1
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đã từ lâu, TKX nói chung, đặc biệt là tật cận thị ở trẻ em tuổi học
đường nói riêng đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên
cứu về nhiều mặt như sau : tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng, những yếu tố liên
quan đến sự hình thành và phát triển của TKX (độ cong và lực khuất triết của
giác mạc và thể thuỷ tinh, chiều dài trục nhãn cầu, độ rắn chắc củng mạc, yếu
tố di truyền và gia đình trong TKX, tình trạng điều tiết quá mức kéo dài, các
yếu tố vệ sinh lớp học, kích thước bàn ghế…). Trong những năm gần đây, với
sự phát triển của kinh tế xã hội, cơ cấu bệnh tật và mù loà đã dần thay đổi, có
xu hướng chuyển dịch từ các căn bệnh gây mù do nhiễm khuẩn và thiếu dinh
dưỡng sang các bệnh khơng lây truyền (Glocom, bệnh võng mạc tiểu đường,
thối hố hoàng điểm tuổi già…) và đặc biệt là tật khúc xạ ngày càng ra tăng.
Những người mắc TKX còn phải chịu đựng gánh nặng về tâm lý và tài
chính, vì phải đeo kính suốt đời, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nghề nghiệp
và các hoạt động xã hội. Hơn nữa, mắc TKX nặng có nguy cơ có biến chứng
làm tổn hại thị giác vĩnh viễn như: thối hố hồng điểm, bong võng mạc,
glôcôm, và đục thể thuỷ tinh[1-6].
Tật khúc xạ lại có xu hướng xảy ra ở giai đoạn sớm của cuộc đời so với
các bệnh gây mù loà phổ biến khác như bệnh đục thuỷ tinh thể, và bệnh
glôcôm…
Việt Nam trong những năm gần đây tỉ lệ TKX cũng có chiều hướng gia
tăng. Theo điều tra của Viện mắt Trung ¬ng năm 1964 tỉ lệ cận thị là 4,2%,
đến năm 1974 tỉ lệ cận thị đã tăng lên 10,38%. Một số điều tra gần đây cũng
cho thấy tỉ lệ cận thị tăng nhanh như điều tra của Trung tâm Mắt TP Hồ Chí
Minh năm 1994 tỉ lệ cận thÞ ở học sinh cấp I là 1,57%, cấp II là 4,75%, cấp
III là 10,34% đến năm 2005 theo điều tra của Hoàng Thị Lũy và cộng sự cũng
2
2
tại TP Hồ Chí Minh thì tỉ lệ cận thị đã tăng lên ở đầu cấp I là 4,3%, cấp II là
28,7% đến cấp III là 35,4%. Cận thị ở học sinh nội thành cao hơn 3 lần so với
học sinh ngoại thành và nông thôn ( theo điều tra của Bệnh viện mắt Hà Nội:
tỉ lệ cận thị ở nội thành là 23,9%, ngoại thành là 7,0%.
Hiện nay chương trình học của trẻ em ngày càng nặng nề, cường độ
chiếu sáng lớp học không đảm bảo tiêu chuẩn, cùng với việc sử dụng máy
tính, chơi trị chơi điện tử và xem ti vi ngày càng nhiều, giải trí của trẻ em sau
giờ học chủ yếu cũng dùng mắt nhìn gần sẽ là những điều kiện thuận lợi làm
cho tỉ lệ mắc TKX ngày một tăng nhanh.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về độ tiến triển của TKX nghiên
cứu của Pärssimen O và cộng sự cho thấy mức độ cận thị tăng lên trung bình
hàng năm ở trẻ em Phần Lan là - 0,57D, ở trẻ em Mỹ khoảng 0,3-0,5D một
năm theo Goss DA và Cox VD và ở Nhật khoảng 0,5-0,8D một năm [13],
[16], [19].
Ở nước ta, TKX cũng đang là một vấn đề sức khỏe thời sự được xã hội
đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều điều tra, nghiên cứu về TKX như điều tra tỉ lệ
cận thị ở các lứa tuổi, các cấp học, yếu tố liên quan đến phát sinh và phát triển
của TKX. Nghiên cứu các phương pháp đo khúc xạ và chỉnh kính áp dụng
trong lâm sàng và cộng đồng cũng như các phương pháp điều trị cận thị tiên
tiến LASIK, PRK…nhưng chưa có nghiên cứu nào về sự sự thay đổi TKX ở
học sinh, trong khi các tác giả trên thế giới đã đề cập đến nhiều. Vì vậy chúng
tơi tiến hành đề tài “ Theo dõi sự thay đổi tật khúc xạ của học sinh lớp 6
Trường PTCS Cát Linh- Hà Nội trong một năm học .” Với mục đích:
1.
Theo dõi sự thay đổi TKX học sinh lớp 6 trường PTCS Cát Linh trong vịng
một năm học
2.
Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ liên quan đến TKX ở HS lớp 6
3
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. MẮT VỀ PHƯƠNG DIỆN QUANG HỌC
Mắt của chúng ta nhìn được một vật nào đó là do ánh sáng chiếu vào
vật đó phát ra các tia phản xạ, các tia này xun qua khơng khí và các môi
trường trong suốt của mắt để tới và tạo ảnh trên võng mạc [10].
Các môi trường trong suốt của mắt bao gồm: Giác mạc, thủy dịch, thể
thủy tinh, dịch kính. Các mơi trường này có chiết suất khác nhau, bán kính
cong của các bề mặt khúc xạ và khoảng cách giữa các bề mặt khúc xạ cũng
khác nhau. Theo các định luật khúc xạ ánh sáng, các tia sáng có thể bị khúc
xạ hoặc phản xạ một phần khi đi qua các môi trường này [1].
Đầu tiên tia sáng đi qua giác mạc là phần ngăn cách giữa khơng khí với
các môi trường trong suốt của mắt. Giác mạc là một màng trong suốt chiếm
1/5 trước nhãn cầu, bán kính cong mặt trước giác mạc là 7,7mm, mặt sau là
6,8mm, chỉ số chiết suất của giác mạc là 1,376 cao hơn của khơng khí nên
cơng suất khúc xạ của mặt trước là 48,83 diop(D) trong khi đó mặt sau chỉ có
cơng suất khúc xạ là -5,88D. Tổng cơng suất khúc xạ của giác mạc là 43,05D
[1], [6], [10].
Thể thủy tinh là một thấu kính hội tụ trong suốt có cấu trúc khơng đồng
nhất, phần nhân có chỉ số khúc xạ cao hơn lớp vỏ, các lớp vỏ càng gần nhân
thì bán kính cong càng cao, cơng suất khúc xạ của nhân thể thủy tinh là
5,985D. Độ cong mặt sau thể thủy tinh cao hơn mặt trước với tổng công suất
khúc xạ của hai mặt là 13,33D. Cấu trúc này đã làm giảm được các hiện
tượng quang sai và tạo nên tổng công suất khúc xạ của thể thủy tinh là 19,11D
[1], [6].
4
4
Thủy dịch và dịch kính có chỉ số chiết suất thấp 1.336 và gần tương
đương với chiết suất của giác mạc (1,376) và thể thủy tinh(1,386) nên tia sáng
thay đổi không đáng kể khi đi qua hai môi trường này [6].
Như vậy công suất khúc xạ của mắt vào khoảng 58,64D, trong đó giác
mạc chiếm 2/3 cơng suất của mắt.
Hình 1.1. Cấu tạo của mắt
1.2. CÁC TÌNH TRẠNG KHÚC XẠ CỦA MẮT.
1.2.1. Mắt chính thị:
Mắt chính thị là mắt có cấu trúc hài hòa giữa chiều dài trục nhãn cầu
trước sau và công suất hội tụ của mắt. Ở trạng thái khơng điều tiết khi nhìn
một vật ở vơ cực các tia sáng song song từ vô cực sẽ hội tụ trên võng mạc, từ
võng mạc các tín hiệu thần kinh được truyền lên não nhờ đó ta thấy được hình
ảnh vật rõ nét. Viễn điểm của mắt chính thị nằm ở vô cực quang học (trên lâm
sàng là khoảng cách 5m) [1], [6].
Các môi trường quang học chủ yếu của nhãn cầu gồm có giác mạc và
thể thuỷ tinh.
5
5
1.2.2. Mắt khơng chính thị:
Mắt khơng chính thị là mắt có tật khúc xạ, do khơng có sự đồng bộ
chiều dài trục nhãn cầu trước sau với công suất hội tụ của mắt. Khi đó các tia
sáng đi vào sẽ không hội tụ trên võng mạc mà hội tụ ở trước võng mạc (đối
với mắt bị cận thị) hoặc hội tụ ở sau võng mạc (đối với mắt bị viễn thị) do đó
ảnh thu được sẽ khơng rõ, vật nhìn bị mờ.
Mắt khơng chính thị có các loại: cận thị, viễn thị, loạn thị [1].
1.2.2.1.Cận thị:
Mắt cận thị là mắt có cơng suất khúc xạ q cao so với chiều dài trục nhãn
cầu nên các tia sáng song song từ vô cực sẽ hội tụ trước võng mạc tạo ra ảnh
nhòe trên võng mạc, tương tự tia sáng suất phát từ một điểm trên võng mạc sẽ
hội tụ vào một viễn điểm ở trước mắt (giữa vô cực quang học và giác mạc)
Mắt cận thị có viễn điểm và cận điểm gần hơn mắt chính thị nên người
cận thị nhìn vật ở gần cịn rõ, nhìn xa thì mờ.
Hình 1.2. Ảnh mô phỏng cận thị
6
6
1.2.2.2. Viễn thị:
Mắt viễn thị là mắt có cơng suất khúc xạ thấp hơn so với chiều dài trục
nhãn cầu nên các tia sáng song song từ vô cực sẽ hội tụ sau võng mạc cũng
tạo ra một ảnh nhòe trên võng mạc, tương tự tia sáng suất phát từ một điểm
trên võng mạc sẽ phân kỳ khi ra khỏi mắt, như vậy viễn điểm của mắt là một
viễn điểm ảo ở sau nhãn cầu.
