Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.73 MB, 103 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN
Ở XÃ TÀ XÙA, HUYỆN BẮC YÊN, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN
Ở XÃ TÀ XÙA, HUYỆN BẮC YÊN, TỈNH SƠN LA

Ngành: Dân tộc học
Mã số: 8 31 03 10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VI VĂN AN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ÐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan. Nếu sai tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Huyền

i


LỜI CẢM ƠN

Luận văn hoàn thành theo chương trình đào tạo cao học tại Học viện Khoa
học xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hoàn thành luận văn thạc sĩ
này, tôi đã nhận được sự quan tâm của các thầy, cô giáo thuộc Khoa Dân tộc học và
Nhân học - Học viện Khoa học xã hội, các thầy, cô giáo thuộc Viện Dân tộc học,
Ban lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tây Bắc - Trường Ðại học
Tây Bắc nơi tôi công tác. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến sự giúp đỡ
quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Vi Văn An - Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam đã trực tiếp chỉ dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên,
ủng hộ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa
học và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2019

Tác giả

Nguyễn Thị Huyền

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI NGHIÊN
CỨU ..........................................................................................................................14
1.1. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................14
1.2. Khái quát về địa bàn và tộc người nghiên cứu ...................................................17
1.3. Khát quát về người H’mông Đen .......................................................................21
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN Ở XÃ TÀ
XÙA ..........................................................................................................................32
2.1. Những vấn đề chung về hôn nhân ......................................................................32
2.2. Chu trình của một đám cưới ...............................................................................40
Chương 3. BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN TỪ NĂM
1998 ĐẾN NAY ........................................................................................................56
3.1. Các khía cạnh biến đổi .......................................................................................56
3.2. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của hôn nhân .......................................66
3.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân ...............................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
PHỤ LỤC

iii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT THƯỜNG

1

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

2

PVS

Phỏng vấn sâu

3

THCS

Trung học cơ sở

4

UBND


Ủy ban nhân dân

5

Tr

Trang

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thống kê nhân khẩu, dân tộc xã Tà Xùa năm 2017 ........................... 19
Bảng 3.1. Số liệu thống kê tình trạng tảo hôn trên địa bàn xã Tà Xùa từ 2009 2018 ................................................................................................................. 60
Bảng 3.2. Số liệu đăng kí kết hôn của xã Tà Xùa từ 2008 - 2018 ............................60

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi dân tộc. Nó không chỉ
là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong chu kì đời người đối với cá
nhân, đối với gia đình và dòng họ; mà còn phản ánh rõ đặc trưng văn hóa tộc người.
Hôn nhân gắn liền với nhiều nghi lễ, phong tục và chứa đựng nhiều sắc thái văn hoá
của mỗi dân tộc. Ngoài nhằm duy trì nòi giống, đánh dấu sự chuyển đổi và trưởng
thành của thành viên trong gia đình, hôn nhân chính là nền tảng để duy trì, củng cố
và phát triển gia đình. Chính vì thế việc nghiên cứu hôn nhân có một tầm quan
trọng đặc biệt, giúp chúng ta nhận thức được tính đa dạng của vấn đề. Bởi vậy, tập
quán hôn nhân đã trở thành như một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt

giữa tộc người này với tộc người khác.
Trong các công trình nghiên cứu về người H’mông, hôn nhân cũng là lĩnh
vực luôn được đề cập tới một cách khái quát hoặc khá chi tiết bằng các miêu tả về
các khía cạnh nội hàm. Các công trình mang tính tổng hợp thường đề cập tới tất cả
các lĩnh vực truyền thống, nhất là lĩnh vực thiết chế xã hội, trong đó có dòng họ,
hôn nhân và cưới xin. Tuy nhiên, nghiên cứu một cách có hệ thống chuyên sâu
riêng về hôn nhân của người người H’mông thì còn khiêm tốn, mà thường liên quan
đến cả lĩnh vực cưới xin hay gia đình.
Ở tỉnh Sơn La, dân tộc H’mông đứng thứ 3 về dân số, chiếm 13% tổng dân
số toàn tỉnh (sau người Thái và người Kinh). Họ cư trú tập trung ở các huyện Mộc
Châu, Thuận Châu, Yên Châu, Bắc Yên. Cho đến nay, các nghiên cứu về người
H’mông ở tỉnh này cũng chủ yếu liên quan đến lĩnh vực xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo
hay lễ hội nói chung. Tại xã Tà Xùa - một xã vùng cao của huyện Bắc Yên, người
H’mông chiếm tới 99,57% dân số, gồm hai nhóm H’mông Đen và H’mông Hoa cư
trú. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hai nhóm H’mông này đến nay vẫn còn rất khiêm
tốn. Vì thế, thông qua nghiên cứu về hôn nhân và cưới xin, chúng ta hiểu rõ hơn sự
đa dạng văn hóa, sắc thái địa phương của người H’mông nói chung; đồng thời nhận
diện được sự tương đồng và nét khác biệt giữa hai nhóm H’mông ở địa phương này.

