Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn thi hành tại thành phố hạ long, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.38 KB, 80 trang )

ix

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tại luận văn: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân qua thực tế thi hành tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh”.
1. Kết quả đạt được của Luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy
định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như: Khái niệm về đất
phi nông nghiệp; khái niệm và căn cứ để Nhà nước thu hồi đất; khái niệm và đặc
điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; khái niệm, đặc điểm và nội
dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, cá nhân, bào gồm: (i). Nguyên
tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (ii). Căn cứ để bồi thường
và cách tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (iii). Trình tự,
thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN (iv). Giải quyết khiếu
nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của các HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong quá
trình thực thi pháp luật;
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN.



x

- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong cơng tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của các HGD, CN trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cũng là tài liệu tham khảo cho
các cơ quan cấp tỉnh nói chung trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công
tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện nơi ở
lẫn tư liệu sản xuất. Ở nước ta, Hiến pháp quy định đất đai là tài sản cơng thuộc sở
hữu tồn dân và Nhà nước là người quản lý. Dựa vào quy định của pháp luật, Nhà
nước cho dân quyền SDĐ. Từ khi chính thức giao đất cho người dân nói chung và
HGĐ, CN nói riêng, Nhà nước đã tuyên bố bảo hộ quyền SDĐ của họ. Tuy nhiên,
trong q trình phát triển kinh tế nói chung, CNH, HĐH nói riêng, trên lãnh thổ
nước ta đã, đang và sẽ có hàng ngàn dự án đầu tư xây dựng chiếm đất ở và đất sản
xuất của HGĐ, CN. Sự xuất hiện của các cơng trình này là tất yếu bởi chúng cần
thiết cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện chung, nhưng HGĐ, CN bị thu
hồi đất thì bị thiệt thịi và cuộc sống bị xáo trộn.
Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, trong những năm gần đây Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất. Điều này đã giúp cho HGĐ, CN bị thu hồi đất bước đầu ổn định, trở lại
cuộc sống. Mặc dù Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban
hành, được sửa đổi thường xuyên trong những năm vừa qua, trên thực tế việc áp
dụng những quy định này đang gặp phải rất nhiều vướng mắc như: Điều kiện được

bồi thường, giá trị được bồi thường về đất, nhà ở và các tài sản trên đất, các vấn đề
về tái định cư tái định cư và điều kiện sinh hoạt của người dân phải di dời, các vấn
đề phát sinh sau khi thực hiện các chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc áp dụng các
quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại nhiều địa phương
trong thời gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động, thiếu sự linh hoạt và thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh không phải là ngoại lệ.
Nằm trong bối cảnh chung đó, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh cũng
gặp nhiều khó khăn khi thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy công tác bồi thường trong những năm gần đây ở thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh đã được cải thiện hơn trước rất nhiều, nhưng cả trong nội dung của
pháp luật lẫn trong việc tổ chức thực thi pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc. Tình


2

trạng này nếu như không được khắc phục sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
HGĐ, CN có đất bị thu hồi và làm mất lòng tin của họ. Vì thế, việc tìm kiếm các
giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là vấn đề quan trọng đối với thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Tuy
nhiên, để có những giải pháp phù hợp thì cần có sự nghiên cứu vấn đề này một cách
cụ thể.
Với ý nghĩa đó, người viết đã chọn vấn đề “Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân qua thực tế thi hành tại
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” để làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có
thể đề cập đến một số cơng trình, bài báo tiêu biểu sau đây:
Năm 2007, đề tài NCKH cấp Bộ (do Viện nhiên cứu khoa học pháp lý – Bộ

