Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Bài luận văn Đề tài nợ công của Hy Lạp và các giải pháp cho nợ công của Việt Nam qua khủng hoảng nợ công của hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.27 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC A
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NỢ CÔNG 3
1.1Tổng quan về nợ 3
1.1.1Nợ quốc gia và các chủ nợ 3
1.1.2Nợ công 3
1.1.3Nợ tư nhân 4
1.2Chỉ tiêu đánh giá nợ công 4
CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP 7
2.1Bối cảnh diễn ra cuộc khủng hoảng 7
2.1.1Tình hình kinh tế trên thế giới 7
2.1.2Tình hình kinh tế Hy Lạp 7
2.2Nguyên nhân 8
2.2.1Các tác nhân nội địa 8
2.2.1.1 Thâm hụt ngân sách quá lớn 8
2.2.1.2 Tiết kiệm trong nước thấp trong khi vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công
chiếm tỷ trọng lớn 8
2.2.1.3 Sai lầm trong chính sách kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng của Hy Lạp
8
2.2.2Các tác nhân quốc tế 9
2.2.2.1 Việc tiếp cận thị trường vốn khi lãi suất thấp 9
2.2.2.2 Việc tuân thủ luật lệ 9
2.3Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp 10
2.3.1Ảnh hưởng đến quốc gia Hy Lạp 10
2.3.1.1 Uy tín của quốc gia Hy Lạp bị sụt giảm 10
2.3.1.2 Tình hình trong nước bất ổn 10
2.3.1.3 Thanh khoản sụt giảm 11
2.3.1.4 Nguy cơ vỡ nợ cao 12
2.3.2Ảnh hưởng đến EU và thế giới 12
2.4Giải pháp của Hy Lạp 12


2.4.1Giải pháp ngắn hạn 12
2.4.1.1 Sử dụng gói vay cứu trợ của EU, IMF 12
2.4.1.2 Thực hiện các chính sách tài chính khác 13
2.4.2Giải pháp dài hạn 13
2.4.2.1 Cân đối ngân sách nhà nước 13
2.4.2.2 Thực hiện tái cấu trúc nợ 14
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH NỢ
CÔNG Ở VIỆT NAM 15
3.1Thực trạng chính sách nợ công Việt Nam 15
A
3.1.1Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay 15
3.1.2Nợ công ở Việt Nam 15
3.2Các giải pháp cho chính sách nợ công Việt Nam 19
3.2.1Đảm bảo an toàn tài chính trong vay nợ nước ngoài 19
3.2.2Nâng cao hiệu quả hoạt động thu chi nhằm giảm bội chi ngân sách nhà nước 21
3.2.3Giải pháp hạn chế thâm hụt tài khoản vãng lai 22
3.2.4Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 22
3.2.5Cần minh bạch trong công bố thông tin vĩ mô 23
3.2.6Tính toán nợ công theo phương pháp quốc tế 25
3.2.7Các giải pháp khác 26
KẾT LUẬN 29
B
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập niên gần đây, vấn đề nợ công đã trở thành đề tài nóng
bỏng được nhắc đến nhiều nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới vì nó là một
hiện tượng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế. Nhiều nền kinh tế
mới nổi phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng
như tài trợ thâm hụt tài khoản vãng lai và bội chi ngân sách nhà nước.
Gần đây, cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp nổ ra đe doạ sự ngự trị của
đồng Euro trong Liên minh Châu Âu và nguy cơ sụp đổ của nhiều nền kinh tế,

trong đó có Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề nợ công đặt trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế – tài chính là một việc làm hết sức cần thiết trong thời gian
này. Kinh nghiệm thực tiễn ở các quốc gia như Chilê, Nga, một số nước Đông
Á, và đặc biệt là Hy Lạp để đưa ra một số bài học cho Việt Nam, cũng như cơ
chế, cách thức để nền kinh tế nước nhà có thể ứng phó khi cuộc khủng hoảng nổ
ra. Bức tranh khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cho thấy tổng hợp của một loạt
các vấn đề và các nhân tố. Trước hết Hy Lạp có vấn đề nợ công thật sự, thể hiện
qua tỷ lệ của thâm hụt ngân sách và tỷ lệ tổng nợ trên GDP đều rất cao. Tóm lại,
từ cuộc khủng hoảng Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn
đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ
bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như:
thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quan lý chi tiêu công… Chỉ có
tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam
duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.
Đồng thời, qua bài nghiên cứu này tôi tìm hiểu thực trạng nợ công của Việt
Nam hiện nay và nhận ra nợ công của nước ta hiện nay đang bắt đầu chạm ngưỡng
cho phép, nếu không có biện pháp hợp lý, một cuộc khủng hoảng nợ rất có nguy
1
cơ xảy ra, đe doạ tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Cuối cùng, tôi xin đưa
ra một số giải pháp cho chính sách nợ công của Việt Nam hiện nay.
Kết cấu đề tài:
Chương 1 : Khái quát chung về nợ công
Chương 2 : Nghiên cứu khủng hoảng nợ Hy Lạp
Chương 3 : Bài học kinh nghiệm và giải pháp cho chính sách nợ công
Việt nam qua cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NỢ CÔNG
1.1 Tổng quan về nợ
1.1.1 Nợ quốc gia và các chủ nợ
Nợ là một khoản phải trả, bao gồm cả nợ gốc, lãi, phí và chi phí khác có