1


Ngày nay dưới tác động và ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và hội
nhập hóa đang diễn ra mạnh mẽ, để thích ứng được với điều kiện hoàn cảnh mới,
người H’mông xã Tà Xùa đã có những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế văn hóa - xã hội, trong đó vấn đề hôn nhân cũng có những thay đổi rõ nét. Nhiều lễ
nghi, thủ tục rườm rà, tốn kém trong đám cưới được lược bỏ, các quan niệm về hôn
nhân, độ tuổi kết hôn, thủ tục đám cưới cũng có nhiều khác biệt so với trước kia.
Những thay đổi này một mặt làm phong phú thêm đời sống văn hóa tộc người, mặt
khác đó cũng chính là những nhân tố làm thay đổi các giá trị văn hóa vốn có của
người H’mông. Bởi vậy, nghiên cứu hôn nhân của nhóm H’mông Đen ở xã Tà Xùa

còn nhằm góp phần làm sáng rõ thêm vấn đề văn hóa tộc người hiện nay. Bên cạnh
đó, kết quả nghiên cứu cũng làm cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý có những chủ
trương, chính sách cụ thể trong việc bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc tộc người,
góp phần thực hiện hiệu quả Luật Hôn nhân và Gia đình của Nhà nước. Theo đó,
nghiên cứu này còn là hướng đi phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
IX Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về: xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một cán bộ giảng dạy và nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thuộc Trường
Đại học Tây Bắc, tôi có điều kiện tiếp xúc với đồng bào người H’mông xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên trong những chuyến thực tế chuyên môn. Bản thân tôi đã được tham
dự và tham gia nhiều nghi lễ thực hành phong tục tập quán độc đáo, trong đó có hôn
nhân và cưới xin của họ. Mỗi lần như thế, các nghi thức, nghi lễ này luôn lôi cuốn
và thôi thúc tôi tìm hiểu về chúng với mong muốn góp phần nhỏ, giới thiệu với bạn
bè, đồng nghiệp. Vì thế, tôi quyết định chọn đề tài “Hôn nhân hiện nay của người
H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La” làm nội dung nghiên cứu
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Một số nghiên cứu về người H’mông Việt Nam
Là một trong 53 tộc người thiểu số ở Việt Nam, từ lâu người H’mông cũng là
một trong những tộc người dành được sự quan tâm, chú ý đặc biệt của các nghiên

2


cứu khoa học xã hội và Nhân văn, nhất là các nhà Dân tộc học/Nhân học. Vì thế,
bên cạnh các nghiên cứu liên quan tới các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa,
ngôn ngữ, chữ viết, tri thức dân gian, loại hình diễn xướng, dân ca, văn học nghệ
thuật..., thì các nghiên cứu về mảng đề tài hôn nhân và cưới xin của người H’mông
cũng đã được công bố khá nhiều trong các công trình nghiên cứu, bài viết, các đề tài
luận văn, luận án. Đây là những tài liệu quý giá giúp cho tôi tham khảo và kế thừa

trong quá trình hoàn thành luận văn.
Có thể nhắc đến một số công trình nghiên cứu về người H’mông như cuốn
“Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” của tập thể tác giả Viện Dân
tộc học [37] đã giới thiệu những nét khái quát nhất về lịch sử tộc người người
H’mông. Tìm hiểu một cách toàn diện về đời sống kinh tế, quan hệ xã hội, tôn giáo
tín ngưỡng, quan hệ dòng họ và hôn nhân, gia đình.... của người H’mông. Nhìn
chung, tác giả đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan và khái quát nhất trên tất
cả các mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của tộc người H’mông.
Cuốn “Dân tộc Mông ở Việt Nam” của hai tác giả Cư Hòa Vần, Hoàng Nam
[36]. Trong cuốn sách này, hai tác giả đã khảo tả tương đối toàn diện về dân tộc
H’mông, như: địa vực cư trú, nguồn gốc lịch sử, tên gọi, những nhóm người, các
đặc điểm kinh tế, đời sống, quan hệ xã hội và các phong tục tập quán như ma chay,
cưới xin, tập quán sinh đẻ và nuôi con. Cuốn sách này không chỉ cung cấp những
thông tin khái quát về người H’mông ở Việt Nam mà còn là nguồn tài liệu tham
khảo có giá trị, cung cấp nhiều thông tin cho chúng tôi nghiên cứu về hôn nhân của
người H’mông.
Cuốn “Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và hiện
tại”, tác giả Vương Duy Quang [27] đã khái quát về lịch sử tộc người, hoạt động kinh
tế và một phần quan trọng về quan hệ xã hội của người H’mông. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh về gia đình, dòng họ và quan hệ giữa làng và dòng họ trong cộng đồng
người H’mông. Có thể nói, quan hệ dòng họ chính là một trong những nhân tố có ảnh
hưởng lớn đến vấn đề hôn nhân của người H’mông kể cả trong quá khứ và hiện nay.

3


Trong cuốn “Đặc trưng văn hoá và truyền thống cách mạng các dân tộc ở
Kỳ Sơn Nghệ An” của tập thể tác giả Trần Tất Chủng, Phạm Quang Hoan, Cầm
Trọng, Nguyễn Ngọc Thanh [7] tập trung nghiên cứu về 3 dân tộc chính ở huyện Kì
Sơn, tỉnh Nghệ An gồm người Thái, người Khơ-mú và người H’mông. Nội dung về