Mắt viễn thị có viễn điểm ở sau nhãn cầu và cận điểm cũng xa hơn mắt
chính thị nên người viễn thị nhìn vật ở gần cũng như ở xa đều mờ.
Mắt viễn thị luôn phải điều tiết để đưa ảnh về đúng trên võng mạc cả
khi nhìn gần lẫn nhìn xa
Hình 1.3. Mắt ảnh mơ phỏng mắt viễn thị
7
7
1.2.2.3. Loạn thị:
- Loạn thị đóng quy t¾c:
Giác mạc bình thường đều đặn, nhẵn bóng, giống như mặt quả bóng
trịn. Khi mắt bị loạn thị, một trục nào đó của giác mạc sẽ cong hơn các trục
khác, trông giống như quả bóng bầu dục, và các tia sáng đi qua trục đó sẽ hội
tụ ở trước võng mạc, trong khi các tia sáng khác đi qua một trục ít cong hơn
lại hội tụ ở sau võng mạc. Loạn thị cũng có thể do thuỷ tinh thể bị nghiên
trong nhãn cầu. do vậy , ảnh của vật mà mắt ta nhìn thấy sẽ bị méo hình hoặc
bị mờ cả khi nhìn xa và nhìn gần. khi có loạn thị, mắt có lực khúc xạ khác
nhau ở các kinh tuyến khác nhau của con mắt - điều đó có nhgiã là cơn mắt
khơng là hình cầu.
Hai kinh tuyến ln ln vng góc với nhau trong loạn thị đúng qui
tắc. loại loạn thị này có thể chỉnh được bằng kính trụ.
Giữa 2 tiêu điểm là vùng ít bị mờ nhất hoặc gọi là vịng mờ. Đây là vị
trí cho con mắt loạn thị bị mờ ít nhất.
Có một số kiểu loạn thị
- Loạn thị thuận : khi kinh tuyến có lực khúc xạ mạnh hơn là kinh tuyến
đứng và kinh tuyến ngang có lực khúc xạ yếu hơn . Trục của kính trụ( -) khi
chỉnh kính là khoảng 1800.
8
8
• Loạn thị ngược : Khi kinh tuyến có lực khúc xạ mạnh hơn là kinh tuyến
ngang. Trục của kính trụ( - ) khi chỉnh kính là khoảng 900.
• Loạn thị chéo: Khi trục loạn khoảng từ 450 đến 1350
• Loạn thị chéo có ảnh hưởng nhiều hơn đến thị lực so với loạn thị thuận
hoặc loạn thị ngược. Mỗi kiểu loạn thị trên, khi so sánh với các thành
phần ccầu, cũng có thể chia thành 5 nhóm sau
• Loạn thị cận kép: Cả 2 kinh tuyến đều cận.
• Loạn thị cận đơn: Khi một kinh tuyến là chính thị, cịn kinh tuyến kia là
cận
• Loạn thị hỗn hợp: Khi một kinh tuyến là viễn thị,cịn kinh tuyến kia là
cận
•
Loạn thị viễn đơn: Khi một kinh tuyến là chính thị, cịn kinh tuyến là
viễn thị
• Loạn thị viễn kép: Cả hai kinh tuyến đều viễn.
Xếp theo nguyên nhân, loạn thị có thể do
• Giác mạc; Bề mặt giác mạc có cơng suất khúc xạ vào khoảng + 42.00
Dioptry,có thể khơng là hình cầu đều đặn mà có bán kính độ cong ở
một kinh tuyến lại lớn hơn ở các kinh tuyến khác.
• Thể thuỷ tinh: Do Thể thuỷ tinh bị lệch nghiêng trong nhãn cầu. Được
cho là bình thường khi độ loạn thị tối đa là 0,5 DS và là loạn thị ngược
Loạn thị Không đúng qui tắc( loạn thị không đều)
Loạn thị này thường do các bệnh ở mắt như bệnh giác mạc hình chóp,
mộng thịt, các tổn thương choán chỗ trong hốc mắt ....
Sơ đồ khúc xạ trong loạn thị:
• Loạn thị cận đơn: một kinh tuyến hội tụ trước võng mạc, còn kinh tuyến
kia hội tụ trên võng mạc
9
9
• Loạn thị viễn đơn: Một kinh tuyến hội tụ sau võng mac, còn kinh tuyến hội
tụ trên võng mạc.
Loạn thị cận kép: Cả hai kinh tuyến đều hội tụ trước võng mạc
Loạn thị viễn kép; Cả 2 kinh tuyến đều hội tụ sau võng mạc
Loạn thị hỗn hợp: khi một kinh tuyến hội tụ trước võng mạc, còn kinh tuyến
kia hội tụ sau võng mạc
1
01
0
1.3. CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TÌNH TRẠNG KHÚC XẠ CỦA MẮT
Tình trạng khúc xạ của mắt được quyết định bởi công suất giác mạc,
công suất thể thủy tinh, độ dài trục nhãn cầu trước sau, độ sâu tiền phòng, khả
năng điều tiết của mắt… Trong đó giác mạc, thể thủy tinh và trục nhãn cầu là
3 yếu tố chính [6], [15].