liên quan tại một thời điểm, phát sinh từ việc vay của chủ thể được phép vay vốn.
Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi xem xét vấn đề nợ dưới góc độ nợ nước
ngoài trong mối tương quan với nợ trong nước. Nợ nước ngoài của quốc gia là
tổng các khoản nợ nước ngoài của khu vực công và khu vực tư.
Chủ nợ gồm hai loại: chủ nợ chính thức và chủ nợ tư nhân. Chủ nợ chính
thức là các chủ nợ thuộc khu vực công, bao gồm cả các tổ chức đa phương. Các
khoản nợ nước ngoài đối với các chủ nợ chính thức có thể bao gồm các khoản nợ
mà trước đây là của chủ nợ tư nhân, nhưng được bảo lãnh bởi một tổ chức công
trong nền kinh tế. Chủ nợ tư nhân là các chủ nợ còn lại – không phải là chính phủ
và các tổ chức thuộc khu vực công.
1.1.2 Nợ công
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ
người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay
ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành
trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có
thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hành thương mại, các thể chế tài chính quốc tế,
chẳng hạn Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) .
3
1.1.3 Nợ tư nhân
Nợ của khu vực tư (hay còn gọi là nợ tư nhân) là các khoản nợ mà người đi
vay là khu vực tư. Trong khoản nợ tư nhân này có bao gồm đến cả những khoản
vay được bảo lãnh bởi khu vực công. Tức là, khi ta xem xét đến gánh nặng nợ
thuộc trách nhiệm của khu vực công, cần phải xét đến cả những món nợ được bảo
lãnh bởi khu vực công, mặc dù, trên danh nghĩa thì các món nợ này thuộc khu vực
tư nhân.
1.2 Chỉ tiêu đánh giá nợ công
Ở Việt Nam, hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của
quốc gia được quy định tại Điều 7 Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 14/7/2010 về nghiệp vụ quản lý nợ công. Bao gồm những chỉ tiêu sau:

Nợ công so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh
tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nợ chính phủ so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền
kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nợ vay thương mại của Chính phủ so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so
với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập của
toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) trực tiếp của Chính phủ
4
Chỉ số này xác định quy mô trực tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so
với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn thu ngân sách nhà nước và được
tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) vay của Chính phủ về cho vay lại
Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm
so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn thu ngân sách nhà nước và được
tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước
Tỷ lệ này xác định khả năng hoàn trả đối với nghĩa vụ nợ dự phòng phát
sinh từ khoản vay, phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh từ nguồn thu
ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nợ chính quyền địa phương so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của Chính quyền địa phương so với thu
nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP
Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so

với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi) hàng năm so với kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa dịch vụ
Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn
5
Chỉ số này phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các
khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Trong số những chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu nợ công/GDP được chú ý quan tâm
nhiều nhất.Thường các nhà phân tích cho rằng tỷ lệ nợ công so với GDP vào
khoảng 60% là ở ngưỡng an toàn. Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP ở mức 30% là
thuộc ngưỡng an toàn.
Như vậy mở đầu chương chúng ta đi tìm hiểu những khái niệm cơ bản về
nợ, nợ công và khủng hoảng nợ. Qua cách nhìn tổng quan đó, phần nào chúng ta
hiểu được tầm quan trọng của chính sách nợ công đối với mỗi quốc gia, nếu sử
dụng hiệu quả những khoản vay nợ thì có thể là cú hích cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, và ngược lại nó có thể gây ra khủng hoảng nợ, là gánh nặng nợ cho
các thế hệ đất nước sau này.
6
CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP
3
2.1 Bối cảnh diễn ra cuộc khủng hoảng
2.1.1 Tình hình kinh tế trên thế giới
Năm 2009 được nhiều người xem như một năm suy thoái nghiêm trọng của
kinh tế toàn cầu, trong đó sản lượng của nền kinh tế thế giới trải qua sự sụt giảm
nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ 2. Cùng với đó là cơn hoảng
loạn sau vụ phá sản của Ngân hàng Đầu tư Lehman Brothers đã đẩy thị trường tài
chính toàn cầu tới mép vực sụp đổ.

