Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Đánh giá tác dụng chống viêm giảm đau chống dị ứng của cream SL1 trên động vật thực nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 125 trang )

1

Đặt vấn đề

Sa la cú tờn khoa hc l Physalia physalis còn được gọi là “Chiến
thuyền Bồ Đào Nha” (Portuguese Man O’ War). Sứa lửa có hình dạng giống
như chiếc dù lơ lửng trong nước, bụng dưới rỗng có chứa nhiều xúc tu là cơ
quan tóm bắt mồi và tự vệ. Trên thế giới sứa lửa phân bố ở các biển, vịnh có
khí hậu ơn đới và nhiệt đới có khắp nơi trên biển Đại Tây Dương, Tháí Bình
Dương, Ấn §ộ Dương…[25].
Ở nước ta, sứa lửa thường tập trung nhiều ở vùng biển phía Nam và ở
các vùng biển đảo Trường Sa, Phú Quốc…. Chúng thường sống trôi nổi thành
từng đoàn, từng tốp hoặc đơn lẻ dọc theo bờ biển. Sứa lửa thực sự trở thành
mối nguy cơ đe dọa với lực lượng hoạt động dưới biển: Bộ đội Đặc công
nước, Hải Quân và những ngư dân, khách du lịch...
Khi tự vệ, các xúc tu của sứa lửa bám vào da người hoặc động vật, tiết
ra các độc tố. Các độc tố này gây bỏng, rát, loét nát da, gây tổn thương thần
kinh, gây dị ứng.... Nếu không được xử trí điều trị kịp thời, vùng da tại chỗ sẽ
bị hoại tử sau 10 - 72 giờ hoặc nhiễm trùng, lâu liền... Ngồi ra cịn có thể gây
rối loạn tồn thân: dị ứng, choáng phản vệ, ảnh hưởng trực tiếp hoạt động tức
thời và sức khỏe lâu dài. Tất cả những ai đã từng bị sứa lửa tấn công đều bị
tâm lý hoang mang lo sợ [28], [62].
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tác hại của sứa lửa cũng như sinh
lý, sinh thái của loài nhuyễn thể này nhất là ở các nước phát triển và có lực
lượng Hải quân hùng mạnh như Hải quân Mỹ ở Hawai, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha
mà sứa lửa ở đây được gọi với cái tên là Chiến thuyền Bồ Đào Nha (Portuguese
Man O’ War). Ở Việt Nam đã có những cơng trình nghiên cứu, bµo chÕ

1



2
thuốc điều trị và dự phòng v tn thng do sứa lửa nhưng chưa đưa ra
được thuốc đặc hiệu [33].
Điều trị tổn thương do sứa lửa chủ yếu là dùng các thuốc: chống dị
ứng, giảm đau... Các đơn vị Hải quân đã có kinh nghiệm sơ cứu nạn nhân khi
bị sứa lửa tấn công: rửa sạch vùng tổn thương, bôi các thuốc chống dị ứng,
đồng thời cho uống hoặc tiêm thuốc giảm đau, thuốc chống viêm, truyền dịch
chống sốc.
Giai đoạn 2006 - 2009 Học viện Quân y được Bộ Quốc phòng giao
nhiệm vụ tham gia nghiên cứu đề tài trọng điểm cấp Bộ thuộc chương trình
khoa học KCB04. Sản phẩm của một trong số đề tài là cream SL1 có thành
phần từ các dược liệu trong nước để điều trị các tổn thương do sứa lửa. Nhằm
đánh giá tác dụng điều trị tổn thương do sứa lửa của cream SL1 trên lâm sàng,
chúng t«i tiến hành nghiên cứu đề tài này với các mục tiêu:
1.

Xác định tính an tồn của cream SL1 trên thực nghiệm.

2.

Đánh giá tác dụng chống viêm, giảm đau, chống dị ứng của cream
SL1 trên động vật thực nghiệm.

3.

Đánh giá kết quả điều trị tổn thương do sứa lửa của cream SL1 trên
người tình nguyện.