1.3.1. Các yếu tố giải phẫu:
1.3.1.1. Giác mạc:
Công suất khúc xạ của giác mạc cao chiếm 2/3 tổng công suất của cả
nhãn cầu. Do đó bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào của giác mạc về cấu trúc hay bán
kính cong của giác mạc đều làm thay đổi khúc xạ của mắt. Khi bán kính cong
của giác mạc thay đổi 1mm thì cơng suất khúc xạ của nó có thể thay đổi 6D.
Bình thường giác mạc là một chỏm cầu với tất cả các kinh tuyến đều có
cùng một bán kính cong, khi mặt trước giác mạc thay đổi làm cho nó khơng
cịn là một chỏm cầu đồng đều ở tất cả các kinh tuyến thì gây ra loạn thị.
Ở trẻ em có thể có loạn thị sinh lý với độ loạn thị nhỏ hơn 0,5D, độ
loạn thị này được bù trừ bằng độ loạn thị ngược của thể thủy tinh.
Độ cong mặt sau giác mạc cũng không đồng đều, thay đổi tùy theo từng
người và độ tuổi. Tuổi càng lớn thì loạn thị mặt sau giác mạc càng cao và cần
phải được chỉnh kính.
1.3.1.2. Thể thủy tinh:
Thể thủy tinh là một thấu kính hai mặt lồi với bán kính cong khác nhau.
Cơng suất thể thủy tinh tăng dần theo tuổi, ở trẻ sơ sinh thể thủy tinh gần như
một quả cầu trịn nên cơng suất hội tụ rất cao có thể đến +42D, sau đó giảm
dần cho đến tuổi trưởng thành cịn 16D-20D [17].
Kích thước thể thủy tinh thay đổi tùy theo tình trạng khúc xạ của mắt
do cơ chế điều tiết. Khi điều tiết tối đa, bề dày thể thủy tinh tăng thêm
1
1
1
0,28mm, bán kính cong mặt trước thể thủy tinh giảm cịn 5,33mm, làm cho
cơng suất thể thủy tinh tăng lên khoảng 14D [6].
Thể thủy tinh có thể thay đổi kích thước để tăng cơng suất do đó nó có
vai trị quan trọng trong quá trình điều tiết của mắt.
1.3.1.3. Trục nhãn cầu:
Độ dài trục nhãn cầu trước sau thay đổi tùy theo từng lứa tuổi, trên thế
giới nhiều nghiên cứu đã đưa ra các chỉ số về độ dài trung bình của trục nhãn
cầu vào khoảng 23,5mm đến 24,5mm.
Ngày nay, nhờ có máy siêu âm AB mà số đo độ dài trục nhãn cầu của
mỗi người được xác định chính xác. Ở Việt Nam, Hoàng Hồ và cộng sự đã
nghiên cứu trên 216 mắt người trưởng thành cho biết độ dài trục nhãn cầu
trung bình ở phụ nữ Việt Nam là 22,77± 0,06 mm và ở nam giới là 23,5±
0,10mm.
Độ dài trục nhãn cầu ảnh hưởng nhiều đến tình trạng khúc xạ của mắt,
khi độ dài trục nhãn cầu thay đổi 1mm sẽ làm thay đổi công suất khúc xạ của
mắt khoảng 3D. Mắt cận thị thường có trục nhãn cầu dài hơn và mắt viễn thị
có trục nhãn cầu ngắn hơn mắt chính thị.
Trẻ sơ sinh có độ dài trục nhãn cầu khoảng 16mm, khi trẻ được 8 tuổi
thì độ dài trục nhãn cầu tăng lên khoảng 24mm, tương đương với người
trưởng thành và lúc đó mắt trở thành chính thị.
1.3.1.4. Độ sâu tiền phịng:
Độ sâu tiền phịng khơng ảnh hưởng nhiều đến công suất khúc xạ của
mắt như giác mạc, thể thủy tinh và độ dài trục nhãn cầu nhưng nó cũng góp
phần vào sự ổn định cơng suất khúc xạ của nhãn cầu.
Độ sâu tiền phòng cũng thay đổi theo tình trạng khúc xạ của mắt và
theo tuổi. Ở mắt viễn thị và mắt người già tiền phịng thường nơng hơn so với
mắt cận thị và chính thị.
1.3.2. Sinh lý thị giác:
1
21
2
Vai trị của điều tiết:
Bình thường ở mắt chính thị khi nhìn vật ở xa các tia sáng song song sẽ
hội tụ trên võng mạc tạo nên một hình ảnh rõ nét. Khi đưa vật lại gần mắt nếu
chỉ xét về mặt quang học thì các tia sáng sẽ hội tụ ở sau võng mạc, ảnh thu
được sẽ bị nhòe nhưng trên thực tế mắt chúng ta vẫn nhìn rõ thậm chí cịn rõ
hơn do kích thước của ảnh lớn đó là nhờ có sự điều tiết của mắt [1], [4], [6].
