng Chếu và xã Xím Vàng [3]. Tổng diện tích tự
nhiên của xã là 4.138,61 ha, trong đó đất nơng nghiệp có 2.457,71 ha, chiếm 59,4%.
Địa hình phức tạp chủ yếu là đồi, núi... Hiện nay, xã Tà Xùa có 8 bản gồm: Bản Tà
Xùa A, Bản Tà Xùa C, Bản Khe Cải, Bản Mống Vàng, Bản Chung Trinh, Bản Bẹ,
Bản Trò A và Bản Trò B.

18


Năm 2017, tồn xã có 501 hộ, 3.049 nhân khẩu, thành phần dân tộc chủ yếu
là dân tộc H’mông chiếm 99,57% (trong đó người H’mơng Đen chiếm 48,4%), cịn
lại người Kinh chiếm 0,43%.
Xã Tà Xùa hiện có duy nhất trục đường tỉnh lộ 112 chạy qua. Tỉnh lộ 112
được nối với quốc lộ 37 từ thị trấn Bắc Yên qua các xã Phiêng Ban - Tà Xùa - Làng
Chếu - Xím Vàng - Hang Chú (huyện Bắc Yên), đồng thời mở đến thị trấn Trạm
Tấu và thị xã Nghĩa Lộ (tỉnh Yên Bái). Bởi vậy, đây là đầu mối giao thông quan
trọng giữa xã Tà Xùa với các địa phương trong và ngoài huyện, tỉnh.
Bảng 1.1. Thống kê nhân khẩu, dân tộc xã Tà Xùa năm 2017
Tổng số
STT

Tên bản

1

DT Hmông

DT Kinh


DT khác

Hộ

Khẩu

Hộ

Khẩu

Hộ

Khẩu

Hộ

Khẩu

Tà Xùa A

108

656

104

643

4


13

0

0

2

Tà Xùa C

73

448

73

448

0

0

0

0

3

Mống Vàng


24

137

24

137

0

0

0

0

4

Chung Trinh

47

254

47

254

0


0

0

0

5

Trò A

120

766

120

766

0

0

0

0

6

Trò B


51

356

51

356

0

0

0

0

7

Bản Bẹ

54

372

54

372

0


0

0

0

8

Bản Khe Cải

24

156

24

156

0

0

0

0

501

3,049


497

3,036

4

13

0

0

Tổng số

Nguồn: Tổng hợp theo số liệu thống kê dân số của công an xã Tà Xùa năm 2017
+ Giáo dục và đào tạo
Công tác giáo dục đào tạo được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Năm học
2017 - 2018 xã có 3 trường, gồm 3 cấp học: với 78 cán bộ, giáo viên và 948 học
sinh, trong đó: Trường THCS xã có 202 học sinh, 21 cán bộ, giáo viên; trường Tiểu
học bán trú có 455 học sinh, 35 cán bộ, giáo viên; trường Mầm non có 291 cháu, 22
cán bộ, giáo viên. Trong năm học 2017 - 2018 tỷ lệ học sinh chuyển lớp Tiểu học
đạt 100%; THCS đạt 100 %. Số học sinh không huy động được ra lớp theo kế hoạch
là 22 em trong đó: Trường THCS là 12 em, trường Tiểu học là 9 em, trường Mầm

19


Non là 01 em.
Các chế độ chính sách đối với học sinh như hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ tiền
ăn cho học sinh bán trú được thực thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Về việc nấu ăn