2



3

Chương 1
tỉng quan tµi liƯu

1.1. Đặc tính sinh học của sứa lửa
Từ lâu nay, người ta vẫn xem sứa biển là một loài động vật nhuyễn thể,
đơn giản và nguyên thuỷ. Tương tự như những loại cùng họ như cỏ chân
ngỗng và san hơ, sứa lửa thoạt nhìn ai cũng tưởng nó là một động vật hồn
tồn đơn giản. Nó khơng có đầu, khơng có đi, khơng có lưng, khơng có
bụng, khơng có trái, phải, thậm chí khơng có chân hoặc vây. Nó cũng khơng
có tim. Ruột của nó giống như một chiếc túi hơn là một đường ống, do vậy
miệng của nó cũng sẽ đóng vai trị hậu mơn. Thay vì bộ não, nó chỉ có một
mạng lưới thần kinh khuyếch tán [22], [31], [43].
Do tác động với lân tinh trong nước biển, chúng phát ra muôn ngàn
màu sắc rực rỡ. Năm 1897, một đoàn Hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh đang
làm nhiệm vụ tuần tra trên biển, khi họ phát hiện thấy một khối ánh sáng lấp
lánh, đủ màu sắc đang di chuyển trên mặt biển, họ cho đấy là những chiến
thuyền của người Bồ Đào Nha nên đánh tín hiệu chào, nhưng khơng thấy trả
lời. Sau đó, họ khám phá ra đấy chỉ là một đàn sứa lửa đang di chuyển trên
biển. Từ đó người ta quen gọi nó là “Chiến thuyền Bồ Đào Nha” (Portuguese
man of war) mà quên rằng nó có tên là Physalia physalis [27], [32], [34].
Sứa lửa thường tập trung nhiều ở biển Gulf Stream, Bắc biển Caribe
đến Nova Scotia và trên các biển như Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
Những ngi bơi trên bin nu gp phi sa la thỡ khó sống sót. Vì thế
người ta cịn gọi nó là “Tử thần của biển” [29], [30], [53].

3



4
Khi sứa lửa tấn cơng người, nọc của nó có thể gây sốc, sốt, dị ứng, loét
da. Độc tố của sứa lửa thuộc loại độc tố dạng nematocyt sting toxin và
neurotoxin, có hoạt tính mạnh bằng 75% so với độc tố của rắn hổ mang. Các
độc tố chứa một hỗn hợp phức tạp của polypeptides và protein bao gồm cả
catecholamines, histamin, hyaluronidase, fibolysins, kinins, phospholipases
và nhiều hemolytic, cardiotoxic và dermatonecrotic độc tố [35], [36], [42].
Một con cá hoặc một con tơm có thể di chuyển nhanh theo hướng xác định,
nhưng con sứa lửa biển chỉ có thể bơi lờ đờ trơi theo dịng nước và sóng biển.
Những kết quả nghiên cứu gần đây nhất đã khiến cho các nhà khoa học
phải thừa nhận họ đã đánh giá thấp con sứa biển và họ hàng của nó, được biết
đến với tên gọi là tập hợp cnidarian. Bên trong cơ thể có vẻ đơn giản của
chúng là một tập hợp gene rất phức tạp và đáng chú ý [44],[45], [47].
Những khám phá này đã đem đến một lý thuyết hoàn toàn mới về q
trình tiến hố của động vật từ 600 triệu năm trước. Kết quả tìm kiếm cũng đã
thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học dành cho loài cnidarian như một mơ
hình để tìm hiểu cơ thể động vật và con người [26], [49], [51].
Kevin J. Peterson, một nhà sinh vật học tại Dartmouth nhận xét: "Điều
ngạc nhiên lớn nhất chính là việc lồi cnidarian lại có nhiều gene phức tạp
hơn ta tưởng. Điều này đã làm cho rất nhiều người phải quay lại và nhận ra
rất nhiều điều họ vẫn nghĩ về loài cnidarian là hoàn toàn sai lm" [46], [52],
[60].
Bica và Rochio (1901) đà ép xúc tu sứa lửa tìm đợc một
chất lỏng màu xanh có chất độc, rồi tiêm vào heo biển, chim
bồ câu sau ít phút những con vật thí nghiệm này bị tê liƯt
bëi chÊt ®éc ®ã [24], [50], [58], [63].

4



5
Ronanovaloe.V; K.laude Francis Bocuf (1953) cho rằng
bản thân sứa lửa có các tế bào gai phân bố trên tầng ngoài
của da søa, nhng tËp trung nhiỊu nhÊt ë xóc tu. Trong tế bào
gai có nhiều sợi tơ (nematocyat), sứa lửa dùng những tế bào
gai này cắm vào da ngời, đồng thời tiết ra chất độc màu
xanh gọi là (Actinotoxine). Khi độc tố dính vào cơ thể ngời
làm cho nạn nhân bị dị ứng bỏng rát, các đầu dây thần
kinh bị tê liệt, từng vùng và làm cho con ngời đau ®ín. Ngµy
nay, thùc nghiƯm ®· chøng minh dïng 2 gam chất độc tơi
tiêm vào da đà giết 1 con chim bồ câu nặng 300 gam trong
vòng một giờ (Nguyễn Khắc Hêng 1985) [28], [37], [48],
[58].
1.2. Sự phân bố của sứa lửa
*Trên thế giới: Sứa lửa thường sống ở những vùng biển nóng, ấm nơi
có khí hậu nhiệt đới, tại Tây Ban Nha; Italia và vùng biển bắc Phi sứa lửa tập
trung tương đối nhiều. Các nhà sinh học biển cho rằng khí hậu nóng khơ đã
khiến sứa lại gần bờ, việc đánh bắt cá quá nhiều cũng làm tăng loại động vật
này. Ngoài ra sứa lửa sống nhiều nhất ở các biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới như ở Thái Bình Dương và Ấn Độ dương, Bắc Đại Tây dương. Ở Hoa Kỳ
sứa lửa có nhiều nhất tại vùng biển Florida (Atlantic coast, Florida Keys, Gulf
of Mexico), biển Texas, Địa Trung hải và nhiều nơi khác [59], [64], [65].
Sứa lửa có kích thước khác nhau