Tư pháp phối hợp với Bộ Tài nguyên môi trường thực hiện) đã được nghiệm thu với
tiêu đề “Xây dựng cơ chế pháp lý để bảo vệ đất nơng nghiệp trong điều kiện cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Đề tài này phân tích thực trạng cơ chế pháp lý về bảo vệ
đất nông nghiệp với tư cách là một nguồn tài nguyên, từ đó lồng ghép các nhiệm vụ
bảo vệ môi trường đất nông nghiệp trong quá trình quy hoạch, khai thác, sử dụng và
chuyển đổi mục đích sử dụng. Tuy nhiên, đề tài này khơng đề cập đến vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2008, tác giả Phan Thúy Hiền có bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp (số 12/2008) có tên gọi “Cơ sở hiến định về thu hồi đất vì mục đích cơng
cộng ở Việt Nam”. Trong đó, tác giả này đã phân tích và làm rõ các quy định của
Hiến pháp Việt Nam liên quan đến quyền thu hồi đất vì mục đích cơng cộng ở Việt
Nam. Mặc dù hiện nay là Hiến pháp năm 2013 nhưng những phân tích về cơ sở về


3

thu hồi đất vì mục đích cơng cộng vẫn có giá trị về mặt lý luận để người viết thực
hiện luận văn.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Thị Nga có bài viết đăng trên Tạp chí Luật học
(số 11/ 2010) với tiêu đề “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và
giải phóng mặt bằng và những vướng mắc trong q trình áp dụng”. Trong đó, tác
giả phân tích nội dung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung theo quy
định của Luật Đất đai 2003 và chỉ ra những bất cập. Tuy nhiên, đến nay những bất
cập đó đã được sửa đổi trong Luật Đất đai năm 2013.
Năm 2013, đề tài NCKH cấp trường (do TS. Nguyễn Thị Nga làm chủ
nhiệm) về “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất –
thực trạng và hướng hoàn thiện”. Đề tài đã cung cấp bức tranh khá sinh động của
những vụ việc phát sinh có thật trong thực tế, đồng thời thể hiện những vướng mắc,
những câu hỏi mà bản thân pháp luật hiện hành chưa có lời giải. Các kinh nghiệm
thực tiễn của quá trình tổ chức thực thi pháp luật cũng được phân tích, làm sáng tỏ

trong đề tài này. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này phân tích thực trạng pháp luật nói
chung, khơng phân tích về thực trạng thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Bên cạnh đó, cịn có một số bài báo khoa học liên quan đến đề hướng nghiên
cứu của Luận văn được cơng bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành như: TS.
Trần Quang Huy với bài viết “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” đăng
trên Tạp chí Luật học (số 10/2010); TS. Nguyễn Quang Tun có bài viết “Cơng
khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất” đăng trên Tạp chí
Luật học (số 3/2012); năm 2013, TS. Dỗn Hồng Nhung công bố cuốn sách chuyên
khảo “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”
(do NXB Tư pháp xuất bản). Bên cạnh đó cịn có các CTNC tiêu biểu như: chun
đề “Bình luận và góp ý đối với các uy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi” do PGS. TS Nguyễn Quang Tuyến (đăng
trong Hội thảo Khoa học “Góp ý Dự thảo Luật đất đai sửa đổi” (tại Đại học Luật Hà
Nội năm 2013).


4

Các cơng trình NCKH của các tác giả nói trên là nguồn tài liệu quý giá để tác
giả Luận văn tham khảo khi thực hiện Luận văn này về các vấn đề như: cơ sở lý
luận, các quy định của pháp luật và thực tế áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của HGĐ, CN. Tuy nhiên, chưa có cơng rình nào nghiên cứu cụ
thể pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN từ thực trạng áp
dụng tại thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh. Do đó, đây là Luận văn Thạc sĩ Luật
học đầu tiên nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN và

phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại địa
bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quản Ninh và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của các HGD, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích thực trạng pháp luật để chỉ ra những bất cập của pháp luật trong
các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích thực trạng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình,
cá nhân.