Những thiệt hại mà suy thoái đã gây ra cho kinh tế thế giới là không hề
nhỏ. Tỷ lệ thất nghiệp bình quân của các nền kinh tế trong Tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) là gần 9%. Tại Mỹ, nơi suy thoái bắt đầu sớm hơn các
nơi khác, đội ngũ thất nghiệp đã tăng gấp đôi lên 10%.
2.1.2 Tình hình kinh tế Hy Lạp
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu là thành viên của khu vực đồng tiền
chung (Eurozone hay EU-16). Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2%
EU, đóng góp 2,8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người
khoảng 17.440 đô la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10,2% (trong khi tỷ lệ này
của EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước
trong EU-16.
Tính đến năm 2008, chính phủ Hy Lạp vay mượn rất nhiều từ nước
ngoài để tài trợ cho ngân sách và những khoản thâm hụt tài khoản vãng lai.
Giữa năm 2001, khi Hy Lạp sử dụng đồng Euro làm đồng tiền quốc gia, thâm
hụt ngân sách của Hy lạp báo cáo trung bình 5%/năm, so với trung bình của
Châu Âu 2%. Đến năm 2009, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp được chiếm hơn
12% GDP.
7
2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Các tác nhân nội địa
2.2.1.1 Thâm hụt ngân sách quá lớn
Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày
càng gia tăng. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách hơn 12% GDP vượt ngưỡng an
toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu vực đồng tiền chung là 3%/GDP.
Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức.
2.2.1.2 Tiết kiệm trong nước thấp trong khi vay nợ nước ngoài
cho chi tiêu công chiếm tỷ trọng lớn
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng mạnh, bình quân ở mức 4.2%/năm trong giai
đoạn 2002-2007. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh
châu Âu (EU), tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho

chi tiêu công, tình hình ngân sách và nợ ổn định ở mức kỷ luật vào cuối những
năm 90, đặc biệt là khi so sánh với những năm 80 và đầu những năm 90 khi lãi
vay chiếm một phần lớn tạo nên thâm hụt ngân sách của chính phủ.
Và chính vì khoản tiết kiệm trong nước khiêm tốn này, chính phủ Hy Lạp
lại càng phải tăng cường vay nợ, đặc biệt các khoản vay từ nước ngoài để tài trợ
cho chi tiêu công.
Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng
trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu.
2.2.1.3 Sai lầm trong chính sách kích thích nền kinh tế sau
khủng hoảng của Hy Lạp
Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến
các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải biển,
doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp giai đoạn này
8
lâm vào tình trạng rất khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách bị co hẹp
mạnh. trong khi đó lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Để cứu
vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ
khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển.
2.2.2 Các tác nhân quốc tế
2.2.2.1 Việc tiếp cận thị trường vốn khi lãi suất thấp
Việc sử dụng đồng tiền chung Euro làm đồng tiền quốc gia vào năm
2001 dường như là một nhân tố góp phần vào sự tích tụ của nợ của Hy Lạp.
Các nhận thức của nhà đầu tư về sự ổn định của nền kinh tế Châu Âu cho
phép Hy Lạp, cũng như các thành viên Liên minh Châu Âu khác, được vay
với lãi suất thuận lợi hơn. Điều này đem lại lợi ích, tuy nhiên, cũng có thể đã
góp phần vào vấn đề nợ hiện tại của Hy Lạp.
2.2.2.2 Việc tuân thủ luật lệ
Năm 1997, các thành viên EU đã thông qua Hiệp ước tăng trưởng và ổn
định, một thỏa thuận nhằm tăng cường giám sát và thực thi các quy tắc tài
chính công nêu trong “tiêu chuẩn hội tụ” của Hiệp ước Maastricht năm 1992

cho EMU
Nhưng Hiệp ước tăng trưởng và ổn định đã không được giữ vững, các
quốc gia thành viên đã vượt qua giới hạn thâm hụt.
Theo những quy định trên thì Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực
đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1/1/2001,
mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực
đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ
chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp.
Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu
hướng ngày càng tăng.
9
2.3 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp
2.3.1 Ảnh hưởng đến quốc gia Hy Lạp
2.3.1.1 Uy tín của quốc gia Hy Lạp bị sụt giảm
Hy Lạp vay nợ rất nhiều trên các thị trường tài chính để đảm bảo thanh
khoản cho bội chi ngân sách. Giới hạn bội chi ngân sách cho phép trong khu vực
Euro chỉ là 3% GDP, trong khi đó mức này của Hy Lạp năm lên tới 13,6%, và
thậm chí có thể tăng tới trên 14% GDP. Để che dấu việc chi tiêu quá tay trong
nhiều năm của mình, Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện báo cáo số liệu không nhất
quán và sai lệch, đưa ra nhiều khoản mục bất thường trong ngân sách. Điều này đã
có ảnh hưởng rất tiêu cực đến uy tín của Chính phủ Hy Lạp trên các thị trường
trong nước và quốc tế.
2.3.1.2 Tình hình trong nước bất ổn
Khi tỷ lệ nợ công quá lớn, xu hướng thắt chặt chi tiêu chính phủ thường
được tiến hành như một cách giảm bội chi ngân sách nhà nước. Đây là điều kiện
tiên quyết để quốc gia có thể tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ các nguồn quỹ quốc
tế. Vì vậy, chính phủ Hy lạp phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”,
giảm thâm hụt ngân sách từ 13,6% xuống dưới còn 3%. Song song với cắt giảm
ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng thuế, lãnh đạo Hy Lạp tuyên bố một
chính sách lương thưởng hà khắc đối với khối dịch vụ công với mục tiêu cắt giảm