5


6


6


7

có con to bằng cả cái nón lá, đi dài hơn 1m. Có con chỉ bằng miệng
chén. Đủ hình dạng, từ tròn đến dài, đến dẹp. Đủ màu sắc, trắng, xanh lục,
xanh nhạt, vàng, đỏ ... trơi theo dịng nước, hàng hàng, lớp lớp. Bị sóng trồi,
gió dập những con sứa chết tan ra thành những mảnh li ti lẫn trong nước biển
[38], [41], [61].
*Ở Việt Nam: Ở nước ta, qua các kết quả nghiên cứu của Viện Hải
Dương học Quốc gia về sứa lửa cho thấy, sứa lửa thường tập trung nhiều nhất
ở vùng biển phía Nam và nam Trung bộ, ở vùng biển Trường Sa, Phú Quốc.
Đặc biệt từ vùng biển của tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận trở vào. Trong khoảng
thời gian từ cuối mùa hè sang thu chúng thường sống trôi nổi thành từng đàn,
từng tốp hoặc đơn lẻ dọc theo bờ biển. Khi bơi dưới nước đi ngúng nguẩy
để đẩy chúng đi theo các hướng, vì sứa lửa khơng có mắt nên chúng khơng
định hướng trước được. Những ngày biển động sứa lửa thường tập trung từng
đàn ngay gần với bờ biển thành từng đám màu di chuyn sn mi.
Tháng 6/1988 các chiến sỹ Đặc công nớc luyện tập và
hoạt động ở vùng biển Phan Thiết đà bị sa la tn cụng gõy
bỏng rất nặng. Theo thống kê của Quân y đơn vị v kt qu
hồi cứu hồ sơ bệnh án tại bệnh xá tỉnh đội Thuận Hải đà có
tới 21 trờng hợp bị bỏng (với các mức độ nhẹ, vừa, nặng) do
sứa lửa gây ra.
Trong đợt đi thực hiện đề tài hè năm 2008, nhóm nghiên cứu cùng Đại
tá Đồn trưởng Đồn Đặc Cơng 5 Nguyễn Do·n Hân trên tàu ra đảo Phú Quý
đã phát hiện một đoàn sứa lửa tại vùng biển Ninh Thuận và bắt được một số
sứa lửa phục vụ cho nghiờn cu. Theo tổng kết ca Quõn y Đoàn Đặc
công 5 thì về mùa hè sứa lửa ở vùng biển Ninh Thuận gặp khá nhiều, chúng


7


8
thường xuất hiện vào buổi sáng, những tân binh mới đến cha có kinh nghiệm
hay bị sứa lửa gây tổn thương.
1.3. Đặc điểm tổn thương do sứa lửa và nguyên tắc điều trị
Khi bị sứa lửa tấn công, các xúc tu của sứa lửa bám vào da con người
đồng thời tiết ra các độc tố. Ngay lập tức các độc tố này gây bỏng, rát, loét nát
da, tổn thương thần kinh... §ồng thời gây rối loạn tồn thân: dị ứng, choáng
phản vệ. Đặc điểm tổn thương do sứa lửa giống với các tổn thương bỏng: tổn
thương bị phù nề, xung huyết, loét da. Nếu bị nhiều nọc, tổn thương có thể
sâu tới lớp trung bì và hạ bì. Khi con người bị sứa lửa tấn cơng có tâm lý
hoảng hốt và sợ hãi [39], [40], [53].
Nọc của sứa lửa rất độc có chứa các chất độc thần kinh, chất độc với
da, rất độc với hệ hô hấp và hệ tim mạch [54], [55], [57].
Các tổn thương nếu không được xử trí điều trị kịp thời, vùng da tại chỗ
sẽ bị hoại tử sau 10 - 72 giờ hoặc nhiễm trùng, lâu liền...
Vì vậy, giai đoạn sớm khi sứa lửa tấn cơng cần kịp thời xử trí ngay bằng
các thuốc có tác dụng trung hòa độc tố, chống dị ứng, chống viêm, giảm đau,
chống phù nề, xung huyết, tăng cường biểu mơ hố và liền sẹo [3], [56], [66].
Do đặc tính của các tổn thương sứa lửa gây ra giống với tổn thương
bỏng nên điều trị cũng theo nguyên tắc điều trị bỏng:
+ Chống sốc đối với các trường hợp nặng.
+ Giảm đau.
+ Chống viêm.
+ Chống phù nề.
+ Chống dị ứng…