đặc trưng văn hóa các dân tộc chiếm ½ dung lượng cuốn sách, đã đề cập đến các
mặt về kinh tế truyền thống, văn hóa vật chất, tổ chức xã hội, hôn nhân và gia đình.
Trong đó nghi lễ hôn nhân của người H’mông ở Kì Sơn Nghệ An cũng được mô tả
một cách chi tiết về các bước trong tiến trình hôn nhân.
Cuốn “Văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang” của Trường Lưu và Hùng Đình
Quý [22] và cuốn “Văn hóa người Mông ở Nghệ An” của tác giả Hoàng Xuân
Lương [21] là một trong những khảo tả khá đầy đủ về văn hóa của các nhóm
H’mông Trắng và H’mông Hoa nơi đây. Tuy nhiên, phần hôn nhân và cưới xin
cũng chỉ được trình bày khái quát.
Tương tự, cuốn“Tiếp cận văn hóa Hmông” của hai tác giả Mã A Lềnh, Từ
Ngọc Vụ [19] cũng cung cấp cho chúng ta cái nhìn khái quát, toàn diện về lịch sử
cư trú, tổ chức xã hội - dòng họ và mối quan hệ thân tộc, huyết thống, văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần với những giá trị biểu hiện đặc trưng... trong đó vấn đề
hôn nhân cũng được đề cập đến là được xem là một trong những bước ngoặt trong
chu kì đời người của cộng đồng người H’mông.
Cuốn sách ảnh “Người Hmông ở Việt Nam” của Vũ Quốc Khánh và cộng sự
[18]. Với dung lượng gồm 8 phần đã giới thiệu một cách khái quát về người
H’mông ở Việt Nam với các nội dung cụ thể: Nguồn gốc - lịch sử và sự phân bố
dân cư; Bản làng; Trang phục; Nhà; Ẩm thực; Chợ; Lễ hội. Hiện nay đây được coi
là công trình sách ảnh duy nhất cung cấp cho chúng ta những hiểu biết và cái nhìn
sơ lược nhất về đời sống thực tế người H’mông ở Việt Nam.
Cuốn “Phong tục tập quán một số dân tộc thiểu số” của tập thể các tác giả
Ninh Văn Hiệp, Tuấn Dũng, Hoàng Quyết, Trương Thị Xứng, Bùi Ngọc Quang
[13]. Cuốn sách là tập hợp sưu tầm và giới thiệu về phong tục tập quán của một số
dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó có nội dung về đám

4


cưới và tục sinh đẻ của người H’mông ở Cao Bằng. Nội dung này đã cung cấp cho

tác giả những hiểu biết về các nghi lễ trong đám cưới của người H’mông ở Cao
Bằng, đó sẽ là cơ sở để tác giá có cái nhìn so sánh, đối chiếu với hôn nhân của
người H’mông ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên trong quá trình thực hiện luận văn.
Trong cuốn “Bạo lực trong gia đình người Mông tại vùng núi phía Bắc Việt
Nam”, tác giả Nguyễn Thế Huệ [16] qua nghiên cứu tại 9 thôn/bản thuộc 4 xã của
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai và huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã phân tích, làm rõ
thực trạng và các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình trong cộng đồng người
H’mông. Từ đó đề xuất một số giải pháp về phòng, chống bạo lực gia đình. Qua
phân tích, tác giả cũng chỉ rõ một trong các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình
đó là trình độ nhận thức kém và tình trạng tảo hôn hiện vẫn đang diễn ra trong cộng
đồng tộc người H’mông.
Tác giả Bùi Xuân Trường với “Tác dụng của luật tục với việc quản lí xã hội
ở các dân tộc Thái, Hmông - Tây Bắc Việt Nam” [34]. Cuốn sách đã hệ thống hoá
các tư liệu về luật tục, xác định ảnh hưởng của luật tục đối với xã hội đương thời
của người Thái và H’mông, trong đó có các ảnh hưởng của luật tục đến vấn đề hôn nhân.
Nghiên cứu “Giữ “lí cũ” hay theo “lí mới”? Bản chất của những cách phản
ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành” của
tác giả Nguyễn Văn Thắng [32] đã góp phần làm rõ bản chất của vấn đề giữ “lí cũ”
và theo “lí mới” của người H’mông cũng như ảnh hưởng của những cách phản ứng
khác nhau này của người H’mông tới văn hóa và xã hội của họ, trong đó có những
ảnh hưởng về hôn nhân, gia đình, dòng họ. Đặc biệt với tình hình cải đạo của người
H’mông ở xã Tà Xùa diễn ra ngày càng phổ biến, cuốn sách đã góp phần làm rõ
thêm về sự lựa chọn biến đổi này.
Cuốn “Dân số kế hoạch hóa gia đình người Hmông ở Hòa Bình” của tập thể
các tác giả Viện Dân tộc học gồm PGS.PTS Khổng Diễn và các cộng sự [9] là cuốn
sách song ngữ Việt - H’mông đầu tiên, nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách dân
số kế hoạch hóa gia đình tới đồng bào dân tộc H’mông ở tỉnh Hòa Bình. Dựa trên số
liệu điều tra điền dã thu được tại hai xã Hang Kia và Pà Cò, huyện Mai Châu, cuốn