cho học sinh bán trú đã được các đơn vị trường tổ chức thực hiện nghiêm túc theo
quy định, đảm bảo khẩu phần ăn, chế độ dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
+ Y tế, Dân số - KHHGĐ
UBND xã Tà Xùa đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác khám, cấp phát thuốc cho
nhân dân. Đến nay cơ sở vật chất và cán bộ làm công tác y tế xã đã cơ bản đủ về số
lượng và đảm bảo về chất lượng. Hiện nay trạm y tế xã đã có 07 cán bộ, nhân viên,
trong đó có: 01 Bác sĩ, 02 Y sĩ, 01 nữ hộ sinh, 03 điều dưỡng.
Tổng số khám cấp phát thuốc năm 2017 là 1.223 lượt người. Trong đó điều
trị nội trú 04, ngoại trú là 1.190 người, chuyển tuyến là 36 người, tiêm chủng trẻ em
là 100 trẻ, tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ là 78 người.
Công tác Dân số - KHHGĐ được quan tâm thực hiện góp phần vào việc làm
giảm tỷ lệ sinh đẻ trong năm 2017. Tuy nhiên tình trạng sinh đẻ quá kế hoạch vẫn
còn xảy ra ở hầu hết các bản trên địa bàn xã.
+ Văn hóa - Thể thao và du lịch
Công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước được tăng cường. Các cấp chính quyền cũng chú trọng tổ chức các hoạt
động chào mừng các ngày lễ như: Ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày thành lập Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; tiếp tục duy
trì phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc Hmơng...
và tiếp tục triển khai phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở”. Tuy nhiên trong q trình thực hiện vẫn cịn tồn tại hạn chế đó là một bộ
phận nhân dân chưa chấp hành tốt chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước như:
vi phạm hương ước, quy ước của xã, bản đề ra, vi phạm Luật hơn nhân và gia đình,
chính sách dân số...
Các hoạt động du lịch trên địa bàn xã cũng đang được xúc tiến để thu hút
khách du lịch đến tham quan, khám phá. Năm 2017, trên địa bàn xã đã tiếp nhận

20



2.729 lượt khách du lịch với các hoạt động chủ yếu là “săn mây” và thăm cây chè
cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
Về cơ bản, các hoạt động du lịch, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán đã được
triển khai, tuy nhiên thu nhập chính của người dân xã Tà Xùa chủ yếu vẫn từ hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn rất cao. Năm 2017,
theo rà sát của UBND xã, số hộ cận nghèo trong toàn xã là 118 hộ (chiếm 23,6%)
và hộ nghèo là 252 hộ (chiếm 50,3%). Trong những năm gần đây, thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới, hệ thống điện - đường trường - trạm của xã đã từng bước được xây dựng theo hướng kiên cố hóa nhưng
kết quả đạt được chưa cao. Tính đến cuối năm 2017, xã đã thực hiện và hồn thành
được 6/19 tiêu chí về xây dựng nơng thơn mới. Mặc dù vậy, đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào nơi đây vẫn cịn nhiều khó khăn. Nhiều vấn đề xã hội còn
tồn tại như: Chất lượng giáo dục trên địa bàn xã đã có nhiều chuyển biến tích cực
nhưng tỷ lệ học sinh khơng ra lớp ở các cấp học vẫn còn cao, tỷ lệ học sinh nữ bỏ
học vẫn còn nhiều; số lượng lao động nơng thơn tham gia các lớp đào tạo nghề vẫn
cịn hạn chế; tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội vẫn cịn tiềm ẩn
những yếu tố gây mất ổn định; tình hình học truyền đạo trái phép, tệ nạn ma tuý,
trộm cắp, tranh chấp đất đai vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp.
1.3. Khát quát về người H’mông Đen
1.3.1. Tên gọi và lịch sử cư trú
Người H’mơng ở Việt Nam có nhiều nhóm khác nhau, trong đó nhóm
H’mơng Đen là một bộ phận quan trọng. Về tộc danh của tộc người này hiện vẫn
tồn tạin nhiều ý kiến khác nhau. Phía các cơ quan nghiên cứu như Học viện Khoa
học xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam thường sử dụng tên gọi
Hmơng trong các cơng trình nghiên cứu. Phía Ủy ban dân tộc và một số phương
tiện thông tin truyền thơng thường sử dụng tộc danh Mơng. Ngồi ra, H’mông cũng
là tộc danh được sử dụng. Bởi vậy trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn sử
dụng tộc danh H’mông là tên gọi thống nhất.