quỹ lương khoảng 4%, đồng thời cắt giảm các khoản trợ cấp lương hưu (8%) cho
người già, các khoản lương thưởng giữa năm đối với người có mức lương dưới
3000 Euro/tháng thì cắt giảm 1.000 Euro còn đối với những người có mức lương
trên 3.000 Euro/tháng thì cắt hoàn toàn. Các lương tháng 13,14 của những người
về hưu chỉ được trả tối đa 800 Euro. Không những vậy, chính phủ Hy lạp còn phải
nâng thuế VAT, thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ và các mặt hàng không khuyến
khích tiêu dùng để tăng nguồn thu cho ngân sách.
10
Nhiều biện pháp khắc phục khủng hoảng nợ mà Hy Lạp đã và đang tiến
hành giống như con dao hai lưỡi. Tăng thuế và giảm chi tiêu, siết chặt tín dụng,
đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và bản thân nền kinh tế Hy Lạp đang
hết sức khó khăn do suy thoái, thì lại càng đẩy nền kinh tế vào khó khăn lớn hơn
và có thể tiếp tục lún sâu vào suy thoái. Điều này cũng đồng nghĩa với sản xuất
đình đốn, thất nghiệp gia tăng, đời sống khó khăn hơn và bất ổn xã hội cũng nhiều
hơn. Mặt khác, cắt giảm chi tiêu quốc gia khi nợ công tăng cao đồng nghĩa với
phúc lợi xã hội bị giảm xuống, đặc biệt là việc cắt giảm lương của người lao động,
huỷ bỏ và thu hẹp các chương trình an sinh xã hội, trực tiếp đánh vào nhiều tầng
lớp nhân dân, đương nhiên sẽ gặp phải sự phản ứng, thậm chí là chống đối mạnh
mẽ từ các tầng lớp bị thiệt hại, từ đó làm cho tình hình xã hội trở nên căng thẳng
và có nguy cơ dẫn đến những xáo trộn lớn.
Ngoài ra hậu quả của khủng hoảng nợ Hy Lạp là tỷ lệ thất nghiệp đã tăng
lên mức cao nhất trong vòng bảy năm qua, trong khi tỷ lệ lạm phát vẫn đứng ở
mức cao.
2.3.1.3 Thanh khoản sụt giảm
Nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ, trong đó riêng nợ đến
hạn vào năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ (xấp xỉ 27 tỷ đô la Mỹ sẽ đáo hạn vào
tháng 4 và 5/2010). Lãi suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ tính đến thời
điểm 22/4/2010 đã lên tới mức kỷ lục cao, trên 9% đối với các khoản vay có kỳ
hạn trên 10 năm.
Ngoài ra, Hy Lạp đang phải đối mặt với những khó khăn đáng kể với vấn

đề thu thuế, và có một nguy cơ là quốc gia này không thể đáp ứng các tiêu chí mà
những tổ chức hỗ trợ cho nước này yêu cầu. Tình trạng hiện tại có thể dẫn đến
việc cơ cấu lại các khoản nợ hiện tại của Hy Lạp.
11
2.3.1.4 Nguy cơ vỡ nợ cao
Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề thâm hụt cùng một lúc, đó là thâm hụt
ngân sách (13,6% GDP năm 2009) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (đạt
mức kỷ lục vào quý 3/2008). Tài khoản vãng lai bị thâm hụt nghiêm trọng là một
trong những nguyên nhân dẫn tới việc không thể trả được nợ của chính phủ Hy
Lạp.
2.3.2 Ảnh hưởng đến EU và thế giới
Mặc dù Hy Lạp là một nền kinh tế nhỏ, hàng năm chỉ đóng góp khoảng 2%
vào GDP của khu vực đồng tiền chung châu Âu, nhưng khủng hoảng nợ của Hy
Lạp sẽ tác động mạnh tới sự ổn định của đồng Euro, tạo nên phản ứng dây chuyền
đối với các nền kinh tế trong khu vực.
Do Hy Lạp dùng đồng Euro, bê bối về tài chính của họ làm suy yếu đồng
tiền này và có thể sẽ làm tỷ giá trên toàn châu Âu tăng cao. Những rắc rối về nợ
công ở Hy Lạp đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử 11
năm của khu vực sử dụng đồng tiền chung Euro.
Với số nợ 404 tỷ USD (113% GDP) của Hy Lạp nếu không được giải quyết
sớm sẽ gây ảnh hưởng đến cả châu Âu, nền kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác, có
nguy cơ đẩy hàng vạn người lao động đến tình cảnh thất nghiệp.
Nếu Hy Lạp không đạt được các thỏa thuận về cứu trợ thì có thể sẽ buộc
phải thông báo mất khả năng thanh toán ở một số khoản nợ. Khi đó, nước này có
thể buộc phải ra khỏi EU.
2.4 Giải pháp của Hy Lạp
2.4.1 Giải pháp ngắn hạn
2.4.1.1 Sử dụng gói vay cứu trợ của EU, IMF
Để nhanh chóng thoát khỏi viễn cảnh kinh tế hiện tại, chính phủ Hy Lạp
quyết định đệ đơn xin cứu trợ từ IMF và Liên minh EU. Ngày 12/4 Bộ trưởng các