5



sách đã khái lược về thực trạng kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, trên cơ sở đó đề xuất việc sử dụng kết hợp các
biện pháp phòng tránh thai theo y học hiện đại cùng với các bài thuốc dân gian đã
được người H’mông áp dụng từ xa xưa nhằm đạt mục tiêu giảm tỉ lệ sinh trong cộng
đồng tộc người vốn còn tồn tại nhiều hạn chế về nhận thức và bất bình đẳng xã hội.
Chuyên khảo “Người Hmông ở Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình” của
tác giả Khổng Diễn [8] đã cho chúng ta thấy được bức tranh tổng quát nhất về tình
hình dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa của người H’mông ở Pà Cò,
huyện Mai Châu. Từ đó chỉ ra những khó khăn cơ bản nhất của người H’mông nơi
đây nhằm góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc nói chung và với người
H’mông tỉnh Hòa Bình nói riêng.
Tác giả Đỗ Ngọc Tấn và cộng sự với công trình nghiên cứu “Hôn nhân gia
đình các dân tộc Hmông, Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng” [31] đã đi sâu
phân tích, làm rõ những đặc điểm, thực trạng trong hôn nhân và gia đình của hai
dân tộc H’mông và Dao căn cứ vào số liệu điều tra cụ thể. Tuy nhiên cuốn sách
không nghiên cứu chuyên sâu về một nhóm H’mông nào và cũng chưa phân tích
các nghi lễ diễn ra trong hôn nhân của người H’mông.
Cuốn “Đám cưới của người Hmông Lềnh (Hmông Hoa) ở Lào Cai” của tác
giả Trần Hữu Sơn [29] đã giới thiệu nhiều nghi lễ độc đáo, đặc trưng của tộc người
với các lễ xem tuổi, lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Cuốn sách đã
nghiên cứu về một nhóm địa phương cụ thể là nhóm H’mông Lềnh ở Lào Cai. Đây
là nguồn tư liệu quan trọng cho độc giả khi nghiên cứu về người H’mông ở Lào Cai
nói chung và nhóm tộc người H’mông Lềnh (H’mông Hoa) nói riêng.
Luận văn Thạc sĩ “Hôn nhân của người Hmông Hoa ở xã Pú Luông, huyện
Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc [24] đã tập trung
nghiên cứu, làm rõ sự biến đổi hôn nhân giữa truyền thống và hiện đại của người
H’mông Hoa ở xã Pú Luông, huyện Mù Cang Chải. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên
những vấn đề đang đặt ra trong hôn nhân của người H’mông Hoa hiện nay và kiến

nghị một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người.

6


2.2. Một số nghiên cứu về người H’mông ở tỉnh Sơn La
Nghiên cứu về người H’mông ở tỉnh Sơn La cũng được nhiều nhà nghiên
cứu, học giả trong nước quan tâm với nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực
khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến “Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề
tín ngưỡng tôn giáo hiện nay” của tác giả Thào Xuân Sùng (chủ biên) [30]; Chuyên
khảo“Một số vấn đề về tổ chức xã hội của người Hmông ở Sơn La trước cách mạng
tháng Tám năm 1945” của tác giả Trần Bình [4]; “Tín ngưỡng, tôn giáo người
Hmông ở tỉnh Sơn La” của tác giả Hoàng Bé [5]; “Dòng họ người Hmông Trắng
(quan nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La)”
tác giả Hồ Ly Giang [11]; “Văn hóa lễ hội của người Mông: Truyền thống và biến
đổi” tác giả Nguyễn Hoàng Yến và các cộng sự [40]... trong đó nghiên cứu về hôn
nhân của người H’mông có các nghiên cứu “Truyền thống biến đổi trong quan hệ
dòng họ, hôn nhân của người Hmông Hoa ở Tây Bắc hiện nay” (Nghiên cứu bản
Hua Tạt, xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) của tác giả Nguyễn Thị Oanh
[26]; “Tục cưới xin của người Hmông Trắng ở Thuận Châu, Sơn La (Qua nghiên
cứu tại bản Nậm Giắt, xã Phỏng Lái)” tác giả Dương Hà Hiếu [14],... những công
trình này tuy đã bàn đến hôn nhân của người H’mông nhưng chỉ dừng lại ở việc
miêu tả sơ lược về hôn nhân của người H’mông Hoa và người H’mông Trắng ở một
bản cụ thể của tỉnh Sơn La. Hôn nhân của người H’mông Đen ở huyện Bắc Yên nói
chung và xã Tà Xùa nói riêng cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu nào.
Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, chúng ta còn có thể kể đến
nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác, là những bài nghiên cứu đăng trên
các Tạp chí chuyên ngành như: “Trẻ em và phụ nữ người Hmông, thực trạng và nhu
cầu trợ giúp (Nghiên cứu tại bản Sảng Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang)” của

tác giả Lâm Bá Nam - Phạm Văn Thành [23]; “Ảnh hưởng của du lịch đến một số
thiết chế xã hội của người Hmông ở Sapa” của Trần Hữu Sơn [28]; “Tri thức địa
phương về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em người Hmông ở xã Văn Lăng, huyện
Đồng Văn, tỉnh Thái Nguyên” của Vũ Thị Hồng - Nguyễn Thị Minh Nguyệt [15];

7


“Di dân tự do của người Hmông ở miền núi Thanh Hóa từ 1990 đến nay” của Vũ
Trường Giang [12]; “Lễ lên đồng của người Hmông Trắng ở Tây Bắc” của Khổng
Kim Anh - Đặng Thị Hoa [1]; “Lễ cưới của người Hmông Trắng ở Lào Cai” của
Nguyễn An Châu [6]... cùng hệ thống các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ, khoá
luận tốt nghiệp của cử nhân hiện đang được lưu trữ tại Viện Dân tộc học, thư viện
các trường đại học... Những công trình nghiên cứu này một mặt giúp chúng tôi có
cái nhìn toàn diện và sinh động về dân tộc H’mông - một dân tộc thiểu số với nhiều
nét văn hóa đặc sắc, đa dạng, bên cạnh đó cũng có dịp tìm hiểu sâu hơn về một số
nhóm nhỏ trong dân tộc H’mông từ đó thấy được cái riêng biệt nằm trong cái chung
của cộng đồng người H’mông ; Mặt khác những nghiên cứu trên còn góp phần cung
cấp những luận cứ khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách đề xuất những giải
pháp can thiệp phù hợp nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho
đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa nói riêng
nhằm xóa bỏ các hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa mới lành mạnh, văn minh
nhưng vẫn đảm bảo bản sắc văn hóa truyền thống tộc người.
Tổng quan tài liệu cũng cho thấy mặc dù các công trình nghiên cứu về văn
hóa H’mông tuy đa dạng nhưng nghiên cứu về hôn nhân vẫn là lĩnh vực còn nhiều
khoảng trống, đặc biệt là nghiên cứu về hôn nhân của người H’mông Đen. Các công
trình nghiên cứu chuyên sâu về sự giống và khác nhau giữa các nhóm địa phương
trong tộc người H’mông cũng chưa có. Bởi vậy việc nghiên cứu, tìm ra những đặc
điểm riêng và các xu hướng biến đổi của từng nhóm là cần thiết nhằm đưa ra những
định hướng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người theo