21



Nhóm H’mơng Đen ở xã Tà Xùa có tên tự gọi là người H’mơng Đu. Nhóm
H’mơng Đen chuyển cư đến xã Tà Xùa tương đối muộn, nên trước đây chủ yếu
quần tụ thành từng bản nhỏ. Hiện nay, họ sống xen lẫn với nhóm H’mơng Hoa, quy
mơ bản cũng lớn hơn nhiều so với trước. Từ năm 2016, khi các hoạt động du lịch
được xúc tiến, ban đầu từ một số hộ người Kinh từ các địa phương lân cận chuyển
đến sinh sống và buôn bán dọc theo tỉnh lộ 112, chủ yếu là địa bàn thuộc bản Tà
Xùa A, dần dần một số hộ gia đình người Hmơng Đen cũng bắt đầu tham gia hoạt
động du lịch như mở nhà nghỉ homestay, dịch vụ ăn uống, may và cho thuê trang
phục dân tộc... từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn.
Theo các kết quả nghiên cứu đã được công bố, vào giai đoạn thứ ba cách
ngày nay chừng 150 năm (khoảng 6 - 7 đời người), người H’mông tiếp tục vào Việt
Nam qua Phong Thổ (Lai Châu), Xi Ma Cai và Mường Khương (Lào Cai), sau đó
một bộ phận đi sâu vào vùng Tây Bắc, đến Tủa Chùa, Tuần Giáo (Lai Châu) và
Thuận Châu, Sông Mã (Sơn La). Một bộ phận khác từ Mù Cang Chải di chuyển
sang Bắc Yên, Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La) [27, tr.28].
Kết quả nghiên cứu điền dã tại địa phương của tác giả cũng cho thấy người
H’mông nói chung và người H’mơng Đen ở xã Tà Xùa nói riêng chủ yếu di cư từ
các huyện Mù Cang Chải và Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái đến vào khoảng cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX. Cho đến nay, người H’mông Đen nơi đây vẫn giữ mối liên
hệ mật thiết với cộng đồng người H’mông ở 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải
(Yên Bái) qua hôn nhân, quan hệ dịng họ... vốn đã có từ lâu đời.
Ban đầu, khi mới di cư đến Tà Xùa, họ sống quần cư theo từng dòng họ hoặc
một vài dòng họ thuộc cùng ngành H’mông Đen tại các bản: Tà Xùa A, Tà Xùa B,
Tà Xùa C tương đối độc lập, khép kín. Về sau, khi dân số ngày càng tăng lên, họ bắt
đầu khai phá thêm các vùng đất mới và hình thành thêm các bản Chung Trinh,
Mống Vàng, đồng thời sống xen kẽ với các ngành H’mơng khác, hình thành các bản
có nhiều dịng họ của nhiều ngành H’mơng sống quần cư. Trong q trình đó, vào
những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, một bộ phận người H’mông Đen vốn
định cư tại bản Tà Xùa B do hồn cảnh kinh tế khó khăn đã di cư đi tìm vùng đất