5

4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến việc Nhà
nước thu hồi đất và việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn còn bao gồm cả các quy định của pháp luật
Việt Nam về bồi thường nói chung và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói
riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có nội dung rất
rộng, bao gồm vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nơng nghiệp có những quy định rất riêng biệt. Do đó, trong phạm vi của Luận văn,
Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông
nghiệp của HGĐ, CN; không nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp. Liên quan đến đất phi nông nghiệp, pháp luật đất đai chia ra nhiều
loại đất khác nhau như: Đất ở, đất sử dụng vào mục đích quốc phịng, đất sản xuất,
đất sử dụng vào mục đích cơng cộng,… và việc thu hồi những loại đất này đều có
những điểm riêng. Tuy nhiên, Luận văn khơng phân tích từng điểm riêng đó mà chỉ
nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp nói chung.
Khi nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông
nghiệp của HGĐ, CN, Luận văn chỉ phân tích 4 vấn đề là: (i). Nguyên tắc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (ii). Căn cứ để bồi thường và cách
tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (iii). Trình tự, thủ tục
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN (iv). Giải quyết khiếu nại về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Về phạm vi không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định về
bồi thường cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng


6

tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh từ khi Luật đất đai năm 2013 có
hiệu lực đến nay. Khi đề xuất các giải pháp, các giải pháp mà luận văn đề xuất sẽ
được áp dụng từ nay cho đến năm 2025và xu hướng đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp hệ thống
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp. Ngồi
ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích các qui phạm
pháp luật nhằm làm rõ nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của HGĐ, CN, từ đó chỉ ra ưu điểm cũng như những bất cập trong pháp luật về

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn áp dụng tại thành phố hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh. Các phương pháp này được sử dụng cụ thể như sau:
Tại Chương 1, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp và phương pháp so sánh luật hoc được sử dụng để phân tích các quy
định của pháp luật nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất như: Khái niệm về đất phi nông nghiệp; khái niệm và căn cứ để Nhà
nước thu hồi đất; khái niệm và đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất; khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của HGĐ, CN.
Tại Chương 2, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương
pháp thống kê được sử dụng để phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
Tại Chương 3, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương
pháp hệ thống hóa được sử dụng để luận giải cho phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
6. Kết cấu của luận văn


7

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình
cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.


8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm về đất đai và phân loại đất đai
1.1.1. Khái niệm về đất đai
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất
đai là một diện tích cụ thể của bề mặt Trái Đất, gồm tất cả các cấu thành ngay trên
vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí, thổ nhưỡng, dáng địa hình, mặt nước, các lớp trầm
tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lịng đất, tập đồn động vật
và thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người trong
quá khử và hiện tại để lại.
Dưới góc độ Luật học, đất đai là một khoảng không gian trải dài vô tận từ
trung tâm trái đất tới vô cực trên trời và liên quan đến nó là một loạt các quyền lợi
khác nhau quyết định những gì có thể thực hiện được với đất. Khoản 1 Điều 3 Luật
Đất đai 2013 đưa ra định nghĩa về thửa đất như sau: “Thửa đất là phần diện tích đất
được giới hạn bởi ranh giới xác định trên thực địa hoặc được mô tả trên hồ sơ”.
1.1.2. Phân loại đất đai
Về phân loại đất đai, căn cứ vào mục đích sử dụng đất Điều 10 Luật Đất đai
năm 2013 phân loại đất thành 3 nhóm dưới đây:
Nhóm đất nơng nghiệp: Đất nông nghiệp là đất để phục vụ cho sản xuất nơng
nghiệp và một số mục đích khác. Nhóm này bao gồm các loại đất sau đây: (i). Đất
trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; (ii). Đất
trồng cây lâu năm; (iii). Đất rừng sản xuất; (iv). Đất rừng phòng hộ; đ) Đất rừng đặc
dụng; (v). Đất nuôi trồng thủy sản; (vi). Đất làm muối; (vii). Đất nông nghiệp khác
gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng

trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại
chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất
trồng trọt, chăn nuôi, ni trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí
nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh;