định hướng của Đảng và Nhà nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống các đặc điểm hôn
nhân truyền thống của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, luận văn phác họa bức
tranh văn hóa của người H’mông ở huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La nói chung, nhóm
H’mông Đen nói riêng.

8


- Trong bối cảnh tác động của các điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu và
hội nhập ngày càng sâu rộng, luận văn cũng chỉ ra thực trạng của những khía cạnh
biến đổi, nguyên nhân hay nói cách khác là những tác động dẫn đến sự biến đổi
trong hôn nhân của nhóm H’mông Đen nơi đây.
- Một số vấn đề đặt ra và một số đề xuất khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ các mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Tổng hợp, phân tích các tài liệu thành văn liên quan đến người H’mông nói
chung và hôn nhân người H’mông nói riêng.
- Triển khai các đợt điền dã Dân tộc học để thu thập tài liệu...
- Luận văn tập trung phân tích, lý giải các khía cạnh nội hàm liên quan đến
hôn nhân và lễ cưới gồm: quan niệm, nguyên tắc, tính chất, hình thức...; các bước
thực hành trước và trong lễ cưới của nhóm H’mông Đen nơi đây.
- Chỉ rõ các khía cạnh biến đổi và phân tích, lý giải nguyên nhân của sự biến
đổi trong hôn nhân hiện nay của nhóm H’mông Đen tại điểm nghiên cứu. Trong
chừng mực nào đó, luận văn cũng sẽ cố gắng so sánh với hôn nhân của nhóm

H’mông Hoa tại địa bàn nghiên cứu.
- Thảo luận một số vấn đề đặt ra và các khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La nêu trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người H’mông Đen ở xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Trong đó, nội dung luận văn tập trung phân tích, lý
giải sâu về các đặc điểm trong hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa và
thực trạng trong hôn nhân của người H’mông Đen hiện nay. Cách thực hiện này sẽ

9


làm rõ những biến đổi trong hôn nhân và các yếu tố tác động và cả những vấn đề
đặt ra trong hôn nhân hiện nay ở nhóm H’mông này. Ngoài ra, luận văn có một số
so sánh với hôn nhân của nhóm H’mông Hoa đồng tộc của họ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu hôn nhân của người H’mông, nhóm H’mông Đen ở
xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Về không gian: Địa bàn nghiên cứu chính của luận văn được xác định là bản
Tà Xùa A, Tà Xùa C của xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, nơi người
H’mông Đen tập trung sinh sống đông nhất và lâu đời nhất. Ngoài ra, luận văn còn
khảo sát thêm một số bản khác trên địa bàn xã là nơi sinh sống chủ yếu của người
H’mông Hoa để thấy được những điểm khác biệt trong tập quán hôn nhân của hai
nhóm người H’mông cùng sinh sống trên địa bàn xã.
Về thời gian: Trên phạm vi cả nước, sau khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước (1986), tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội
đã có những chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên do Tà Xùa là một xã vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, giao thông đi lại rất khó khăn, đồng bào người H’mông sống khép kín, ít

giao lưu với bên ngoài, cho nên cho đến trước năm 1998, diện mạo nông thôn của
người H’mông nơi đây chưa thay đổi mạnh mẽ, đời sống người dân tại địa bàn vẫn
hết sức khó khăn. Phải kể từ năm 1998 trở đi, khi Chương trình phát triển kinh tế xã
hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (gọi tắt là Chương
trình 135) được triển khai tại địa phương, thì kinh tế - xã hội của địa phương mới có
sự chuyển biến, đời sống đồng bào H’mông ở xã Tà Xùa mới bắt đầu có những thay
đổi. Giai đoạn 2 của Chương trình 135 (2005 - 2010) đã thực sự tác động mạnh mẽ
đến đời sống người dân. Đặc biệt, hệ thống đường giao thông được đầu tư xây
dựng, việc đi lại thuận tiện hơn từ đó mở ra các cơ hội về làm ăn kinh tế, giao lưu
trao đổi văn hóa, lớp trẻ được đi học, đi làm ở những thành phố lớn và phát triển...
từ đó nhận thức của người dân có sự thay đổi đáng kể so với trước đây. Chính
những yếu tố này là cơ sở và là nguyên nhân dẫn tới nhiều thay đổi sâu rộng trong
đời sống xã hội của người H’mông nơi đây, trong đó có sự thay đổi của hôn nhân.

