Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.92 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 xảy ra vừa qua có mức độ ảnh hưởng nghiêm
trọng đối với hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh
tế? Hậu quả của cuộc khủng hoảng? Bài học nào rút ra sau cuộc khủng? Đây là những câu hỏi
được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế,
những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế.
Với đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam nhóm 3 đi vào tìm hiểu
Các cuộc khủng hoảng kinh tế (tài chính) của các quốc gia trên thế giới đặc biệt là cuộc Khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Từ
đó, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội
nhập kinh tế quốc tế. Vì tính phức tạp của đề tài, bài viết chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào
nhận thức chung về các vấn đề liên quan

Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
1
Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1 Tổng quát:
- Khủng hoảng (Crises, depression, crash): Sự sụp đổ nặng nề của nền kinh tế. Người ta dùng từ
Đại khủng hoảng (Great Crash) để chỉ sự sụp đổ nền kinh tế toàn cầu năm 1929. Hiện nay, một số
người lại dùng từ Great Crash để chỉ cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhiều người cho rằng cuộc suy
thoái hiện nay bắt đầu từ khu vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) cho nên gọi là cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Nhưng nếu tình trạng suy thoái xảy ra trong các lĩnh vực sản xuất khác, làm cho
thất nghiệp tăng cao, sản lượng công nghiệp, nông nghiệp giảm sút thì cuộc khủng hoảng sẽ được
gọi là khủng hoảng kinh tế.
- Về khái niệm khủng hoảng tài chính: có thể hiểu theo các cách khác nhau như sau:
+ Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp
ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
+ Là cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả
của những tài sản khác
+ Hay- khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của các tập
đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.


Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
- Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy
đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
1.2 Các hình thức của khủng hoảng tài chính
* Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của
ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường
nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính
hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên do lo
ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra
khủng hoảng tài chính.
* Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách
của Nhà nước và do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ.
Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành
tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố
định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ, và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó
dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng.
Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ.
Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
2
trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ
mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa
này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ
trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng
chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị
trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá.

* Khủng hoảng tiền tệ
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình, gây khủng hoảng tiền
tệ.
* Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư
không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản
vay đầu tư và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp
không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng
hoảng.
* Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng hoảng.
Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển được mô tả với
nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các trung gian tài chính như các
ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này thực chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập
luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân hàng vì cơ chế tỷ giá cố định không có vai trò
nguyên nhân chính. Nhưng suy cho cùng thì khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tẹ có mối
quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam
kết hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ
của chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ mất khả
năng thanh toán.
Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng chính sự
mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ giá cố định bởi Chính phủ
phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân không tin vào bản tệ nên đã chuyển
sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của Chính phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ
chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Các nhà đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng
của Chính phủ. Cuộc chuyển giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu
thuẫn, trái ngược của Chính phủ.
Mặc dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ nhưng không đúng với
cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã giữ được cân bằng chi tiêu ngân
sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng. Thực ra, một vài mô hình khủng hoảng ở
thế hệ thứ ba tập trung vào vai trò đảm bảo của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư chỉ đơn

thuần đưa thông điệp của mô hình ở thế hệ thứ nhất vào một bộ những mâu thuẫn chính sách thôi.
Thế hệ thứ hai của mô hình khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng kể sau cuộc tấn
công vào đồng tiền chung châu Âu và đồng Pêso của Mêhicô ở đầu thập kỷ 1990. Mô hình này
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
3
xuất phát từ cơ sở không có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính sách trước các cuộc khủng hoảng.
Cơ sở của mô hình là sự tương tác giữa hành vi của Chính phủ và hành vi của khu vực tư nhân dẫn
đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ trạng thái cân bằng
không chịu sự công kích sang trạng thái chịu sự công kích khi có sự chuyển dịch bất ngờ về kỳ
vọng của thị trường.
Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính phủ. Ví dụ,
Chính phủ muốn giữ ổn định giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định theo đuổi chính sách
tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu này với mức giá cố định. Mặt
khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ lệ thất nghiệm hay bơm vốn cho hệ
thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng.
Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flôd và Garber đã điều chỉnh
mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với trường hợp phá sản ngân hàng ở
các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mô tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các
tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng nhất trí trả lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền
dự trữ tương ứng với một đơn vị đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi không có bảo hiểm tiền gửi, các
ngân hàng có thể duy trì kế hoạch ổn định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản
tiền gửi. Flood và Garber cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy
trước của các chính sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ
các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại
phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các tài sản hiện tại vượt
quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập và cuối cùng các NHTM
không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng thanh khoản thì khủng hoảng ngân
hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở những nước có nền kinh tế đóng mà không có sự
hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ không làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW
mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân.

Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh sau cùng cả hai
đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không nhất quán. Tuy nhiên,
khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW còn khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ
yếu tố chi tiêu Chính phủ.
1.3 Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó không thể
thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính
như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những
dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng,
gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ
lạm phát.
Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là những người
theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng,
khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
4
hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên
nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy,
theo họ, sự can thiệp của chính phủ là không cần thết, và thậm chí có hại, vì những doanh nghiệp
đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền
tệ và gây nên lạm phát.
Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu là Kindleberger (1978) và
Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, mà nó bao gồm sự
sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn
giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây sự sụt giảm
mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước.
Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm
tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rất dễ dẫn
đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss

(1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân
hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ
rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay;
tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt này về thông tin (asymmetry of information), hay sự
thiếu minh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng:
Ngân hàng có thể muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro
mất vốn có thể xẩy ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro cao nhất mới
hy vọng có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành công. Ngược lại, nếu đó là
dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vì vậy mà mức sinh
lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì:
- Sẽ có một tỷ lệ lớn hơn những chủ của các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ
vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó,
những doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi
danh sách các ứng viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều nguy hại (adverse selection),
theo Akerlof (1974).
- Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất
dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn
(hoặc có vẻ “quan trọng” hơn, để nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ
có thể giầu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để mặc cho ngân hàng chịu tích tụ
những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách; nếu dự
án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral hazard).
Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional
economics) cho rằng, hoạt động của ngân hàng nói riêng, và hệ thống tài chính nói chung, phải
được giám sát hết sức cẩn trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự an toàn (Aoki, 1991; Mc
Kinnon, 1991).
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
5
Ví dụ, với những dự án có độ rủi ro rất cao (nhưng cũng có thể là những cơ hội đầu tư có tiềm
năng nhất về hiệu quả, chứ không phải đầu cơ), thì cần phải có những quỹ đầu tư đặc biệt nhằm
thẩm định, giám sát, rót vốn ban đầu, và lập cơ chế chia sẻ rủi ro. Chẳng hạn như các quỹ đầu tư

mạo hiểm (vetunture capital funds). Theo Stiglitz-Weiss, do rủi ro chọn lầm và hiểm họa của sự vô
trách nhiệm (adverse selection and moral hazard), hệ thống các ngân hàng kinh doanh bằng cho
vay lấy lãi, phải bị hạn chế, không được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư có độ rủi ro quá cao
này.
Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, và các quỹ đầu tư theo
mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, thì còn cần phải có nhiều tổ chức trung gian khác, làm
chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro
1.4. Sơ lược một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu trong quá khứ:
1.4.1 Đại khủng hoảng năm 1929-1933
Sau chiến tranh thế giới lần 1, Mỹ là nước thu đựoc nhiều lợi nhất.
Vào những năm 1920, Mỹ trở thành nhà băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương thực, sản xuất
đồ dùng cho toàn thế giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần còn lại của thế giới sản
xuất ra. Tất nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ, những nó
không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại để bảo vệ hoạt động kinh doanh của
những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn đề ở chỗ nếu Mỹ không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu
thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác
Châu Âu thậm chí không còn đáp ứng được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ không
thể mua hàng nữa, thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm trong thời gian sau
đó. Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920. Chỉ trong năm
1929, đã có một lượng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu
năm 1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm.
Không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về công ty RCA,
công ty này có cổ phiếu tăng từ 85 lên 420 chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu này chưa từng trả
cổ tức một lần nào. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để
mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư A có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người môi giới
của mình. Nếu anh ta bán cổ phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10
USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là
lợi suất lên đến 3400%. Con số này càng thúc đẩy "cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929,
tổng lượng cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số