9

Nhóm đất phi nơng nghiệp: Bao gồm các loại đất sau đây: (i). Đất ở gồm đất
ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; (ii). Đất xây dựng trụ sở cơ quan; (iii) Đất sử dụng
vào mục đích quốc phịng, an ninh; (iv) Đất xây dựng cơng trình sự nghiệp gồm đất
xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp; đất xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, y tế,
giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao, khoa học và cơng nghệ, ngoại giao và cơng
trình sự nghiệp khác; (v) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản
xuất phi nơng nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khống sản; đất sản xuất vật liệu
xây dựng, làm đồ gốm; (vi). Đất sử dụng vào mục đích cơng cộng gồm đất giao
thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng hải, hệ
thống đường sắt, hệ thống đường bộ và cơng trình giao thơng khác); thủy lợi; đất có
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui
chơi, giải trí cơng cộng; đất cơng trình năng lượng; đất cơng trình bưu chính, viễn
thơng; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất cơng trình cơng cộng khác; (vii).
Đất cơ sở tơn giáo, tín ngưỡng; (viii). Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ,
nhà hỏa táng; i) Đất sơng, ngịi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; (ix). Đất
phi nông nghiệp khác gồm đất làm nhà nghỉ, lán, trại cho người lao động trong cơ
sở sản xuất; đất xây dựng kho và nhà để chứa nơng sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón, máy móc, công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đất xây dựng cơng
trình khác của người sử dụng đất khơng nhằm mục đích kinh doanh mà cơng trình
đó khơng gắn liền với đất ở;
Nhóm đất chưa sử dụng: Bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử

dụng.
Như vậy, ở Việt Nam, đất đai được chia thành 3 nhóm như trên, trong đó
nhóm đất nơng nghiệp và nhóm đất phi nơng nghiệp đã được quy định rõ. Nhóm đất
chưa sử dụng chưa được gọi tên cụ thể nhưng thực tế nếu có bất kỳ loại đất nào phát
sinh mà khơng thuộc 2 nhóm trên thì sẽ được phân vào nhóm đất chưa sử dụng.
Như đã xác định ở phần phạm vi nghiên cứu, Luận văn khơng phân tích việc Nhà
nước thu hồi đất thuộc nhóm đất nơng nghiệp mà chỉ nghiên cứu việc Nhà nước thu
hồi đất thuộc nhóm đất nơng nghiệp.


10

1.2. Khái niệm và căn cứ pháp lý để thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm về thu hồi đất
Theo Từ điển Luật học, thu hồi đất được hiểu là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thu hồi quyền SDĐ của người vi phạm quy định về SDĐ để Nhà nước
giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ SDĐ hợp pháp bị lấn chiếm.
Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng
đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng
cộng (Bộ Tư pháp, 2006) . Cách hiểu này chỉ cho biết nội dung của việc Nhà nước
thu hồi đất là khi người SDĐ vi phạm các quy định về SDĐ thì sẽ bị thu hồi quyền
SDĐ. Tuy nhiên, khái niệm này chưa chỉ ra bản chất pháp lý của việc Nhà nước thu
hồi đất.
Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đã đề cập vấn đề thu hồi
đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp bị
thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và điều 26 Luật Đất đai năm 1993).
Khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 4 Luật Đất đai
năm 2003: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý
theo quy định của Luật này”. Điểm mới của khái niệm này là đã nêu ra bản chất

pháp lý của việc Nhà nước thu hồi đất. Đó là quyết định có tính hành chính của Nhà
nước Điều này cũng có nghĩa là việc thu hồi đất cho thấy có bị tác động của Nhà
nước bằng biện pháp hành chính mặc dù vậy, khái niệm này vẫn chưa đầy đủ. Cách
định nghĩa này dẫn đến cách hiểu người SDĐ bị thu hồi chỉ là tổ chức hay UBND
xã, phường, thị trấn. Đồng thời, khái niệm này cũng chưa bao quát được các trường
hợp Nhà nước thu hồi đất trong thực tế.
Khoản 11 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 đưa ra khái niệm về Nhà nước thu
hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”. Khái niệm này có điểm tiến bộ là
nó nêu ra một cách hiểu có tính bao quát, ngắn gọn về việc Nhà nước thu hồi đất,