Điều tiết là cơ chế giúp cho mắt tăng công suất khúc xạ bằng cách thay
đổi hình dạng thể thủy tinh để ảnh của vật ln hiện trên võng mạc.
Có nhiều thuyết về cơ chế điều tiết như thuyết Helmholtz, thuyết hiện
đại, cơ chế thần kinh nhưng các thuyết đều thừa nhận khi điều tiết do có sự
bng giãn lực căng của bao thể thủy tinh để gia tăng bề dầy và giảm bớt bán
kính cong của thể thủy tinh. Theo Gullstrand khi không điều tiết bán kính
cong mặt trước thể thủy tinh là 10mm khi điều tiết giảm xuống cịn 5,33mm
do đó làm tăng công suất khúc xạ của thể thủy tinh từ 19D lên 33D, nâng tổng
công suất khúc xạ của mắt từ 58,64D lên 70,57D.
Có hai yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động điều tiết của mắt là sự đàn hồi,
dồn ép của thể thủy tinh và trương lực cơ thể mi. Ở người già khi nhân xơ hóa
làm giảm sự đàn hồi và dồn ép của thể thủy tinh nên khi cơ thể mi co cũng
không làm thay đổi bề dầy và bán kính cong của thể thủy tinh. Ngược lại khi
cơ thể mi bị liệt (như khi tra thuốc liệt điều tiết) thì thể thủy tinh dù cịn đàn
hồi và dồn ép tốt cũng không tự thay đổi bề dày và bán kính cong để nâng
cơng suất khúc xạ. Do vậy khi điều tiết phải có sự phối hợp hài hòa của thể
thủy tinh và cơ thể mi.
Khả năng điều tiết của mắt phụ thuộc vào sự thay đổi hình dạng của thể
thủy tinh, trên lâm sàng được thể hiện bằng:
1
31
3
+ Biên độ điều tiết: là khả năng điều tiết tối đa của mắt được tính theo
số diop thay đổi công suất khúc xạ của thể thủy tinh khi điều tiết. Biên độ
điều tiết giảm dần theo tuổi, biên độ điều tiết trung bình ở tuổi 40 khoảng 6D,
dưới 40 tuổi, cứ 4 năm thì biên độ điều tiết giảm đi 1,0D. Trên 40 tuổi điều
tiết giảm nhanh hơn, đến 48 tuổi thì 4 năm giảm 0,5D.
+ Khoảng điều tiết: được tính theo khoảng cách giữa điểm xa nhất của
mắt và điểm gần nhất mà mắt cịn có thể nhìn rõ.
Biên độ điều tiết giảm dần không hồi phục theo tuổi (sau khoảng 70 tuổi thì
mất hẳn khả năng điều tiết) do giảm khả năng đàn hồi của thể thủy tinh gọi
là hiện tượng lão thị. Thường sau khoảng 40 tuổi khả năng điều tiết giảm
nhanh nên bệnh nhân đọc sách và nhìn gần thấy mờ nhưng nhìn xa vẫn rõ.
Do đó bệnh nhân chỉ cần phải điều chỉnh thị lực nhìn gần bằng kính hội tụ.
* Tình hình mắc TKX trên thế giới và ở Việt nam
Tỷ lệ mắc TKX rất khác nhau ở các nước trên thế giới, nhất là tỷ lệ
TKX khơng được chỉnh kính thích hợp dẫn đến tăng tỷ lệ mù loà. Đây là một
vấn đề rất đáng quan tâm mà tổ chức Ytế thế giớiđãnkhuyến cáo cần phải đặc
biệt quan tâm đến TKX như là một loại mù lồ có thể dễ dàng phịng tránh
được với các biện pháp đơn giản nhất và rẻ tiền nhất.
Châu Á là nơi có tỷ mắc TKX cao nhất thế giới và có xu hướng gia tăng
trong những năm gần đây. Đặc biệt, ở các nước có sử dụng chữ viết kiểu
tượng hình như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản tỷ lệ mắcTKX
rất cao, chiếm khoảng 50 – 80% số học sinh.Uớc tính riêng ở Trung Quốc có
đến 300 triệu người có TKX. Do thời gian ảnh hưởng rất dài( cận thị thường
bắt đầu khi 7 tuổi) nên nếu tính theo “ số người x năm bệnh” thì TKX gây
giảm thị lực và mù lồ gấp 2 lần đục thuỷ tinh thể[] .Tỷ lệ người bị TKX ngày
càng gia tăng theo đà phát triển và ứng dụng của khoa học công nghệ trong
nhịp sống hiện đại và đơ thị hố.