22


mới để sinh sống. Trong đó, một phần dân cư di đến xã Phiêng Cơn, huyện Bắc
n, một nửa cịn lại di đến ba xã Tân Xuân, Xuân Nha và Chiềng Xuân, huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường và
chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực nơng thơn miền núi
của nhà nước, điều kiện kinh tế và mức sống của người H’mông Đen từng bước
được nâng cao, phần lớn các hộ gia đình đều mua được xe máy làm phương tiện đi
lại và vận chuyển hàng hóa, nơng sản. Nhờ thế, họ có cơ hội đi xa hơn phạm vi
huyện Bắc Yên, tiếp xúc và học hỏi được nhiều điều mới lạ từ những cộng đồng dân
tộc khác nhau. Một số thanh niên cịn có cơ hội sinh sống, học tập và làm việc ở các
đô thị lớn như thành phố Sơn La, thủ đô Hà Nội… Cuộc sống đô thị hiện đại bắt
đầu ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức và thói quen của họ, từ đó tác động không nhỏ
đến đời sống cộng đồng, cũng như kết cấu xã hội, văn hóa truyền thống của người
H’mơng Đen trong đó có yếu tố hơn nhân.
1.3.2. Đời sống kinh tế
Sinh kế truyền thống của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa chủ yếu là trồng
trọt, chăn nuôi và khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên. Trước đây, người H’mông
Đen thường trồng lúa, ngô, sắn trên nương. Giống lúa họ thường sử dụng là các
giống địa phương, năng suất thấp, chủ yếu được sử dụng để phục vụ cho nhu cầu ăn
uống hàng ngày và các dịp lễ lớn của gia đình, dịng họ như cưới hỏi, tang ma, lễ
tết... Ruộng nước cũng được sử dụng trong lao động sản xuất nhưng diện tích khơng
nhiều. Đặc biệt thời kì trước Đổi mới, đối với vùng đồng bào người H’mông ở Bắc
n nói chung và người H’mơng Đen ở xã Tà Xùa nói riêng, việc trồng thuốc phiện
vẫn diễn ra phổ biến. Hầu hết các hộ gia đình ở đây đều trồng thuốc phiện. Thuốc
phiện cho nguồn lợi lớn, do vậy có thể nói trước đây, thu nhập chính của người dân
là từ việc trồng và bán thuốc phiện. Cho đến những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ

XX, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước phá bỏ cây thuốc phiện
chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng. Ở Tà Xùa, đồng bào H’mông từng bước chặt
bỏ cây thuốc phiện và chuyển sang trồng chè có sự hỗ trợ giống và kỹ thuật của nhà

23


nước. Từ khoảng năm 2005 trở lại đây, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng được đẩy
mạnh. Các giống cây trồng địa phương cho năng suất thấp được thay thế bằng các
giống lai do nhà nước cung cấp cho năng suất cao. Từ đó, tình trạng đói ăn lúc giáp
hạt của đồng bào đã giảm đáng kể. Cho đến nay, người dân địa phương chỉ canh tác
ruộng nước 1 vụ trong năm (từ tháng 4 đến tháng 10) nhưng vẫn đủ ăn thậm chí có
những hộ cịn có dư để bán. Theo lời ông Mùa A Dao - nguyên Chủ tịch Hội nông
dân xã Tà Xùa cho biết: Hiện nay khoảng 80% số hộ nông dân trong xã chỉ làm
ruộng nước là đã đủ thóc để ăn trong một năm, cịn lại 20% thì vẫn phải làm thêm
lúa nương do diện tích ruộng nước ít. Ngơ, sắn vẫn được trồng trên nương chủ yếu
để phục vụ chăn nuôi gia súc gia cầm.
Bên cạnh việc chuyển đổi các giống lúa, ngô, sắn,... hiện nay người dân địa
phương còn trồng thêm cây dong giềng ở trên nương và vườn quanh nhà. Dong
giềng phần lớn được bán cho lái buôn nhằm tăng thêm thu nhập cho người dân, mặt
khác người ta cũng giữ lại một phần để dùng làm thức ăn trong chăn ni thay thế
cho ngơ, sắn những khi cần thiết.
Hình thức khai thác các nguồn lợi tự nhiên hiện nay vẫn được người dân địa
phương duy trì. Người H’mơng Đen rất ít trồng rau. Nếu có cũng chỉ trồng xung
quanh nhà với diện tích khơng đang kể, chủ yếu trồng rau su su và rau cải mèo. Bởi
vậy, khi rảnh rỗi họ thường tranh thủ vào rừng hái măng và một số loại rau dại phục
vụ nhu cầu gia đình. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trường giao đất giao rừng của nhà
nước, mỗi hộ gia đình người H’mơng Đen ở xã Tà Xùa đều được giao quản lí một
phần đất rừng. Trên phần đất đó, người ta có quyền khai thác gỗ, củi cũng như trồng
các loại cây thân gỗ như cây sa mu, pơ mu... tùy điều kiện gia đình. Chính sách này