này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh không kém, đạt
mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên những niềm tin vô căn
cứ, và nó trái ngườ với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt
nguồn từ sự sợ hãi.
Giá bắt đầu giảm từ tháng chín, nhưng khi đó nhìn chung nhà đầu tư nói chung vẫn rất lạc quan.
Những nhà đầu cơ tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ hai, 21/10/1929, giá bắt đầu giảm nhanh.
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
6
Khối lượng giao dịch lớn khủng khiếp. Nhà đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra rằng
giá bẳt đầu"rơi", chứ không còn tính được giảm bao nhiêu, nhiều người lao ra bán. Điều này làm
cho sự sụp đổ diễn ra nhanh hơn. Giá có ổn định lại một chút vào ngày thứ ba và thứ tư, nhưng cho
đến Ngày thứ Năm Đen Tối, 24/10/1929, mọi thứ đều vỡ tan. Hầu hết những nhà đầu tư lớn đều
mất niềm tin vào thị trường. Tất cả nhà đầu tư đều đồng ý ở một điểm - đã hết tăng rồi. Thị trường
có hồi phục lại một chút vào thứ Sáu và thứ Bảy khi một nhóm các ngân hàng lớn tham gia tham
gia vào với nỗ lực cố gắng chặn lại sự sụp đổ của thị trường. Nhưng vào thứ hai tuần sau, ngày 28,
giá tiếp tục giảm 13%. Ngày hôm sau, Thứ Ba Đen Tối, khối lượng lên đến 16,4 triệu cổ phần đã
được giao dịch. Cổ phiếu giảm liên tục, thường xuyên không có người mua.
Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh hưởng trên toàn thế giới.
Những hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè năm 1929 và đến năm 1933, GDP của Mỹ
giảm hơn 25%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của 1/4 thế kỷ trước đó. Sản lượng công
nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm đến 50%. Nền kinh tế suy thoái liên tục đến năm 1933 thì bắt
đầu cải thiện trong vòng 4 năm cho đến 1937. Sau đó tiếp tục có những giai đoạn điều chỉnh lên
xuống nhưng cho đến 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thoái.
Mức thất nghiệp, không có thống kê chính thức, nhưng được chấp nhận chung là ở vào khoảng
25% vào năm 1933 và duy trì trên 14% vào những năm 1940. Tuy nhiên những con số này vẫn
chưa phản ảnh hết sự thực bởi số lượng người không nhỏ, quá thất vọng, đã không còn động lực đi
kiếm việc và không được tính vào thất nghiệp. Những người này thường về các vùng quê để tự
kiếm sống.
Hệ thống ngân hàng cũng chứng kiến những con số "hoảng loạn" khi người gửi tiền đua nhau đi
rút. Nhiều nhà băng không chịu được sức ép này, một số khác buộc phải sáp nhập, số lượng ngân

hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai đoạn 1929 đến 1933.
Tác động trực tiếp của cuộc đại khủng hoảng có thể chỉ nhằm vào một số vùng và ngành cụ thể,
tuy nhiên tác động gián tiếp của nó - suy thoái, giảm sản lượng, thất nghiệp,... là những tác động
xuất hiện ở tất cả các khu vực, ngành và lĩnh vực. Những người nông dân cũng phải chấp nhận giá
nông sản của họ giảm trung bình còn một nửa.
Cuộc khủng hoảng - sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng trên phạm vi toàn thế
giới và chỉ kết thúc khi người ta bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2. Cuộc khủng hoảng này
được đánh giá là "tai họa tài chính" lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bản thân sự sụp đổ của thị
trường chứng khoán, dù có quy mô lớn, vẫn rất nhỏ so với hậu quả kế tiếp của một thị trường được
mô tả như một "nghĩa địa" và tác động hủy hoại của cuộc khủng hoảng.
1.4.2 Cuộc khủng hoảng tại châu Á:
là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị
trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á,
nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn
thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á.
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
7
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng
này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn
Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.
Điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này là ở tính lây lan nhanh chóng của nó. Không mất nhiều
thời gian từ khi khủng hoảng xảy ra ở Thái Lan vào mùa hè năm 1997 cho tới khi nó nhanh chóng
trở thành một hiện tượng lây lan loàn cầu ở các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á và cả ở những châu
lục khác như Nga và Mỹ Latinh. Tại Thái Lan, khủng hoảng xảy ra khi đồng baht của Thái Lan bị
đổ vỡ sau quyết định thả nổi tỷ giá hối đoái của Chính phủ Thái Lan sau một thời gian dài "neo"
đồng baht với đồng đôla Mỹ để khuyến khích xuất khẩu (do tỷ giá hối đoái ổn định và có lợi cho
các nhà xuất khẩu).
Thời gian trước khi xảy ra khủng hoảng, Thái Lan đã vay nợ nước ngoài rất nhiều với nhiều khoản
đầu tư thiếu hiệu quả trên thị trường bất động sản và tăng trưởng dựa trên những nguồn vốn ngắn
hạn trên thị trường chứng khoán. Dự đoán trước khả năng kinh tế Thái Lan sụp đổ, các nhà đầu tư