1
41
4
Theo thông báo của một số nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ
gây mù do TKX rất khác nhau ở các nước, cao tới 8,2% ở Hàn Quốc, 14% ở
Đài Loan, 12,1% ở Hồng Công, 22,4% ở Phillipine, nhưng lại thấp trong
khoảng 1-4% như ở Việt Nam, Thái Nam, Indonéia, Malaysia…
Tại nước ta, từ những năm 1960, được sự quan tâm của Đảng và nhà
nước đối với sự nghiệp giáo dục và sức khoẻ của học sinh, nhiều cơng trình
nghiên cứu về các bệnh học đường nói chung va TKX, trong đó có tật cận thị
nói riêng đã được tiến hành và công bố. Theo tác giả Hà huy Khơi, Ngơ Như
Hồ, Đồn Cao Minh, Trần Văn Dần… thì tỷ lệ cận thị trong học sinh các cấp
ở thành phố Hà Nội giai đoạn từ 1960 đến 1980 khoảng 4-7% và ở nông thôn
là 1%.
Trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng thị lực nhìn gần trong học
tập và sinh hoạt trong cuộc sống hiện đại ngày càng tăng cao. Theo kết quả
điều tra nghiên cứu của Trung tâm mắt Thành phố Hồ Chí Minh năm 1994 thì
tỷ lệ cận thị ở học sinh trung học cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh là 9,7%, ở
học sinh PTTH là 18%. Nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ngọc Hương tại
Ninh Bình năm 1997, của Nguyễn Thị Nhung tại Hà Nội năm 1998 và của
Nguyễn Văn Liên tại Nam Định năm 1998 cũng cho thấy tỷ lệ cận thị ở các
cấp học ở nước ta đã tăng lên ở mức 13,6%. Nghiên cứu của Trần Thu
Phương năm 2003 trên 5112 học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy
tỷ lệ TKX ở học sinh thành phố này là 25,3%, trong đó cận thị chiếm tới
17,2% và viện thị là 8,1%. Một nghiên cứu khác năm 2006 của Lê Thị Thanh
Xuân tại thành phố Hồ Chí Minh là 38,8%, trong khi nghiên cứu gần đây nhất
tại tỉnh Thái Nguyên của Vũ Quang Dũng năm 2007 trên 8527 học sinh tại 16
trường PT các cấp từ tiểu học đến THPT cho thấy tỷ lệ mắc TKX là 11,5%.
Tất cả các nghiên cứu trên đã cho thấy tình hình mắc TKX ở HS nước ta dao
động giữa các vùng miền, giữa các thời điểm nghiên cứu.
1
51
5
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN TẬT KHÚC XẠ
1.4.1. Các phương pháp chủ quan [9].
1.4.1.1.Test Thử thị lực:
- Thử thị lực nhìn xa và thử thị lực nhìn gần.
- Thị lực nhìn xa là một thơng số quan trọng trong lâm sàng, nó khơng
những giúp để chẩn đốn mà cịn để theo dõi, tiên lượng bệnh.
Tất cả các bệnh nhân đến khám mắt đều được thử thị lực nhìn xa cho
từng mắt và hai mắt, thử thị lực khơng kính và thị lực có kính (nếu bệnh nhân
đã đeo kính). Sử dụng bảng thị lực vòng tròn hở Landolt để thử. Đây là một
loại bảng tốt, chính xác thường được sử dụng trên lâm sàng, bảng Landolt còn
hay dùng cho nghiên cứu khoa học.
1.4.1.2. Thử kính lỗ:
Khi thị lực nhìn xa khơng kính của bệnh nhân dưới 7/10 cần phải cho
bệnh nhân thử kính lỗ.
Thử kính lỗ là cách tốt nhất để xác định một người có thị lực kém do tật
khúc xạ. Nếu thị lực với kính lỗ tăng nhiều khả năng là do một tật khúc xạ,
tuy nhiên với các tật khúc xạ cao thì thị lực qua kính lỗ ít tăng. Nếu thị lực với
kính lỗ khơng tăng có thể do mắt bị nhược thị hoặc có bệnh lý tại mắt.
Thị lực tăng với kính lỗ khơng nhất thiết có nghĩa là mắt bình thường,
thị lực khơng kính kém có thể do phối hợp tật khúc xạ và bệnh lí.
Đường kính của lỗ từ 1- 1,5mm, tốt nhất là 1,2mm. Có thể làm 1 hoặc
nhiều lỗ trên 1 tấm chắn để thử.
Kính lỗ cịn sơ bộ phát hiện được mắt cận thị hay viễn thị bằng cách
đưa kính lỗ từ vị trí gần mắt ra xa mắt, nếu thấy vật nhỏ đi là mắt bị cận thị,
ngược lại nếu thấy vật to ra là mắt viễn thị.
1.4.1.3. Mặt đồng hồ Parent:
1
61
6
Nếu bệnh nhân thử kính cận hoặc viễn mà khơng đạt thị lực tối đa, có
thể là do loạn thị. Đặt trước mắt bệnh nhân kính cầu dương sao cho thị lực
giảm cịn 0,2-0,3 sau đó cho nhìn vào mặt đồng hồ Parent, nếu bệnh nhân có
tật loạn thị sẽ thấy các đường đậm nhạt khơng đều nhau. Đường kinh tuyến
đậm nhất mà bệnh nhân nhìn thấy vng góc với đường kinh tuyến mờ nhất
thì đó là loạn thị đều, đường đậm nhất, rõ nhất là kinh tuyến chính, cịn kinh
tuyến vng góc với nó là trục của loạn thị.