8


9
Theo kinh nghiệm của ng d©n vïng biĨn miỊn Trung khi bÞ
søa lưa tấn cơng cã thĨ dïng mét trong các biện pháp sau:
+ Dùng đờng đen nhai nhỏ đắp lên vùng b tn thng.
+ Dùng tro bếp đắp lên vùng tổn thơng.
+ Có nơi dùng nớc phèn để rửa tổn thơng.
+ Kinh nghim của Quân y Đoàn 788 khi điều trị các tổn
thơng do sứa lửa giai đoạn sớm nh sau:
- Dùng mật ong bôi lên vùng tổn thơng.
- Dïng thc mì chlorocide H, hoặc cream hydro cortisol bơi
(kh«ng ch xát mạnh lên vùng tổn thơng). Phần lớn các trờng
hợp nhim độc tố của sứa lửa tại Đoàn 788 và Đoàn 5 Đặc công
trong vòng 3 năm từ 1989 - 1991, thì các tổn thơng do sứa
lửa đều đợc xử lý bằng các chất có sẵn trong thiên nhiên kể
cả giai đoạn tổn thơng sớm cũng nh giai đoạn tỉn th¬ng
mn.
1. 4. Những vị thuốc thường dùng trong điều trị tổn thương da
Ở Việt Nam có nhiều tác giả đã nghiên cứu và sử dụng các dược liệu có
tác dụng điều trị các bệnh lý viêm, sẩn ngứa, dị ứng da tại chỗ như bằng sa,
minh phàn, lục phàn, băng phiến, long não, lưu hoàng, hùng hoàng, hạt cây
máu chó, muồng trâu, ba chạc, chút chít, kiến cị, núc nác, vàng đằng, sến, cỏ
lào, nghệ, rau má, kim ngân, lơ hội...[2],[3].
Các loại dược liệu có tác dụng làm se khô và tạo màng thuốc che phủ
bề mặt tổn thương do bỏng: cao lá sến, sim, sú vẹt, củ nâu, sịi, săng lẻ, kháo
vàng, hồng đằng,...

9



1
0
Các loại dược liệu có tác dụng làm rụng nhanh các hoại tử: mủ đu đủ,
mã đề, nghệ, bấn, dứa xanh [3], [6].
Các loại dược liệu có tác dụng tốt trong tái tạo mơ hạt và biểu mơ hố:
nghệ, lá mỏ quạ, rau má, cao mỡ vàng...
Các loại dược liệu này cũng đã được các tác giả nước ngoài chứng minh có
tính kháng khuẩn trên thực nghiệm cũng như hiệu quả trên lâm sàng [91], [92].

1
0


1
1
1.5. Các vị thuốc sư dơng bào chế Cream SL1:
1.5.1. Đại hồng (Radix et Rhizoma Rhei)

Hình 1.1. Đại hồng (Rheum officinale Baill)
* Tên khoa học của vị thuốc: Radix et Rhizoma Rhei là thân rễ của
cây Đại hoàng (Rheum officinale Baill) thuộc họ rau răm (Polygonaceae). Loại
dược liệu này có màu rất vàng, nếm vào miệng thấy lạo xạo và có bọt nước
vàng nên gọi là Đại hồng [12], [90], [93], [94].
* Bộ phận dùng: Rễ của Đại hồng có ít nhất trên 3 tuổi. Sau khi đào
về, gọt bỏ vỏ ngồi, chặt nhỏ, rồi phơi hay sấy khơ. Lưu giữ trong một năm
rồi mới đem dùng.