10


Đây là lý do tác giả lấy mốc trước và sau năm 1998 để phân định giữa truyền thống
và biến đổi về hôn nhân trong luận văn. Đặc biệt, sự thay đổi sâu sắc về nhiều mặt
của đời sống xã hội của H’mông nơi đây, trong đó có hôn nhân bắt đầu từ sau năm
2005 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc
Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn tác giả đã sử dụng các
phương pháp sau đây:

- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu có sẵn
Để tổng hợp và phân tích các tài liệu có sẵn, chúng tôi tiến hành tìm tòi và
đọc các công trình nghiên cứu về người H’mông đã công bố nói chung, nhất là các
công trình, bài viết liên quan đến trực tiếp đến nội dung của đề tài luận văn. Theo
đó, tác giả cũng tiếp cận với một số luận án, luận văn của những người đi trước,
trong đó có đề cập đến hôn nhân và cưới xin của người H’mông. Các tài liệu như
báo cáo, số liệu về dân số, dân tộc, số liệu thống kê liên quan đến dân tộc H’mông ở
huyện, xã cũng được tham khảo, cập nhật.
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực
hiện và hoàn thành luận văn. Theo đó, tác giả đã thực hiện 4 đợt điền dã tại địa bàn
xã Tà Xùa từ tháng 5/2017 đến tháng 12/2018, mỗi đợt điền dã kéo dài ít nhất 5
ngày, dài nhất 10 ngày. Tác giả đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân từ đó
hòa nhập và có những hiểu biết sâu sắc hơn về văn hóa và phong tục tập quán của
đồng bào nơi đây. Các thao tác cơ bản trong phương pháp này bao gồm (i). Quan
sát tham dự được tác giả sử dụng trong suốt quá trình điền dã tại địa phương và đã

11


tham dự tham dự một số đám cưới của người H’mông Đen ở bản Tà Xùa A và C
vào dịp tháng 5/2017 và tháng 12/2018; (ii). Thao tác phỏng vấn sâu với nhiều đối
tượng khác nhau gồm nông dân, giáo viên, cán bộ xã, hưu trí, người buôn bán nhỏ,
chủ homestay... với các độ tuổi, giới tính khác nhau. Trong đó, tác giả tập trung
phỏng vấn với các đối tượng là người cao tuổi, người am hiểu phong tục tập quán,
các ông mối, cô dâu chú rể và bố mẹ chồng cô dâu chú rể và (iii). Ngoài ra, để biết
được ý kiến của họ về những biến đổi trong hôn nhân và cưới xin hiện nay, tác giả
còn tiến hành một số buổi thảo luận nhóm nhỏ với các bạn trẻ gồm những người
được học hành và những người ở nhà lao động sản xuất.
Trong quá trình thu thập tư liệu và tham dự, tác giả cũng sử dụng công cụ bổ

trợ chủ yếu là chụp ảnh và quay video clip nhằm ghi lại những tư liệu thực tế sinh
động về đám cưới của nhóm H’mông Đen tại địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp hồi cố
Đây là phương pháp rất cần thiết và hết sức quan trọng đối với tác giả, bởi
kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế. Theo đó, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi, lắng
nghe và ghi chép lời kể từ những người lớn tuổi, trưởng họ người H’mông Đen...
căn cứ vào tư liệu hồi cố để thiết lập lại lịch sử di cư, lập bản của người H’mông
Đen ở xã Tà Xùa, cũng như ý kiến đánh giá của họ về các khía cạnh biến đổi và
nguyên nhân của sự biến đổi trong hôn nhân của họ.
Ngoài ra, các phương pháp bổ trợ khác như thống kê, phân tích, so sánh đối
chiếu các nguồn thông tin, tư liệu, các số liệu thu thập được cũng được áp dụng
nhằm đưa ra kết quả chính xác nhất trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về hôn nhân của
người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Luận văn cung cấp
một cách đầy đủ và có hệ thống về quan niệm, nguyên tắc, phong tục tập quán và
nghi lễ trong hôn nhân của nhóm H’mông này từ truyền thống đến hiện tại, góp
phần bổ sung tý liệu mới cho ngành Dân tộc học/Nhân học.

12


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cùng với việc trình bày và phân tích những đặc điểm của hôn nhân truyền
thống, luận văn cung cấp tư liệu mới về những thay đổi trong hôn nhân cũng như lễ
cưới, lý giải những nguyên nhân tác động dẫn tới thay đổi của các khía cạnh trong
hôn nhân hiện nay của nhóm H’mông Đen tại địa phương.
Nguồn tư liệu của luận văn góp phần làm cơ sở khoa học trong việc định
hướng và gợi ý cho chính quyền địa phương trong việc xây dựng chính sách về văn

hóa - xã hội bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người H’mông nói chung và
người H’mông xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La nói riêng. Đồng thời góp
phần xây dựng đời sống văn hóa mới của cộng đồng tộc người H’mông trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ trương xây dựng Nông thôn
mới của Nhà nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết và khái quát về tộc người nghiên cứu
Chương 2. Đặc điểm hôn nhân của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Chương 3. Biến đổi trong hôn nhân của người H’mông Đen từ năm 1998
đến nay.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xác định cần làm rõ những
khái niệm cơ bản liên quan đến hôn nhân gồm: hôn nhân, ngoại hôn dòng họ, hôn
nhân hỗn hợp, nghi lễ, truyền thống, biến đổi...
Khái niệm Hôn nhân có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng Việt, hôn nhân được định nghĩa là việc kết hôn giữa nam và nữ… [33,
tr.712]. Còn trong Từ điển Nhân học thì “Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó được
thừa nhận về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm mục
đích duy trì nòi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc nhằm tạo
ra hộ gia đình mới” [35, tr.519].
Trong cuốn “Nhân học - Một quan điểm về tình trạng nhân sinh” của hai tác