1.4.1.4. Kính khe:
Sử dụng khe hở của kính để xác định trục chính của loạn thị đều, khi
đưa đúng khe vào trục chính của mắt loạn thị thì ảnh của vật sẽ rõ nhất do
đường tiêu chính nằm sát võng mạc cịn đường tiêu có cơng suất nhỏ hơn bị
triệt tiêu.
1.4.1.5. Kính trụ chéo Jackson:
Có thể phát hiện nhanh loạn thị. Kính trụ chéo Jackson thường được dùng
để chỉnh trục và cơng suất của kính trụ. Ngồi ra kính cịn được sử dụng để
chỉnh cơng suất của kính cầu và trục trụ cho đến khi tìm được thị lực tốt nhất.
* Các phương pháp chủ quan đều đơn giản, dễ học, dễ làm, chi phí
thấp, có thể áp dụng mọi lúc mọi nơi. Nhược điểm lớn nhất của phương pháp
này là không loại trừ hết điều tiết của mắt nhất là những trường hợp điều tiết
quá mức gây giả chính thị hoặc giả cận thị.
1.4.1.6. Cân bằng hai mắt và test +1 (Sử dụng trong đo khúc xạ chủ quan với
kính cầu tối ưu)
Khâu cuối cùng trong thử kính là cân bằng hai mắt để xác định chắc
chắn rằng điều tiết của cả hai mắt đã giãn tương đương nhau khi thử kính cho
2 mắt, giúp bệnh nhân nhìn dễ chịu nhất. Có thể làm mờ mắt bằng kính cộng
1
71
7
hoặc sử dụng lăng kính để xác định cân bằng 2 mắt với thị lực sau chỉnh kính
phải tương đương nhau giữa 2 mắt.
Test +1 được sử dụng để kiểm tra lại xem mắt đã giãn điều tiết hết chưa
khi thử kính bằng cách thêm kính +1diop vào kính nhìn xa tốt nhất nếu thị lực
nhìn xa mờ hơn (giảm trên 2 dòng) tức là mắt đã giãn hết điều tiết, khúc xạ
xác định đã chính xác.
1.4.2. Các phương pháp khách quan [6], [9].
1.4.2.1. Soi bóng đồng tử:
Soi bóng đồng tử là phương pháp ra đời sớm nhất cho phép đánh giá
một cách khách quan tật khúc xạ hình cầu, loạn thị đều hay không đều, vẩn
đục của môi trường quang học. Dụng cụ dùng để soi cũng ngày một hoàn
thiện, ngày nay thường sử dụng máy Retinoscope. Trước khi soi phải làm giãn
điều tiết bằng kính cộng hoặc bệnh nhân định thị vào một vật tiêu ở xa hoặc
liệt điều tiết bằng thuốc như Atropin 0,5% hoặc Cyclogyl 1% [14].
Soi bóng đồng tử là phương pháp đo khúc xạ rất chính xác, nhất là đối với
trẻ em và người có khuyết tật về ngơn ngữ, thính giác, thần kinh là những đối
tượng khó hợp tác nếu sử dụng các phương pháp chủ quan hay máy đo khúc
xạ tự động.
Phương pháp soi bóng đồng tử ngày càng được sử dụng rộng rãi vì đơn
giản, dễ đo lại thực hiện được ở nhiều nơi và có giá trị chẩn đốn tốt.
1.4.2.2. Máy đo khúc xạ tự động:
Máy đo khúc xạ tự động do sử dụng những tiến bộ mới của điện tử và
vi tính, máy đo khúc xạ theo đường kinh tuyến rồi tự động tìm ra điểm trung
hịa. Do sử dụng tia hồng ngoại nên bệnh nhân khơng bị chói mắt, giảm điều
tiết nhưng bản thân máy cũng có thể cho kết quả sai lệch do phối hợp không
tốt từ bệnh nhân hay đồng tử nhỏ dưới 2mm.
1
81
8
Ưu điểm lớn nhất của máy là cho kết quả rất nhanh và thuận tiện, ở trẻ
lớn có thể phối hợp tốt thì kết quả đo khúc xạ tự động sau liệt điều tiết khá
chính xác, ngồi ra nó cịn xác định được trục loạn thị giúp định hướng trong
chỉnh kính cho bệnh nhân [2].
Máy ít có tác dụng nếu bệnh nhân định thị kém, các môi trường trong
suốt của mắt bị vẩn đục.
1.4.2.3. Khúc xạ biểu hiện và khúc xạ có liệt điều tiết:
Điều tiết làm tăng cơng suất khúc xạ của mắt nên lý tưởng nhất là đo
khúc xạ trong điều kiện giãn điều tiết.