12
nước khu vực đồng tiền chung châu Âu vừa thông qua gói cứu trợ khẩn cấp khổng
lồ trị giá lên 30 tỷ Euro (tương đương 40,12 tỷ USD) tới dành cho Hy Lạp trong
thời hạn 1 năm với mức lãi suất 5%. Mức này thấp hơn mức lợi tức trái phiếu
chính phủ Hy Lạp hiện ở mức 6,98%.
Về phía Hy Lạp, các quan chức Bộ Tài chính nước này dự đoán cần ít nhất
80 tỷ Euro trong thời gian 3 năm mới có thể củng cố sức khỏe ngành tài chính sau
cơn bão khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất trong lịch sử khu vực đồng tiền chung.
Chính phủ Hy Lạp đã đồng ý thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng để
nhận được khoản vay trị giá 110 tỷ Euro hay tương đương 140 tỷ USD trong vòng
3 năm tới nhằm tránh mất khả năng thanh toán. và nhiều khả năng thâm hụt ngân
sách sẽ giảm nhưng đồng thời cũng nhiều khả năng gây ra một chu kì khủng
hoảng kinh tế mới cho nước này.
2.4.1.2 Thực hiện các chính sách tài chính khác
Ngày 29/3, Hy Lạp bắt đầu phát hành trái phiếu có kỳ hạn 7 năm. Đây là
lần phát hành trái phiếu đầu tiên của Hy Lạp sau khi Eurozone nhất trí hỗ trợ nước
này về phương diện tài chính. Đầu tháng 3, Hy Lạp từng phát hành loại trái phiếu
có kỳ hạn 10 năm. Việc Hy Lạp thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ mới và
mở lại đợt phát hành trái phiếu chính phủ cũ đã làm cạn kiệt cầu về chứng khoán
nợ của nước này và do đó vay được rất ít, tổng cộng chỉ được gần 5,4 tỷ Euro.
2.4.2 Giải pháp dài hạn
2.4.2.1 Cân đối ngân sách nhà nước
Chính phủ hy vọng rằng ba đợt giảm chi tiêu công và tăng thuế được
chính thức tuyên bố vào tháng 1và tháng 3/2010 sẽ hồi phục lại niềm tin của nhà
đầu tư cho nền kinh tế Hy Lạp mà không cần đến nguồn tài chính bên ngoài.
Kế hoạch tài khoá 3 năm của Chính quyền Papandreou tập trung vào việc
cắt giảm mạnh chi tiêu công và duy trì tăng trưởng thông qua tăng thuế và một sự
13
đàn áp thẳng tay về mặt thuế má và sự né tránh các nghĩa vụ quốc gia. Về mặt
chi tiêu, hầu hết các khoản cắt giảm tập trung ở dịch vụ công.

Những thành viên khu vực liên minh Châu Âu đã chào đón kế hoạch của
chính phủ Hy Lạp về chính sách tài khoá đó. Tuy nhiên, một số cho rằng hỗn hợp
tăng thuế và cắt giảm mặt chi tiêu chính phủ có thể dẫn đến thất nghiệp nghiêm
trọng hơn và đưa Hy Lạp đến tình trạng suy thoái nặng.
2.4.2.2 Thực hiện tái cấu trúc nợ
Theo các viên chức Hy Lạp, tái cấu trúc nợ sẽ là một thảm họa đối với
mức độ tín nhiệm của đất nước. Điều này sẽ dẫn tới việc Hy Lạp bị cách ly ra
khỏi các thị trường vốn, thậm chí khiến nước này thực hiện nhiều biện pháp
nghiêm khắc hơn nữa và sẽ lâm vào tình trạng suy thoái nặng nề hơn nữa.
Qua chương này ta có thể nhận thấy khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã
làm rung động thị trường tài chính châu Âu và toàn cầu. Thị trường chứng khoán
thế giới đã có những phiên giao dịch diễn ra trong hoảng loạn và sự phục hồi kinh
tế thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng.
14
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP
CHO CHÍNH SÁCH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
3.1 Thực trạng chính sách nợ công Việt Nam
3.1.1 Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay
Kinh tế-xã hội nước ta tuy vẫn đang trên đà phục hồi nhanh và phát triển
theo hướng tích cực với mức tăng trưởng khá ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, nhưng
còn gặp một số khó khăn. Ở trong nước, một số cân đối kinh tế vĩ mô có biểu hiện
chưa ổn định, cùng với hạn hán kéo dài và dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật
nuôi gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống dân cư.
3.1.2 Nợ công ở Việt Nam
Theo Luật Quản lý Nợ công Việt Nam số 29/2009/QH12 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua
ngày 17 tháng 6 năm 2009, và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, thì Nợ
công Việt Nam bao gồm:
• Nợ Chính phủ.
• Nợ được Chính phủ bảo lãnh.