giả Emily A. Schulzt và Robert H. Lavenda, khái niệm hôn nhân được giải thích:
“Hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một
người đàn ông và một người đàn bà, là một sự kiện làm biến đổi những thành viên
của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và những
khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi
kèm” [10, tr.342]. Theo hai tác giả này thì, hôn nhân cũng tạo nên tính hợp pháp
của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và
họ hàng bên chồng [10].
Luật Hôn nhân và Gia đình ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014 của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã kết hôn” [20]. Đồng thời tại điều 3, mục 4,5 Luật này cũng nêu rõ:
“Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi lặp lại trong
một thời kì dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng…
Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật

14


này về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”.
Nội hàm hôn nhân bao gồm nhiều yếu tố/khía cạnh như quan niệm, nguyên
tắc, tính chất và hình thức hôn nhân, cư trú sau hôn nhân... vì vậy trong quá trình
thực hiện luận văn, tác giả cũng phải nghiên cứu một số khái niệm khác có liên
quan đến hôn nhân nhằm thể hiện được đặc trưng và bản sắc văn hóa tộc người
H’mông nói chung và người H’mông Đen ở xã Tà Xùa nói riêng.
Nội hôn tộc người: là việc chỉ kết hôn với người trong cùng một dân tộc,
hoặc cùng một nhóm tộc người với mình. Đây là tập quán/xu thế phổ biến của nhiều
tộc người thiểu số trong việc kết hôn trước kia.
Ngoại hôn dòng họ: là khái niệm chỉ được kết hôn với những người ngoài
dòng họ của mình và được quy định bởi tập quán pháp của tộc người. Ở người

H’mông cũng vậy, thông thường, việc kết hôn giữa những người cùng dòng họ bất
kể ở xa hay gần đều bị nghiêm cấm.
Hôn nhân hỗn hợp dân tộc: Khái niệm này dùng để chỉ việc kết hôn giữa hai
người không cùng một tộc người/dân tộc với nhau mà không trái với quy định của
pháp luật. Hôn nhân hỗn hợp là một hiện tượng phổ biến diễn ra trong nền kinh tế
thị trường hiện nay. Bởi vì quá trình tiếp xúc giao lưu văn hoá không chỉ bó hẹp
trong phạm vi một cộng đồng tộc người mà xu hướng sẽ phát triển ra bên ngoài.
Không những thuộc phạm vi quốc gia mà còn giữa quốc gia này với quốc gia khác
trong xu thế toàn cầu hoá như ngày nay.
Nghi lễ hôn nhân: được hiểu là những nghi lễ phải thực hành và tuân theo
trong hôn nhân theo quy định của phong tục, tập quán của mỗi tộc người. Để hợp
thức hóa về hôn nhân, đôi trai gái và gia đình hai bên bắt buộc phải thực hiện một
số nghi lễ theo tập quán tộc người quy định. Nghi lễ hôn nhân được thực hiện nhằm
đảm bảo sự chứng kiến và công nhận của cộng đồng về việc kết hôn của đôi trai gái,
đồng thời bên trong các nghi lễ đều chứa đựng yếu tố tâm linh, liên quan đến đời
sống tín ngưỡng của mỗi tộc người.
Truyền thống: theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, truyền thống là thói
quen được hình thành đã lâu trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ

15


này qua thế hệ khác [33, tr.1055].
Biến đổi là khái niệm chỉ sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều
thay đổi khác với trước [33, tr.64]. Văn hóa nói chung và hôn nhân nói riêng luôn
luôn có sự vận động và biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế - văn hóa để
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
1.1.2. Các lý thuyết tiếp cận
Luận văn vận dụng lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử gồm: (i). Đảm bảo tính khách quan, có nghĩa là

nghiên cứu sự vật hiện tượng như chúng đang tồn tại thực tế, các kết luận phải xuất
phát từ thực tế, không phán đoán chủ quan; để có hiểu biết đúng đắn về sự vật, hiện
tượng phải hướng tới cái bản chất, không hướng tới cái ngẫu nhiên, không ổn định;
(ii). Nghiên cứu sự vật hiện tượng trong sự phát triển. Theo đó, mỗi sự vật, hiện
tượng đều có quá trình nảy sinh, vận động (biến đổi) và phát triển; đều tồn tại trong
một không gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu, cần nhìn nhận sự vật, hiện
tượng trong những giai đoạn cụ thể và trong toàn bộ tiến trình phát triển; cần chú ý
đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm nảy sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực khách
quan và chủ quan. Có như vậy sẽ giúp ta thấy được sự vận động, biến đổi cũng như
lý giải được quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó và (iii). Nghiên
cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn, nghĩa là khi xem xét sự vật,
hiện tượng cần phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời, phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
- Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người
Việc áp dụng lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người giúp tác giả luận văn nhận
diện được rõ những sắc thái riêng trong hôn nhân của nhóm H’mông Đen ở xã Tà
Xùa. Lý thuyết này chỉ rõ rằng: Bản sắc tộc người là tổng thể những yếu tố vật chất
và tinh thần mang tính đặc trưng và đặc thù của một tộc người, giúp phân biệt tộc
người này và tộc người khác, và giữa các nhóm khác nhau của cùng một tộc người.
Bản sắc tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử, gắn liền với hoàn cảnh