một phần giúp địa phương giữ được rừng tránh tình trạng đất trống đồi trọc, mặt
khác mỗi hộ gia đình đều có được quyền và nghĩa vụ trên phần đất rừng được giao
vì vậy ý thức bảo vệ rừng của người dân cũng tăng lên. Trong những năm gần đây
tình trạng đốt rừng làm nương rẫy cũng khơng cịn diễn ra.
Đối với cây cơng nghiệp, người H’mơng Đen ở xã Tà Xùa chủ yếu trồng
trồng chè. Chè Tà Xùa đã trở thành một loại đặc sản hiện đang mang lại nguồn thu

24


nhập chính cho người dân địa phương nói chung và người H’mơng Đen nói riêng.
Từ lâu Tà Xùa đã nổi tiếng với chè cổ thụ được trồng cách đây trên dưới 200 năm.
Trên cơ sở đó, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phá bỏ thuốc phiện thay
vào đó cây chè được chọn làm cây cơng nghiệp mũi nhọn để phát triển nông nghiệp
của địa phương. Hiện nay, tồn xã Tà Xùa có tổng diện tích 138,2 ha chè đang cho
thu hoạch. Hầu hết mỗi hộ gia đình đều trồng chè. Hộ ít cũng có khoảng 1 ha, hộ
nhiều có thể trồng được 5-7 ha. Trước đây người ta sao chè thủ công bằng những
chiếc chảo to trên bếp lửa. Giờ đây, hầu hết các hộ dân làm chè đều đã mua máy sao
chè. Việc đưa máy móc vào chế biến chè đã góp phần giảm tải sức lao động của
người phụ nữ, đồng thời chè sao chín đều hơn, được nước hơn... Từ đó giá chè cũng
tăng lên đáng kể, góp phần nâng cao đời sống kinh tế của đồng bào. Hiện nay,
người H’mông không chỉ bán chè ở chợ huyện hay đợi lái buôn lên bản thu mua,
với sự phát triển của kinh tế, việc giao lưu được mở rộng, một số người dân đã biết
liên lạc và tạo mối làm ăn với các thương lái ở dưới xuôi đưa đặc sản chè Tà Xùa
đến gần hơn với mọi miền của tổ quốc chứ khơng cịn bó hẹp tiêu thụ trong địa bản
huyện Bắc Yên hoặc tỉnh Sơn La như trước.
Chăn nuôi là hoạt động kinh tế nông nghiệp quan trọng đối với người
H’mông Đen. Do điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn, đời sống của người dân cịn
khép kín theo lối tự cấp tự túc, do đó, ở Tà Xùa, người ta thường ni trâu, bị làm
sức khéo, ni lợn, gà để phục vụ nhu cầu thực phẩm hàng ngày của từng hộ gia

đình, đồng thời cũng là nguồn thực phẩm dự trữ cho những dịp lễ tết của gia đình,
dịng họ. Hiện nay trong sản xuất nông nghiệp, người H’mông Đen vẫn chủ yếu sức
kéo của trâu bị. Việc sử dụng máy móc trong cày bừa, làm đất vẫn cịn rất ít. Nếu
có cũng chỉ sử dụng để cày đất trồng chè với diện tích lớn.
Trước đây, hầu hết các hộ người H’mơng đều dành một phần đất nương tốt
nhất của gia đình để trồng lanh làm trang phục. Người H’mông quan niệm rằng, khi
chết phải mặc váy áo được làm từ vải lanh thì ơng bà tổ tiên mới nhận ra họ vì vậy
trồng lanh dệt vải đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người H’mơng khơng
chỉ có giá trị về mặt thực tế mà cịn có ý nghĩa quan trọng về mặt tâm linh. Tuy

25


×