• Nợ Chính quyền địa phương.
Phân tích nợ công Việt Nam theo cơ cấu nợ như trên, ta có thể thấy được số
liệu Nợ công trong giai đoạn 5 năm gần đây có xu hướng gia tăng, và đang vượt
ngưỡng an toàn.
Dựa vào các số liệu do Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố, có thể tóm tắt
tình hình nợ công giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010 qua bảng và biểu đồ sau:
15
Tình hình nợ công và nợ chính phủ của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ công/GDP 45,90% 49,70% 47,90% 52,60% 56,70%
Nợ chính phủ/GDP 36,60% 33,80% 36,20% 41,90% 44,30%
Nguồn: Ủy ban Quốc hội
Trong cơ cấu Nợ công có ba bộ phận thì Nợ Chính phủ là thành phần chiếm
tỷ trọng lớn nhất. Nhìn vào biểu đồ dưới đây, có thể thấy được Nợ Chính phủ tại
năm 2006 là 36,60% GDP, sau đó đến năm 2007 giảm xuống còn 33,80% GDP.
Nhưng vào năm 2008, khoản nợ này tăng đột ngột lên mức 36,2% GDP.
Tình hình nợ công và nợ chính phủ của Việt Nam những năm gần đây
Đơn vị tính: % trên GDP
Tính đến cuối năm 2009, nợ công đã vượt ngưỡng an toàn, tăng lên đến
52,60% GDP, trong đó nợ chính phủ chiếm 41,90% GDP.
16
Mặc dù tỷ lệ nợ công như trên là vượt ngưỡng an toàn nhưng các chỉ tiêu
nợ trong nợ công năm 2009 của Việt Nam thì vẫn nằm trong quy định của Thủ
tướng cho phép. Vì theo như các quy định của Chính phủ, chỉ tiêu nợ Chính phủ
so với GDP hay chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP đều phải dưới
50%, nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với thu ngân sách Nhà nước phải dưới 30% và
nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trong trung và dài hạn so với xuất khẩu là phải dưới
25%.
Tuy nhiên, các yếu tố giúp ổn định nền kinh tế như lạm phát hay thâm hụt
vãng lai của Việt Nam lại đang biến động theo chiều hướng xấu trong thời gian

này đã làm cho nợ công năm 2010 tăng vọt lên mức 56,70%.
Chính những yếu tố bất ổn này là một phần nguyên nhân quan trọng đẩy nợ
công của Việt Nam tăng vọt trong 3 năm 2008-2010 (từ khoảng 44% năm 2008
lên 52,6% trong năm 2010). Giải thích cho sự cho sự gia tăng này là do trong giai
đoạn từ năm 2007 đến năm 2010, nợ công tăng lên chủ yếu do Nợ chính phủ tăng,
vì phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động vốn đầu tư cho giao thông, thủy
điện, y tế, thủy lợi…Đặc biệt là các công trình có tầm cỡ quốc gia như đường cao
tốc Long Thành - Giầu Dây, cải tạo Quốc lộ 1, cầu Cần Thơ, cầu Mỹ Thuận, dự án
lọc dầu Dung Quất, cảng Thị Vải
Vậy, nếu tính đúng và tính đủ, chỉ tiêu Nợ công mà hiện nay Việt Nam
công bố là khá thấp, con số thực tế sẽ phải lớn hơn rất nhiều, vượt xa mức trần.
Nếu theo những tính toán về nợ công theo thông lệ quốc tế, nợ công Việt Nam
đang thực sự trở thành mối lo ngại đến an ninh tài chính quốc gia.
Nợ nhà nước của một số quốc gia năm 2009
17

Nguồn: CIA
Nhưng dù tỷ lệ Nợ công/GDP đã vượt trần trong 2 năm vừa rồi, các cơ
quan chức năng của Việt Nam vẫn khẳng định nợ công của Việt Nam đang ở
ngưỡng an toàn, và nằm trong tầm kiểm soát.
Tuy nhiên, tỷ lệ Nợ công/GDP không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá
ngưỡng an toàn của Nợ công, mà nó chỉ phản ánh quy mô của nợ công. Nếu lấy tỷ
lệ đó mà khẳng định nợ công an toàn thì chưa đủ cơ sở. Mức độ nguy hiểm của Nợ
công còn phụ thuộc vào các chỉ số khác như xu hướng phát triển của tỷ lệ nợ công,
hiệu quả sử dụng nợ, tình trạng của nền kinh tế, và quan trọng hơn cả là phương
thức phối hợp quản lý nợ công giữa các cơ quan liên quan.
18
3.2 Các giải pháp cho chính sách nợ công Việt Nam
3.2.1 Đảm bảo an toàn tài chính trong vay nợ nước ngoài
Việt Nam vẫn coi trọng vai trò của nguồn vốn vay nợ nước ngoài. Để phát