16


kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên của tộc người, được bảo lưu lâu dài.
- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa
Lý thuyết này chỉ ra rằng: sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn
hóa khác nhau và hậu quả của sự tiếp xúc đó là sự thay đổi hay biến đổi của một số
loại hình văn hóa ở cả hai nền văn hóa. Theo đó, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá

trình trong đó một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng bởi một nền văn hóa khác
bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng. Đó là sự trao đổi những đặc tính văn hóa
nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Tiếp biến văn hóa còn
được hiểu là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn
hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng trở nên giống nhau hơn. Lý
thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa cho thấy biến đổi là quá trình tất yếu của mọi
sự vật và hiện tượng, trong đó bao gồm cả văn hóa tộc người nói chung và hôn nhân
nói riêng.
Ngày nay, dưới sự tác động của quá trình phát triển, toàn cầu hóa và xu
hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ thì sự giao lưu, biến đổi văn hóa của các tộc
người, trong đó có hôn nhân của nhóm H’mông Đen là không tránh khỏi. Do đó,
khi nghiên cứu văn hóa tộc người, trong đó có các quan niệm, nguyên tắc, đặc điểm
và các nghi lễ trong hôn nhân của nhóm H’mông Đen nơi đây, tác giả luận văn
không thể chỉ xem xét vấn đề này một cách biệt lập hay trong trạng thái tĩnh, mà
luôn đặt chúng trong trạng thái động, trong quá trình biến đổi, tiếp biến.
1.2. Khái quát về địa bàn và tộc người nghiên cứu
1.2.1. Đôi nét về địa bàn nghiên cứu
- Huyện Bắc Yên: Bắc Yên là một huyện vùng cao nằm ở phía Đông Bắc của
tỉnh Sơn La, cách Thành phố Sơn La 100 km về phía Đông Bắc, tọa độ địa lý điểm
trung tâm là 21013’23” độ vĩ bắc và 104022’09” độ kinh đông, có độ cao trung bình
từ 1.000m -1.400m so với mặt nước biển, diện tích tự nhiên là 1.103,71 km2, phía
Bắc và Tây Bắc giáp huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái và huyện Mường La tỉnh Sơn
La; phía Đông giáp huyện Phù Yên; phía Nam và Đông Nam giáp huyện Mộc Châu
và Yên Châu; phía Tây và Tây Nam giáp huyện Mai Sơn [38].

17


Trước khi thành lập huyện (1964), phần lớn đất đai và cư dân Bắc Yên thuộc
huyện Phù Yên và một số xã thuộc huyện Yên Châu (tỉnh Sơn La) [2, tr.11]. Ngày

27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (khóa V), kì họp thứ hai
quyết định bỏ cấp khu (khu tự trị) trong hệ thống đơn vị hành chính, hợp nhất tỉnh
Yên Bái, Lào Cai và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, chuyển huyện Bắc Yên,
Phù Yên (thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ) về tỉnh Sơn La [2, tr.13].
Đến ngày 16/1/1979, theo Quyết định số 18-CP của Hội đồng Chính phủ, xã
Phiêng Ban của huyện Bắc Yên chia thành 2 xã: xã Hồng Ngài và xã Phiêng Ban.
Ngày 13/3/1979, theo Quyết định số 105-CP của Hội đồng Chính phủ, chuyển tăng
cường các xã Mường Khoa, Tạ Khoa, Mường Sại, Phiêng Côn của huyện Yên Châu
về huyện Bắc Yên. Ngày 7/9/1999, thành lập thị trấn huyện Bắc Yên [2, tr.14]. Đến
nay, trải qua nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính, huyện Bắc Yên gồm có 16 xã, thị
trấn, 152 bản, tiểu khu, trong đó có 111 bản đặc biệt khó khăn. Dân số trên 65.000
người với 7 dân tộc anh em cùng chung sống (Thái, Mường, H’mông, Dao, Kinh,
Tày, Khơ-mú), trong đó đông nhất là dân tộc H’mông chiếm 42,7% [38]. Người
H’mông huyện Bắc Yên gồm các ngành H’mông trắng (H’mông Đơ), H’mông Hoa
(H’mông Lềnh), H’mông đen (H’mông Đu) và H’mông đỏ (H’mông Si), phân bố
rộng rãi ở 13 xã, 63 bản trên địa bàn huyện, trong đó tập trung đông nhất ở khu vực
vùng cao gồm các xã Tà Xùa, Háng Đồng, Làng Chếu, Xím Vàng, Hang Chú,
Chim Vàn.
- Xã Tà Xùa: Tà Xùa là xã vùng cao còn nhiều khó khăn của huyện Bắc Yên,
cách trung tâm huyện 14,5 km. Phía Bắc giáp xã Bản Mù huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên
Bái; phía Nam giáp xã Phiêng Ban; phía Đông giáp xã Suối Tọ và xã Suối Bau
huyện Phù Yên; phía Tây giáp xã Làng Chếu và xã Xím Vàng [3]. Tổng diện tích tự
nhiên của xã là 4.138,61 ha, trong đó đất nông nghiệp có 2.457,71 ha, chiếm 59,4%.
Địa hình phức tạp chủ yếu là đồi, núi... Hiện nay, xã Tà Xùa có 8 bản gồm: Bản Tà
Xùa A, Bản Tà Xùa C, Bản Khe Cải, Bản Mống Vàng, Bản Chung Trinh, Bản Bẹ,
Bản Trò A và Bản Trò B.

18



×