1

1


1
2
+ Một số tên gọi khác: Cây có nhiều ở vùng Tứ xuyên Trung Quốc, nên
gọi là Xuyên đại hoàng, Xuyên Quân, Xuyên văn [90], [95].
+ Đại hoàng (Rheum officinale Baill) ở Trung Quốc gọi là Chưởng diệp
đại hồng, đó là cây thảo mộc sống lâu năm, thân hình trụ trong rỗng, cao độ
1m, ngồi nhẵn. Rễ phình thành củ màu vàng, sẫm, mùi thơm hăng. Lá mọc
so le, có cuống dài, phiến lá hình tim to bằng cái quạt, đầu nhọn, mép khía
răng thưa và sâu. Hoa mọc thành chùm dài màu tím. Quả bế 3 cạnh [78], [90].
+ Cây mọc hoang ở Trung Quốc và ở một số nước châu Âu. Người ta
cho rằng loại §ại hồng ở Trung Quốc có chất lượng tốt hơn. Cây ưa khí hậu
ẩm mát ở những vùng cao trên 1.000 m (so với mặt nước biển). Ở nước ta §ại
hồng có thể trồng và thu hoạch được ở Sa Pa, Đà Lạt. Sau 3 năm thu hoạch
vào tháng 9 -10. Khi thu hoạch đào cả cây, cắt bỏ thân chồi, rễ con, lấy củ,
cạo vỏ ngoài, rửa sạch, để nguyên củ hay bổ đôi phơi khô. Đặc biệt không nên
dùng dao sắt thiếc để cạo vỏ ngồi, vì như thế sẽ biến củ §ại hồng thành màu
đen [77].
+ Thân rễ (Radix et Rhizoma Rhei - còn gọi là củ) lớn dài 5 - 17cm có
khi lớn hơn nữa, rộng 4 - 10cm, dày 2 - 4cm hoặc khoanh trịn, trên mặt có
bụi màu vàng đẹp, chắc cứng và thơm gắt, cắt ra trơn nhánh, cắn dính vào
răng là tốt. Tùy theo loại, có thứ mềm đầu có màu vàng đen có thứ thịt khơ ít
dầu. Loại dầu nhiều bóng là tốt [85].
+ Do có chức năng thay cũ đổi mới như dẹp loạn nên gọi là Tướng quân.
+ Khi cắt ra thấy có vân như gấm (là loại tốt) nên gọi là Cẩm văn đại hồng.
* Tính vị, cơng năng: Đại hồng có vị đắng, tính hàn, vào 5 kinh tỳ,
vị, can, tâm bào và đại tràng, có tác dụng thơng đại tiện, tiêu tích trệ, phá ứ
huyết, kết báng ở bụng.

* Thành phần hóa học:
+ Rhein, Aloe-Emodin, Emodin, Physcion, Chrysophanol.

1
2


1
3
+ Physcion-8-O-Glucoside, Aloe-Emodin-8-O-Glucoside, Chrysophanol-8O-Glucoside, Emodin-1-O-Glucoside, Emodin-8-O-Glucoside, Chrysophanol-1-OGlucoside, Rhein-8-O-Glucoside.
+ Rheinoside A, B, C, D.
+ Palmidin A, B, C, Sennidin A, B, C, Reindin A, B, C, Sennoside A,
B, C, D [64], [80], [81], [85].
* Các nghiên cứu về §ại hồng:
+ Tác dụng dược lý:
- Chất gây tiêu chảy của Đại hoàng là Anthraquinone. Tác dụng chủ
yếu là ở đại trường, thuốc làm cho trương lực của đoạn giữa và cuối đại
trường tăng, nhu động ruột tăng, nhưng không trở ngại cho việc hấp thu chất
dinh dưỡng của tiểu trường. Nhưng trong Đại hồng có chất Tanin vì thế sau
khi tiêu chảy hay bÞ táo bón. Hoặc liều nhỏ (ít hơn 0,3g/kg) thường gây táo
bón [49].
- Tác dụng lợi mật: Nước sắc đại hồng làm tăng co bóp túi mật, giãn
cơ vịng Oddi khiến mật bài tiết.
- Tác dụng cầm máu: đại hồng có tác dụng cầm máu, rút ngắn thờỉ
gian đơng máu, làm giảm tính thẩm thấu của mao mạch, cải thiện độ bền của
thành mạch, làm tăng Fibrinogene trong máu, làm mạch máu co thắt tăng,
kích thích tủy xương tạo tiểu cầu, nhờ đó làm tăng nhanh thời gian đơng máu.
Thành phần cầm máu chủ yếu là chất chrysophanol.
- Tác dụng kháng khuẩn: §ại hồng có tác dụng kháng khuẩn rộng, chủ
yếu đối với tụ cầu, liên cầu, song cầu khuẩn lậu, trực khuẩn bạch hầu, trực

khuẩn thương hàn, phó thương hàn, kiết lỵ. Thành phần ức chế vi khuẩn chủ
yếu là dẫn chất của anthraquinone. Thuốc cũng có tác dụng ức chế một số
nấm gây bệnh và virút cúm.
- Nước sắc §ại hồng cho chó gây mê uống, gây hạ áp. Liều nhỏ của
đại hồng kích thích tim ếch, liều lớn ngược lại, có tác dụng ức chế.

1
3


1
4
- Thành phần Emodin và Rhein trực tiếp ức chế sự sinh trưởng của tế
bào ung thư của Melanoma, ung thư vú và ung thư gan kèm trướng nước ở
bụng chuột.
- Nước sắc §ại hồng có tác dụng lợi tiểu, bảo vệ gan và giảm
Cholesterol máu đối với thỏ thực nghiệm. Tuy nhiên với chuột bạch thường
thì khơng thấy có có tác dụng này [2], [12],[76],[86].
+ Mét sè bài thuèc sử dụng vị thuốc đại hoàng:
Trong y hc c truyn và y học hiện đại, Đại hồng ít khi dùng liều
nhỏ. Liều vừa phải chữa kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, đau bụng, tả lỵ, bế
kinh ngày dùng:0,5 - 1g thuốc bột, thuốc viên, hoặc đến 2g dạng thuốc sắc.
Liều cao là thuốc tẩy nhẹ dùng cho người đầy bụng, đại tiện bí, hồng đản
nặng ngày dùng: 3 - 10g sắc uống, thường phối hợp với các vị thuốc khác
như chỉ thực, hậu phác, hoàng liên, mang tiêu. Dùng ngoài trị nấm da, hắc
lào.
- Đối với những trường hợp lợi tiểu, chống xuất huyết tiêu hố, thường
khơng dùng riêng §ại hoàng mà phối hợp với nhiều vị thuốc khác.
- Khi dùng bơi tại chỗ có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm.
- Chữa đau bụng, bí đại tiện, nơn mửa: Đại hồng 7g, cam thảo 4g, sắc uống

vào lúc đói ("Đại hoàng cam thảo thang") đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh.
- Chữa bị thương, ứ máu, viêm gan, tắc mật: Đại hoàng tẩm rượu sao,
tán bột. Ngày uống 2 - 4 lần, mỗi lần 2 - 3g.
- Chữa viêm miệng, sưng lợi răng: Đại hoàng sắc đặc ngậm rồi nhổ đi.
- Chữa nấm, hắc lào, sưng tấy: Đại hoàng 10g, giấm 5ml, rượu 50ml.
Ngâm trong 10 ngày, dùng bôi.
- Chữa bỏng hoặc bong da nứt nẻ: Đại hoàng tán thành bột, gói vào vải
thưa, nhúng vào dầu vừng, bơi rồi xoa.

1
4


1
5
- Chữa chứng huyết trệ, kinh bế và sản hậu ứ huyết, bụng dưới đau: Đại
hoàng 12g, Đào nhân 12g, Miết trùng 4g, sắc uống
- Điều trị đau răng do vị hỏa: Ngậm ngụm nước, lấy giấy cuộn thành
ống chứa bột Đại hoàng, thổi vào mũi bên đau.
- Chữa chứng răng đau do phong nhiệt: Đại hoàng bỏ vào trong bình,
đốt cháy tồn tính, rồi tán bột bơi vào chỗ răng đau.
- Chữa chứng chảy máu chân răng, miệng hôi: Đại hoàng ngâm với
nước vo gạo cho mềm, Sinh địa hồng, hai thứ đều xắp vịng quanh 1lớp, hợp
cả hai thứ dán lên chỗ đau.
- Điều trị miệng lở loét: Đại hồng, Khơ phàn, 2 vị bằng nhau, tán bột
bơi lên chỗ loét.
- Chữa chứng lở loét mũi: Sinh địa hồng, Hạnh nhân đều giã nát, trộn
với mỡ heo, bơi vào.
- Điều trị vết đứt da, đau nhức, táo bón: Đại hoàng, Hoàng cầm tán bột,
2 vị bằng nhau, luyện viên với mật. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên, trước

bữa ăn.
- Chữa vết thương bầm dập: Bột Đại hồng trộn với giấm bơi.
- Điều trị mụn nhọt: bột Đại hồng, trộn với dấm, dùng bơi ngồi da.
- Chữa viêm tuyến sữa: Đại hoàng, Phấn thảo, mỗi thứ 40g, tán bột, nấu
với rượu thành cao để dán.
- Điều trị chứng bỏng nóng: Đại hồng nghiền thành bột, trộn mật, bơi
có tác dụng giảm đau, liền sẹo [86], [88], [89].