huy các yếu tố tích cực và hạn chế rủi ro, đặc biệt là những tác động không tốt tới
an ninh tài chính quốc gia nói chung và nợ công ở Việt Nam nói riêng, một số giải
pháp sau được đề xuất:
Trước hết, cần phải điều đình với các chủ nợ về cách giải quyết các khoản
nợ đến hạn trả, bảo đảm thực hiện cam kết, tạo lập tín nhiệm, tranh thủ nguồn vốn
vay mới, đặc biệt là các nguồn viện trợ và vay dài hạn với lãi suất thấp, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận với nguồn vốn vay này để tự
đầu tư công nghệ, thiết bị tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh với điều kiện
đảm bảo chắc chắn việc trả nợ theo đúng thời hạn đã cam kết. Đồng thời, tăng tỷ
lệ tiết kiệm nội địa, hạn chế dần sự lệ thuộc quá mức vào nguồn vốn vay nước
ngoài nhằm tự khắc phục phần nào sự thiếu hụt vốn của nền kinh tế và giảm bớt
gánh nặng nợ nước ngoài.
Thêm vào đó cần xây dựng một chiến lược vay vốn nước ngoài và lộ trình
trả nợ toàn diện phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước. Quy hoạch sử dụng vốn
vay nước ngoài theo định hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo
và đạt được các mục tiêu xã hội khác, việc xây dựng quy hoạch còn phải dựa trên
cơ sở định hướng phát triển ngành, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn mà trước
hết là các dự án trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt , khu công
nghiệp tập trung, xây dựng các dự án đầu tư, cân nhắc thứ tự ưu tiên các công
trình sử dụng vốn vay nước ngoài. Cần xây dựng cơ cấu vay ưu đãi (vay ODA),
vay thương mại hợp lý để có thể vừa xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế
vừa tạo được nguồn tích luỹ trong nước, đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay. Công
tác quy hoạch cần hướng việc huy động vốn theo từng nhà tài trợ trên cơ sở dự
19
báo hạn mức, cơ cấu, điều kiện của mỗi nguồn tài trợ. Bên cạnh đó, cũng phải cân
đối với các nguồn lực khác và khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
Mặt khác cần hoàn thiện môi trường pháp lý về quản lý vay và trả nợ nước
ngoài. Nghiên cứu xây dựng văn bản pháp quy có tính pháp lý cao hơn các văn
bản pháp lý hiện hành (luật hay pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước
ngoài), đồng thời sớm sửa đổi các quy chế, quy định của Chính phủ liên quan đảm

bảo phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và hài hoà với thủ tục của các nhà
tài trợ và các bên cho vay vốn. Tăng cường công tác giám sát nợ ở tầm vĩ mô
thông qua việc thành lập Hội đồng quản lý nợ quốc gia, tăng cường vai trò giám
sát của Quốc hội, tổ chức giám sát các chỉ số về tình trạng nợ nhà nước của quốc
gia.
Cùng với đó phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay nước ngoài. Bố trí sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nợ nước ngoài dựa vào nhu cầu cân đối vốn đầu
tư cho nền kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể cũng như chính sách ưu
tiên của Nhà nước và điều kiện cấp vốn của các nhà tài trợ.
Cuối cùng cần kiểm soát có hiệu quả các nguồn vốn vay nước ngoài. Thành
lập các công ty tư vấn cấp quốc gia về đánh giá các chương trình, dự án và mua
sắm quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về vay nợ nước ngoài.
Tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính; cần rà soát và loại bỏ ngay các thủ tục
rườm rà và tốn phí thời gian trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hiệp định, trao
đổi công hàm, trình tự và thủ tục rút vốn, cấp vốn đối ứng cần được xem xét lại
theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý. Ban hành quy chế
theo dõi, kiểm tra và đánh giá dự án (trước, trong và sau khi kết thúc dự án). Sự
gia tăng các khoản vay nợ nước ngoài (vay ưu đãi, vay thương mại, trái phiếu,…)
có tác động khá tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, còn về lâu dài,
nếu thiếu cơ chế quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả thì sẽ tạo ra những tác động
tiêu cực đối với nền kinh tế và an toàn tài chính quốc gia. Cũng cần nâng cao năng
20
lực và trình độ cán bộ quản lý. Cần bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ thông thạo
chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, kinh nghiệm quản lý hiện đại để
hoạch định chính sách vĩ mô về quản lý nhà nước đối với các chương trình, dự án
sử dụng vốn vay nợ nước ngoài, xác định chiến lược cơ cấu huy động vốn hợp lý
và cân đối với các nguồn lực khác, hướng dẫn quy trình thủ tục, tập huấn chính
sách nhiệm vụ về kinh nghiệm theo dõi dự án đánh giá dự án
Bên cạnh đó, Việt Nam cần khẳng định và thể hiện trong thực tế quyết tâm
đổi mới và cải cách để tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức tài chính quốc tế và