Khả năng điều tiết của mỗi người thường khác nhau, thậm chí ở một
người cũng thay đổi theo thời gian, tuổi và tình trạng sức khỏe hiện tại của
người đó. Người khám khơng thể đánh giá được sự thay đổi này, do đó khi đo
khúc xạ biểu hiện (khúc xạ không liệt điều tiết) trong khi làm giãn điều tiết
bằng kính dương hoặc bằng các phương pháp không dùng thuốc nếu kết quả
không đồng nhất giữa các lần đo thì cần phải đo khúc xạ có liệt điều tiết để
đánh giá tình trạng khúc xạ của mắt [1], [6], [10].
1.5. TIẾN TRIỂN CỦA tËt khóc x¹
1.5.1. Ngun nhân, cơ chế và một số yếu tố nguy cơ[12], [13], [15]:
Đã có nhiều nghiên cứu nhưng vẫn không xác định được nguyên nhân
cũng như cơ chế gây TKX, sự điều chỉnh và phát triển của nhãn cầu.
Nhưng xác định được một số yếu tố nguy cơ:
- Tiền sử gia đình: một nghiên cứu cho biết tỉ lệ cận thị ở nhóm trẻ có
cả bố và mẹ đều bị cận là 33-60%, nhóm chỉ có bố hoặc mẹ bị cận là 23-40%,
nhóm khơng có bố mẹ bị cận là 6-15%.
- Giác mạc có bán kính cong nhỏ hơn hoặc trục nhãn cầu dài hơn bình
thường: những mắt có trục nhãn cầu dài trên 25mm thường bị cận thị.
- Thường xuyên phải đọc sách hoặc làm các công việc nhìn gần.
1
91
9
- Trẻ có mắt trở thành chính thị hoặc viễn thị nhẹ <0,5diop trước tuổi đi
học thường dễ bị cận thị khi học phổ thơng.
- Những trẻ có lác khi nhìn gần cũng hay bị cận thị.
- Trẻ đẻ non hoặc suy dinh dưỡng có tỉ lệ cận thị cao hơn.
1.5.2. Phân loại:
Đánh giá tật khúc xạ theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới như sau:
- Mắt chính thị: Được coi là mắt có độ khúc xạ cầu tương đương lớn
hơn – 0,5 D và nhỏ hơn + 2.0D. Khúc xạ cầu tương đương (SE:
spherical equivalent) = chỉ số khúc xạ cầu +1/2 chỉ số khúc xạ trụ.
- Người được coi là chính thị nếu khơng có mắt nào cận hoặc viễn thị
- Mắt được coi là cận thị khi có khúc xạ cầu tương đương ≥ - 0,5D sau liệt
điều tiết. Người được coi là cận thị khi có một mắt hoặc cả 2 mắt cận
- Mắt được coi là viễn thị khi có khúc xạ cầu tương đương +2.0D trở lên
sau liệt điều tiết. ( Công suất cầu tương đương = công suất cầu + ½
cơng suất trụ) vì viễn thị< + 2,0DS khơng ảnh hưởng tới thị lực của trẻ
em. Người được coi là viễn thị khi có cả 2 mắt viễn thị, hoặc có một
mắt viễn thị cịn mắt kia là chính thị.
- Mắt được coi là loạn thị khi số đo bằng máy đo khúc xạ tự động sau
liệt điều tiết của 2 trục chính chênh lệch nhau ≥ 0,75D trở lên.
Bảng phân loại về tật khúc xạ của tổ chức Y tế thế giới:
Phân loại
TKX
Cận thị
Viễn thị
Loạn thị
Thái độ sử trí
Nhẹ
Vừa
≤- 0,75 D
≤ +2,75 D
≤ 0,75 D
Không
cần
- 1,00 - 2,75
+3,0 - + 4,75
1,00 - 2,75
Đeo kính
kÝnh
Chương 2
Nặng
> -3,00
> +5,00
> +/- 3,00
Đeo kính
2
02
0
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu.
- Địa điểm nghiên cứu : Trường PTCS Cát Linh – Hà Nội
- Đối tương nghiên cứu: Toàn bộ học sinh khối 6 trường PTCS Cát Linh.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.
- Bệnh nhân có các bệnh mắt khác kèm theo: Bệnh lý thuộc giác mạc,
thể thủy tinh, dịch kính, đáy mắt, thị thần kinh.
- Những bệnh nhân bị lác, nhược thị, rung giật nhãn cầu, các bệnh bẩm
sinh di truyền.
- Các bệnh nhân không phối hợp trong thăm khám.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang tiến cứu.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Theo cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng tỉ lệ trong quần thể
n = Z12−α / 2
p(1 − p )
d2
n: là cỡ mẫu tối thiểu
p = 0,2 (tỉ lệ cận thị dựa theo các nghiên cứu trước)
d: Sai số cho phép d = 0,05
z = 1,96 (độ tin cậy 95%)
tính được n ≈ 245 . Để đề phịng những sự cố có thể xảy ra chúng tơi
quyết định chọn cỡ mẫu là 250 học sinh.
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu