Nghịch lí trong truyện ngắn Bến quê của
nhà văn NGUYỄN MINH CHÂU
Truyện ngắn Bến quê ( in trong tập truyện ngắn cùng tên, xuất bản năm 1985)
được xây dựng trên một nghịch lí khác, nghịch lí trong đường đời và cuộc đời của
Nhĩ, nhân vật chính. Nhĩ là người đã đi đến không sót một xó xỉnh nào trên trái đất
nhưng chẳng may mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo buộc phải dán chặt tấm thân
trên chiếc phản gỗ và một lần được vợ đỡ ngồi dậy anh chợt nhận ra rằng cái bãi bồi
bên kia sông anh chưa đặt chân đến bao giờ. Một nỗi thèm khát kì lạ đã đến với anh:
anh muốn chiếm lĩnh cái không gian liền kề này nên đã nhờ Tuấn– đứa con trai học
đại học tại một thành phố phía Nam vừa mới nghỉ hè trở về– thay anh đặt bước chân-
vật chất thám hiểm bến sông . Anh muốn tận hưởng cái cảm giác “ chậm rãi đặt từng
bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa” ấy.
Từ lúc đứa con trai lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang gác, anh hồi hộp, gắng
gom góp sức tàn để theo dõi con đò mỗi ngày một chuyến đang chống sào tách khỏi
chân bãi bồi bên kia để sang bên này và anh cũng kịp nhận ra rằng , thằng Tuấn con
anh đã chậm chân vì nách vẫn kè kè cuốn sách dịch và mải sa vào một đám người
chơi phá cờ thế trên hè phố. Thời gian được anh tính từng cái tích tắc, thế mà thằng
Tuấn có hiểu được anh đâu. Nhưng làm sao hiểu được khi nó chưa đối diện với sự
ngắn ngủi nghiệt ngã của thời gian như anh. Anh ‘ nghĩ một cách buồn bã, con người
ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình,
vả lại nó đã thấy có gì đáng gọi là hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh
là người từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết vẻ
giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những
nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn
với nỗi ân hận đau đớn, bởi lẽ không bao giờ giải thích hết.”
Đường đời của nhân vật Nhĩ quả là đã được đo bằng các đơn vị lớn lao bằng
vùng , miền , quốc gia , châu lục, đại dương và nhiệm vụ anh phải đảm nhiệm hẳn là
rất quan trọng mang tầm quốc gia , dân tộc. Vậy mà giờ đây, anh phát hiện ra cái
không gian trước mắt không quá một tầm nhìn từ cửa sổ nhà anh – chứ không hề là
cái không gian vũ trụ trong tư thế “đăng cao , vọng viễn” gì cả, anh cũng không phải
là người li hương gần suốt cả cuộc đời như Hạ Tri Chương xưa kia tóc đã điểm sương
mới về quê cũ – mà lại xa lạ với cái gần gũi đến mức tự trách sao mình chưa đặt chân
đến đó bao giờ. Trong tâm lí nhân vật, đây không phải là trạng thái nặng nề của sự cắn
rứt lương tâm vì không có một dòng nào trong truyện phủ nhận những gì anh đã trải
qua, đã sống và hiến dâng cho sự nghiệp chung. Đây chỉ là một niềm hối tiếc pha chút
ân hận: sao trong những năm tháng trải bước khắp mọi phương trời, ta lại không một
lần ngoái về để nhìn ra được vẻ đẹp của những gì thân quen , gần gũi nhất, nơi đã sinh
ra ta , nuôi ta lớn thành người và sẽ là nơi ta nằm xuống mãi mãi trong lòng đất mẹ.
Đó là bước thức nhận của tâm hồn và trí tuệ trên lộ trình dài dặc quanh co của đường
đời .
Con người ấy , giờ đây muốn nằm , muốn ngồi đều cần sự nâng đỡ của vợ, con
và những người hàng xóm đầy cảm thông và tốt bụng. Nhân vật đã thực hiện những
phép so sánh đầy nghịch lí : “ Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang,
Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên
ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất– trong một
chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La tinh hai năm trước. Anh vẫn chưa nhích đến
được bên bậu cửa sổ. Anh phải nhờ bọn trẻ con nhà tầng dưới để đi hết “ nửa vòng trái
đất” còn lại– từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm
phục phân để dõi nhìn ‘cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” xem nó
có kịp chuyến đò ngang duy nhất trong ngày không?
Cuộc đời Nhĩ, chưa phải là dài nhưng tuyệt đối không quá ngắn . Bằng chứng
là thằng Tuấn – đứa con thứ hai của anh đã vào đại học tròn năm nhưng đến bây giờ là
lần đầu tiên Nhĩ mới để ý thấy vợ mình – Liên– đang mặc tấm áo vá. Cảm thức mỗi
ngày trôi qua với anh thật dài dằng dặc :
“ Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi em nhỉ?”
“ Anh cứ yên tâm. Vất vả , tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm
lo cho anh được”
Trong cảm thức của anh, thời gian còn lại thật vô cùng ngắn ngủi: “ Không
khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày”. “ Anh đang cố thu nhặt
hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một
cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát– y như đang khẩn thiết ra hiệu cho
một người nào đó. Giây phút ấy ở Nhĩ còn khẩn cấp hơn cả tiếng gọi đò trên bến vắng
My Lăng tự thuở nào: “ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi run rẩy cả
ngành trăng” ( bến My Lăng – Yến Lan).
Quá trình tâm lí tư tưởng ấy diễn biến trong cái không gian nhỏ hẹp của tấm
phản, căn phòng, khung cửa sổ. Bến sông quê cạnh nhà gần gũi thế nhưng sao mà xa
cách trong tâm thế phát hiện lần đầu với nỗi vô vọng bất lực của nhân vật. Nó là
không gian vi mô hiện lên trước cái nhìn cận cảnh trong sự đối sánh đầy chất đối
nghịch với không gian vĩ mô tạo bỡi cái nhìn xa vào những chân trời quá khứ:
“– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười nhất định anh đi
lại được
– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh
một chuyến
– Đi thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy
đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một
bậc…hoặc giả anh lại khoẻ hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc
– Ừ , tưởng gì…nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu
thang”
Cùng với không gian ấy là sự đối chứng của thời gian thực tại ngắn ngủi– đời
thường với thời gian đời người mà Nhĩ đã trải qua. Cái Bến quê được đặt trong tương
quan không – thời gian đó. Nó là tất cả những phát hiện ấm áp tình người, tình đời của
nhân vật mà cũng là của tác giả trước những gì thân quen nhất , thân yêu nhất, những
gì hồn nhiên, gần gũi nhất, những gì là giàu có, đẹp đẽ nhất, thuần phác nhất và cổ sơ
nhất của mảnh đất sinh thành ra ta và sẽ nhận ta về khi nhắm mắt xuôi tay.
Bến quê theo ý nghĩa đó là một nhận thức sáng ngời của nhân vật về đường đời
và cuộc đời. Nhưng thật oái oăm chính khi anh thức nhận ra được chân lí ấy thì anh lại
không còn khả năng để thực hiện. Đó là sự bất lực của thực tiễn trước khát vọng đẹp
đẽ lành mạnh như một yêu cầu tất yếu. Người đọc trân trọng Bến quê, trân trọng
những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh
ở mọi người hãy trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của
quê hương.