chính phủ các nước, tăng cường các hình thức vận động tài trợ khác nhau như: Hội
nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ, Hội nghị tư vấn tài trợ ngành, Hội nghị đối tác,
Uỷ ban liên chính phủ,… tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại giữa các nhà
tài trợ và các nước cho vay vốn với các cơ quan Việt Nam để cùng phân tích đánh
giá tình hình phát triển của Việt Nam, tạo dựng sự tín nhiệm tin tưởng để có thể
tranh thủ được các nguồn vốn vay ưu đãi phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, rõ ràng là vay nợ nước ngoài là một vấn đề phổ biến và là sự phụ
thuộc lẫn nhau trong phát triển kinh tế đối với tất cả các quốc gia trong nền kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, xử lý vấn đề vay nợ nước ngoài như thế nào để sử dụng hiệu
quả và tận dụng nó như một đòn bẩy phát triển kinh tế, không làm tăng gánh nặng
nợ và sự phụ thuộc kinh tế cũng như tạo ra những nguy cơ đối với an toàn tài
chính quốc gia là vấn đề trăn trở và là một bài toán khó đối với Việt Nam hiện
nay.
3.2.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động thu chi nhằm giảm bội chi ngân
sách nhà nước
Hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển, do đó nhu cầu cho phát
triển cơ sở hạ tầng và nâng cao trình độ của xã hội đang rất bức thiết. Nhà nước
thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng, điều này đã làm tăng
mức bội chi ngân sách. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa là do tác động của chu kỳ
21
kinh doanh. Khủng hoảng kinh tế đã làm cho thu nhập của nhà nước co lại, nhưng
nhu cầu cho chi tiêu lại tăng nhằm giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã
hội.
3.2.3 Giải pháp hạn chế thâm hụt tài khoản vãng lai
Giải thích cho sự thâm hụt tài khoản vãng lai trong nhiều năm qua, nguyên
nhân chủ yếu là do hiện tượng nhập siêu, giá nhập khẩu cao mà chúng ta lại nhập
khẩu nhiều mặt hàng giá trị với số lượng lớn. Nhằm hạn chế nhập siêu Chính phủ
cũng đưa ra một số biện pháp như sau:
• Đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu
• Thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ làm giảm cầu trong một số lĩnh vực

• Sử dụng thuế (XNK), hàng rào thuế quan để hạn chế nhập khẩu những mặt
hàng không thiết yếu
• Sản xuất và sử dụng những mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu
• Chống thất thoát, tham nhũng và tiết kiệm triệt để.
Đây là những biện pháp vẫn hay thường đề cập tới, sử dụng các công cụ
của chính sách thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan, đồng thời đẩy
mạnh tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, tính hiệu quả của những biện pháp này thì
khó mà xác định được. Bởi vì vấn đề nằm ở chỗ có sự mất cân đối quá lớn giữa
nhu cầu nhập khẩu hàng ngoại và nhu cầu nhập khẩu của các nước đối với hàng
Việt Nam.
3.2.4 Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Thứ nhất, trong khi giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chung, thì phải
chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung cho sản xuất, kinh doanh, đặc
22
biệt là nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ,
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh
hơn nữa tỷ lệ đầu tư ngoài ngành để tập trung cho lĩnh vực chuyên môn chính, vừa
để tránh rủi ro, vừa để phát huy lợi thế, tăng hiệu quả.
Thứ ba, là đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, giảm thiểu chi phí, hạ giá
thành, giành lợi nhuận để tái đầu tư, kiểm tra, giám sát chặt chẽ để giảm thiểu lãng
phí, thất thoát. Quan tâm, nâng cao chất lượng, trình độ tay nghề của đội ngũ lao
động.
Thứ tư, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, có kế hoạch sử dụng
vốn cụ thể, hợp lý. Đồng thời, phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn, nhất là
những dự án đầu tư công giá trị lớn, tránh hiện tượng thất thoát, tham nhũng, đặc
biệt là các DNNN.
3.2.5 Cần minh bạch trong công bố thông tin vĩ mô
Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về
nợ công trên website của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ chưa

phải toàn bộ nợ công. Việc không thống nhất và gắn kết trong cách hiểu, cách giải
thích cũng như cách quản lý vấn đề về nợ công là một trong những rủi ro của nợ
công Việt Nam. thống kê tài chính của Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào
nợ Chính phủ, nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ
công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách
nhiệm với khu vực này. Và đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến những
sự việc như Vinashin. Vì vậy, để thực thi tính minh bạch, Chính phủ cần trao trách
nhiệm quản lý về một đầu mối, đó là Bộ Tài Chính. Theo đó, Bộ này cần xây dựng
một chiến lược về nợ công; xác định ngưỡng, tỷ trọng nợ công là bao nhiêu so với
GDP cho từng giai đoạn, từng thời kỳ dựa vào tình hình thực tế của nền kinh tế
quốc dân.
23

×