1
5


1
6
1.5.2. Cây khế (Ngũ liễm tử, Dương đào)

Hình 1.2. Cây khế (Averrhoa Carabola. L)
* Tên khoa học: Averrhoa Carambola. L. Thuộc họ chua me đất
(Oxalidaceae).
* Bộ phận dùng: Lá vỏ cây thu hái quanh năm. Lá dùng tươi, vỏ cây
sao vàng. Hoa, quả thu hái vào mùa hạ, thu, dùng tươi. Để làm thuốc, người ta
chỉ dùng cây khế chua [2], [12], [90]. Tất cả các bộ phận của cây khế, kể cả
cây tầm gửi sống ký sinh trên đó, đều được dùng chữa bệnh.
* Tính vị, cơng năng: Lá khế vị chua chát, tính bình, có tác dụng thanh
nhiệt, mát huyết, tiêu viêm, lợi tiểu.
* Thành phần hóa học: protein, carbohydrat, có các chất đường, acid
oxalic, vitamin A, B1, B2, P...

1
6



1
7
* Các nghiên cứu về cây khế:
+ Tác dụng dược lý:
- Tác dụng kháng histamin.
- Tác dụng chống sốc phản vệ.
- Tác dụng trên ký sinh trùng sốt rét.
+ Mét sè bài thc sư dơng khÕ chua:
- Lá khế chữa lở sơn, dị ứng, mày đay, cảm nắng, sổ mũi, sốt, ho, sốt xuất
huyết, đái buốt, đái ra máu, mụn nhọt, viêm tiết niệu, âm đạo, ngộ độc. Ngày 20 40g hoặc hơn, sắc uống.
- Hoa khế chữa trẻ em kinh giản, ho gà, thận hư, kém tinh khí. Ngày 8 16g, hãm với nước sôi, uống.
- Quả khế chữa ho, viêm họng, sổ mũi, dị ứng, lở sơn, thúc sởi, bí đái, lách
to sinh sốt (sốt rét), chữa scorbut. Ngày 20 - 40g hoặc hơn, sắc uống.
- Vỏ thân, vỏ rễ cây khế chữa đau khớp, đau đầu mạn tính, viêm dạ dày,
ruột, đái ít, trẻ lên sởi, ho, viêm họng. Ngày 8 - 16g hoặc hơn, sắc uống.
- Chữa lở sơn: Lá khế tươi được dùng riêng 40g hoặc phối hợp với lá
muồng truổng, mỗi thứ 20g, giã nát gói vào vải sạch, đắp lên chỗ lở sơn. Có
thể dùng quả khế giã nát, đắp.
- Chữa dị ứng, mày đay, mẩn ngứa, lở loét:
. Lá khế giã nát, xoa và đắp lên chỗ bị dị ứng; kết hợp dùng 16g vỏ núc
nác, sắc uống.
. Lá khế, lá thanh hao, lá long não, lá thông, mỗi thứ 15 - 20g, nấu nước tắm.
- Phòng sốt huyết trong thời gian có dịch: Lá khế 16g, lá dâu 12g, sắn
dây 12g, lá tre 12g, mã đề 12g, sinh địa 12g, sắc uống thay nước hàng ngày.
Khi bị sốt xuất huyết, nếu có mẩn ngứa cũng dùng lá khế sắc uống, hoặc thêm
lá khế vào bài thuốc dùng chữa sốt xuất huyết.

1

7


1
8
- Thuốc thúc sởi, làm sởi chóng mọc và mọc đều. Quả khế thái lát phơi
khô 20g, rau dệu 20g, lá nọc sởi 20g, canh châu 20g, sao vàng hạ thổ, sắc chia
làm 2 lần uống trong ngày. Có thể dùng vỏ cây hoặc vỏ rễ, cạo bỏ vỏ ngoài và
vỏ xanh, ngày 20 - 40g, sao vàng, sắc uống [2], [82], [83], [87].
- Chữa cảm nắng: Lá khế tươi 20g, lá chanh 10g, giã nát, vắt lấy nước uống.
- Chữa sốt cao lên kinh giật ở trẻ em: Hoa khế 8g, hoa kim ngân 8g, lá
dành dành 8g, cỏ nhọ nồi 8g, cam thảo 4g, bạc hà 4g. Sắc đặc chia nhiều lần
uống trong ngày.
- Chữa ho, ho suyễn trẻ em, ho gà, ho đờm, viêm họng:
. Hoa khế 13g, tẩm nước gừng rồi sao, sắc uống.
. Lá khế 20g, rửa sạch, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày.
. Quả khế tươi 60 - 80g, ép lấy nước uống.
. Vỏ thân cây khế, cạo hết vỏ ngoài và vỏ xanh, thái nhỏ, sao vàng 20g,
sắc cùng với rễ cây đơn châu chấu 8 - 12g, trần bì 4g, uống trong ngày.
- Chữa đái buốt, đái ra máu, viêm bàng quang, âm đạo: Lá khế 80g, rễ
cỏ tranh 40g, sắc uống.
- Chữa đái không thông: Dùng 7 quả khế chua, cắt mỗi quả lấy 1/3 phía
cuống, đổ vào một bát nước, sắc còn nửa bát, uống khi còn ấm. Kết hợp lấy
một quả khế và một củ tỏi giã nát, đắp vào rốn (Nam dược thần hiệu).
- Chữa ngộ độc nấm, rắn cắn: Lá khế 20g, lá hoặc quả đậu ván 20g, lá
lốt 10g (có hoa càng tốt), dùng tươi, giã nát, hồ với 200ml nước đun sơi để
nguội, chắt lấy nước uống hết một lần. Dùng 2 - 3 lần. Nếu là rắn cắn, bã đắp
vào vết cắn. Có thể dùng lá khơ, lượng bằng nửa, sao qua cho thơm, rồi sắc
uống. Dùng 2 - 3 lần.
- Chữa sốt rét, sốt kèm lách to: Lá khế, lá vối, rễ đu đủ, lá ngâu, rễ cỏ