ngắn hạn nước ngoài nhanh chóng rút các khoản vốn ra khỏi nước này khiến hệ thống tài chính -
tiền tệ của Thái Lan càng nhanh chóng sụp đổ. Đồng baht mất giá nhanh chóng khiến thu nhập từ
xuất khẩu giảm mạnh trong khi gánh nặng nợ nước ngoài tăng trầm trọng. Các quốc gia khác trong
khu vực cũng chịu ảnh hưởng lây lan khi các nhà đầu tư rút vốn ở các thị trường này, khiến cho thị
trường chứng khoán và tỷ hối đoái đều tụt dốc không phanh, ảnh hưởng nặng nề nhất ngoài Thái
Lan là Indonesia, Hàn Quốc, và trong chừng mực ít hơn là Malaysia, Hong Kong và Philippines.
* Diễn biến chính cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại một số nước Châu Á
- Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan
tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường
chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song
rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm
1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán
Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính
lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị
giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9
tỷ dollar.
- Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã
cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
8
(lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn
một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của

tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị
trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm
hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.
- Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào
Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ.
Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào
thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan
Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng
khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã
giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành
23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào
các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này
và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ
Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001,
chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4
tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã
ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết
dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở
Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
- Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài
khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước
ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư
bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức
đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng

12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm
giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt
7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
- Malaysia
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
9
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia
và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit
là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị
trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính
về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm
xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit
vào quý hai và quý ba năm 1997.[8]
- Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên
độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah
bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế
bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài
chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah
bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho
món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy
mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát
tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ
phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để
tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động.

Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998,
Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời
kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm
đi.
* Hậu quả của cuộc khủng hoảng:
- Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị
trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn
đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị
ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
- Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và
Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay
gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển
mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
10
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar
Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng
này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ
mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600
USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài
chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế
cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.
+ Ý nghĩa
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài
chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn

vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,
nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.
Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng
hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và
Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về
khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài
chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng
hạn như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về
nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ,...
+ Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh
hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu
vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý
kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.
- Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ
chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu
lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997
đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của
mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
- Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa
và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3)
Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng
và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
11
điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các
ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm

được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho
họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của
mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.
- Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu
nợcáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm
của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường
mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với
doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài. của các xí nghiệp, củng cố các
quy định và tiêu chuẩn về
- Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng
thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng
hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn.
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
12
PHẦN II: ĐẠI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008
2.1. Bức tranh cuộc khủng hoảng tài chính sau hơn 1 năm nhìn lại
Nhìn lại sau hơn một năm theo ước tính của IMF, thiệt hại của cuộc khủng hoảng vừa qua đã
lên đến 1000 tỷ USD. Từ lĩnh vực tài chính cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan sang các lĩnh
vực kinh tế.
* Ngược dòng thời gian ta điểm qua diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính như sau:
- Cuộc khủng hoảng có khởi nguồn từ năm 2007;
* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị
quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh
cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu
ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó,
Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút

tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ
5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3
bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều
hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn
Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa
ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.
- Đến năm 2008 sự đổ vỡ, sát nhập, mua lại của hệ thống ngân hàng tài chính thực sự
bùng nổ
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị
trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp
địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số
tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay
cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng
hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla
một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau
khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm
bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
Bài tập nhóm Nhóm 3 – CH K18D
13

×