xước, mỗi vị 20g, sắc uống.
- Phòng bệnh cho phụ nữ sau khi đẻ: Quả khế 20g, vỏ cây hồng bì 30g,
rễ cây quả giun 20g, sắc uống thay nước.

1
8


1
9
1.5.3. Rau má (Tích tuyết thảo)

Hình 1.3. Rau má (Centella asiatica)
* Tên khoa học: Centella asiatica (L.) Urban
* Bộ phận dùng: Tồn cây, dùng tươi hoặc phơi, sấy khơ.
* Tính vị, cơng năng: Rau má có vị đắng hơi ngọt, mùi thơm, tính mát,
có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu viêm, sát trùng, cầm máu,
nhuận gan.
* Thành phần hoá học:
Rau má chứa những hợp chất thuộc nhiều nhóm hố học khác nhau:
Triterpen, tinh dầu, các hợp chất polyacetylen, Flavonoid, Steroid, dầu béo,
acid manin...
* Các nghiên cứu:
+ Tác dụng dược lý:
- Hoạt chất asiaticosid của rau má đã được chứng minh có hiệu quả
trong điều trị bệnh phong, do làm tan bao bằng chất giống sáp của trực khuẩn
phong; trực khuẩn trở nên mỏng manh và dễ bị phá huỷ. Khi tiêm dung dịch
thuốc, các u nhỏ của bệnh nhân phong bị vỡ ra, những thâm nhiễm lan toả

1

9


2
0
mất đi, những vết loét thủng và những thương tổn ở ngón tay lành lại, đặc biệt
những tổn thương ở mắt khỏi nhanh chóng nếu tiến hành điều trị trước khi
hốc sau của mắt bị tổn thương. Asiaticosid và oxy-asiaticosid (thu được do
oxy hoá asiaticosid) được dùng điều trị một số thể bệnh lao [17], [77].
- Rau má có tác dụng chống phù thực nghiệm do kaolin, tương đương
với aspirin. Thuốc mỡ rau má có tác dụng kích thích tái tạo tổ chức tế bào và
điều chỉnh quá trình lên sẹo của vết thương do gây bỏng thực nghiệm cho thỏ.
Thuốc có hiệu lực tốt trong điều trị các tổn thương bỏng nông xen kẽ bỏng
sâu. Ở vết bỏng, phát triển tổ chức hạt, lên da non và liền sẹo tốt. Thuốc
khơng có tác dụng loại trừ tổ chức hoại tử bỏng và khơng có tác dụng kháng
khuẩn với dạng thuốc đã dùng.
- Rau má có tác dụng làm giảm nhẹ cơn dị ứng khó thở ở chuột lang đã
được tiêm kháng nguyên để gây mẫn cảm, sau đó gây cơn dị ứng khó thở
bằng cách đưa kháng nguyên vào đường hơ hấp trong buồng khí dung (kéo
dài thời gian an tồn hoặc hạ thấp tỷ lệ chuột chết); có tác dụng chống co thắt
phế quản chuột lang, kéo dài thời gian an tồn, làm chậm xuất hiện triệu
chứng khó thở ở chuột đặt trong buồng khí dung histamin; kháng lại độc lực
của nọc rắn, nâng cao tỷ lệ sống; kéo dài thời gian cầm cự của chuột đã tiêm
nọc rắn hổ mang[2], [79], [83].
- Nước sắc rau má, qua phân tích bằng sắc ký lớp mỏng, thấy có một số
vết chất có tác dụng chống oxy hố trong ống kính.
- Nước sắc có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn mủ xanh và tụ
cầu khuẩn vàng. Rau má có tác dụng kháng Entamoeba histolytica trong ống
kính và trên cơ thể sống, chống co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi
acetylcholin và histamin.


2
0



×