11

trong đó nhấn mạnh việc Nhà nước thu hồi quyền SDĐ của người vi phạm pháp
luật về đất đai hoặc người được Nhà nước trao quyền SDĐ. Trong khái niệm này
xuất hiện thuật ngữ trao quyền thay cho thuật ngữ giao quyền mà Luật Đất đai năm
2003 đã sử dụng. Tác giả Luận văn cho rằng thuật ngữ trao quyền đã thể hiện rõ bản
chất của việc Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước lấy lại đất vốn thuộc sở hữu
của toàn dân mà Nhà nước là đại diện CSH mà việc thu hồi là của Nhà nước –
quyền lực công cộng của Nhà nước với tư cách là bộ máy chính trị thay mặt tồn
dân quản lý tồn bộ đất đai.
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi đất như
sau: “Thu hồi đất là việc Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai, thu lại
đất và quyền sử dụng đất đã trao cho các chủ thể sử dụng đất khi các chủ thể này vi
phạm pháp luật hoặc theo các trường hợp khác do pháp luật quy định.”
1.2.2. Căn cứ pháp lý để thu hồi đất
Luật đất đai 2013 quy định các căn cứ để Nhà nước thu hồi đất với từng
nhóm đất thu hồi, cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, căn cứ để Nhà nước
thu hồi đất được Nhà nước quy định tại Điều 63 Luật đất đai 2013, cụ thể là: (i). Dự
án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật đất
đai 2013 (là các trường hợp mà Nhà nước quy định thuộc trường hợp thu hồi đất vì
mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng
cộng); (ii). Kế hoạch sử dụng đất, hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt; (iii). Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án.
Thứ hai, đối với trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai thì
việc thu hồi đất phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thấm
quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai (khoản 2 Điều 64 Luật đất đai
2013).


12

Thứ ba, đối với các trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc SDĐ theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người thì theo quy định
tại khoản 2 Điều 65 Luật đất đai 2013, việc thu hồi đất phải dựa trên các căn cứ sau:
(i). Văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết đã có hiệu lực pháp luật đối với
trường hợp thu hồi đất quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là
trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ, được Nhà nước
giao đất có thu tiền SDĐ mà tiền SDĐ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước bị giải
thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc khơng cịn nhu cầu SDĐ; người SDĐ
th của Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi
khác, giảm hoặc khơng cịn nhu cầu SDĐ); (ii). Giấy chứng tử hoặc quyết định
tuyên bố một người là đã chết theo quy định của pháp luật và văn bản xác nhận
khơng có người thừa kế của UBND cấp xã nơi thường trú của người để thửa kế đã
chết đó đối với trường hợp thu hồi đất quy định tại điểm b khoản 1 Điều 65 Luật đất
đai 2013 (là trường hợp cá nhân SDĐ chết mà khơng có người thừa kế); (iii). Văn

bản trả lại đất của người sử dụng đất đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản
1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất);
(iv). Quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất đối với trường hợp quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp đất được Nhà nước giao,
cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn); (v). Văn bản của cơ quan có thẩm
quyền xác định mức độ ơ nhiễm môi trường, sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người đối với trường hợp quy định tại
điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp đất ở trong khi
vực bị ô nhiễm môi trường và đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người).
Những quy định trên cho thấy, Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa rất rõ
các trường hợp bị thu hồi đất. Đây là 3 trường hợp thu hồi đất phi nông nghiệp và
trong mỗi trường hợp đó, pháp luật đã chỉ ra căn cứ pháp lý ràng để Nhà nước thu
hồi đất. Vì vậy, HGĐ, CN rơi vào các trường hợp này thì Nhà nước có đủ căn cứ
pháp lý để thu hồi đất. Tuy nhiên, trong các căn cứ để thu hồi đất nói trên, Nhà
nước chỉ bồi thường cho HGĐ, CN khi đất của HGĐ, CN bị thu hồi thuộc căn cứ


13

thứ nhất. Tức là họ chỉ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
1.3. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất
1.3.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại
gây ra”. Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ

thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong
lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi khi Nhà nước thu hồi đất được sử dụng với
nội dung đặc thù, riêng có.
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi
cho người bị thu hồi đất”. Khái niệm này chỉ xác định bồi thường về đất, trong khi
đó việc thu hồi đất không chỉ gây thiệt hại về đất, mà còn là những thiệt hại liên
quan đến quyền SDĐ, cơng trình xây dựng, vật kiến trúc, cây trồng, vật ni trên
đất, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe do áp lực căng thẳng, lo âu của người SDĐ.
Luật Đất đai năm 2013, (tại Khoản 12 Điều 3) quy định rằng: “Bồi thường về
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi
cho người sử dụng đất”. Giá trị quyền SDĐ là giá trị bằng tiền của quyền SDĐ đối
với diện tích đất xác định trong thời hạn SDĐ xác định. Tuy nhiên Luật Đất đai
không đưa ra khái niệm về quyền SDĐ. Khái niệm về quyền SDĐ được quy định
trong BLDS năm 2015 với ý nghĩa là tài sản, quyền tài sản. Theo đó, quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng, quyền
SHTT, quyền SDĐ và quyền tài sản khác (Điều 115 BLDS 2015).


14

Từ phân tích trên, có thể hiểu một cách đầy đủ về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của HGĐ, CN như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,
CN là việc Nhà nước trả lại giá trị bằng tiền quyền SDĐ đối với diện tích đất xác
định mà HGĐ, CN đã sử dụng đất trong một thời hạn đã được xác định nhằm bù
đắp lại những thiệt hại mà HGĐ, CN phải chịu do việc Nhà nước thu hồi đất gây ra.
1.3.2. Đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có 4 đặc điểm chủ
yếu như sau:
Thứ nhất, về đối tượng được bồi thường: Là HGĐ, CN có quyền SDĐ. Các

HGĐ, CN có quyền SDĐ là các HGĐ, CN được Nhà nước trao quyền SDĐ thông
qua việc Nhà nước ban hành quyết đinh giao đất để trao quyền SDĐ cho họ khi họ
có nhu cầu SDĐ.
Thứ hai, về căn cứ bồi thường: Chỉ khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích vì mục đích quốc phịng, an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, cơng cộng; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người thì HGĐ,CN sử
dụng đất mới được bồi thường.
Thứ ba, về giá đất bồi thường: Theo Luật Đất đai năm 2013, giá đất là giá trị
quyền SDĐ được tính trên một đơn vị diện tích đất. Và giá trị của quyền SDĐ là giá
trị bằng tiền của quyền SDĐ đối với diện tích đất xác định được sử dụng trong một
thời hạn nhất định.
Nhà nước chủ động trong việc xác định giá đất bồi thường dựa trên các căn
cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường trong điều kiện bình thường của
thửa đất.
Nguyên tắc chung về vấn đề bồi thường trong quá trình giải phóng mặt bằng
của nhà nước theo pháp luật đất đai là nhà nước thu hồi phần nào thì sẽ tiến hành
bồi thường phần đó. Bảng giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sẽ do UBND


15

tỉnh quy định phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở từng địa phương và quy hoạnh
đã được phê duyệt. UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể.
Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin
về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp
dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ
quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi
trình UBND cùng cấp quyết định. Hội đồng thẩm định giá đất gồm Chủ tịch UBND
cấp tỉnh làm Chủ tịch và đại diện của cơ quan, tổ chức có liên quan, tổ chức có chức

năng tư vấn xác định giá đất.
Mức bồi thường sẽ được tính dựa trên mục đích sử dụng đất và giá cụ thể của
từng loại đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Theo đó, về cơ bản, việc bồi
thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu
hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu
hồi đất (tại Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Thứ tư, các biện pháp tiến hành: Kết hợp biện pháp hành chính và biện pháp
thỏa thuận, thậm chí cả biện pháp cưỡng chế. Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế
thu hồi đất, trước khi tiến hành cưỡng chế, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định
thành lập Ban thực hiện cưỡng chế; Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết
phục, đối thoại với HGĐ, CN bị cưỡng chế, nếu HGĐ, CN bị cưỡng chế chấp hành
thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành.
Trường hợp HGĐ, CN bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế
thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế; Ban thực hiện cưỡng chế
có quyền buộc HGĐ, CN bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi
khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; nếu không thực
hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển HGĐ, CN bị cưỡng chế
và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế. Trường hợp HGĐ,
CN bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên


16

bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thơng báo
cho người có tài sản nhận lại tài sản.
1.3.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, việc đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội là việc làm tất yếu khách quan của bất kỳ quốc gia nào. Đặc
biệt đối với Việt Nam sau nhiều năm chiến tranh, Đảng và Nhà nước đang nỗ lực

chấn hưng đất nước, thu hẹp khoảng cách và sớm đuổi kịp các nước trong khu vực.
Để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải đầu tư xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống
các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Muốn vậy, Nhà nước phải có một quỹ
đất cần thiết, phù hợp. Tuy nhiên, Nhà nước khơng thể có đủ quỹ đất này nếu khơng
thực hiện việc thu hồi đất của người đang SDĐ trong đó có việc thu hồi của HGĐ,
CN. Song việc thu hồi đất chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước giải quyết tốt vấn
đề bồi thường, cho HGĐ, CN sử dụng đất nhưng bị thu hồi đất. Vì vậy, việc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có ý nghĩa rất quan trọng, đó là:
Thứ nhất, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN trước
hết là nhằm bảo đảm lợi ích công cộng
Thu hồi đất là biện pháp của Nhà nước nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật về
sử dụng đất giữa một bên là HGĐ, CN được trao quyền SDĐ và một bên là Nhà
nước với tư cách đại diện chủ sở hữu về đất đai. Thông qua việc thu hồi đất, Nhà
nước có được một quỹ đất cần thiết đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội đồng bộ; phát triển các cơ sở kinh tế, công nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh
doanh, khu đơ thị. Qua đó, làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư; kêu gọi sự
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Đồng thời, ở một mức độ nhất định, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của HGĐ, CN cũng góp phần gián tiếp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm tỉ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỉ trọng sản xuất cơng nghiệp, dịch
vụ. Khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, Nhà nước thực


17

hiện các biện pháp hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất trong việc đào tạo
chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Qua đó, góp phần rút bớt một lực
lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm việc trong khu vực sản xuất phi nông
nghiệp và dịch vụ.

Thứ hai, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải quyết hài
hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của HGĐ, CN bị thu hồi đất
Vì lợi ích chung, lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước thực hiện thu hồi đất
của HGĐ, CN sử dụng đất để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Điều này sẽ gây
ra những thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của HGĐ, CN bị thu hồi
đất. Nếu không thực hiện tốt việc bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất sẽ dẫn
đến tình trạng là trong khi các cơng trình phúc lợi được xây dựng trên những diện
tích đất bị thu hồi mang lại lợi ích cho số đơng dân chúng trong xã hội thì ở thái cực
ngược lại, HGĐ, CN bị thu hồi đất lại rơi vào tình trạng khó khăn về sản xuất và đời
sống do bị mất đất sản xuất hoặc bị mất nhà ở. Do đó, vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ về lợi ích của người bị thu
hồi đất với lợi ích của Nhà nước, của xã hội để vừa bảo đảm nhu cầu sử dụng đất
đai phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của HGĐ, CN sử dụng đất, bồi hoàn cho họ
những thành quả lao động, kết quả đầu tư bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Thứ ba, bồi thường góp phần vào việc duy trì ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội
Cho dù thu hồi đất để sử dụng vào bất kỳ mục đích gì thì đây cũng là hành vi
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi vật chất của HGĐ,CN sử dụng đất. Chính vì vậy,
thu hồi đất ln là vấn đề nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp
về lợi ích giữa Nhà nước, HGĐ, CN bị thu hồi đất và người được hưởng lợi từ việc
thu hồi đất (chủ đầu tư, các doanh nghiệp hoặc cộng đồng xã hội). Thực tế giải
quyết các tranh chấp, khiếu kiện từ việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất cho thấy nếu không giải quyết tốt việc bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất
nhằm giúp họ vượt qua khó khăn nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất thì sẽ


18

phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp với số đông người dân

tham gia. Đây là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh những bất ổn định về chính trị,
trật tự an tồn xã hội và dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động, lơi kéo nhân dân khơng
đồng thuận với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thu hồi đất để thực
hiện các dự án đầu tư, các cơng trình hạ tầng cơng cộng. phục vụ lợi ích của cộng
đồng. Do đó, thực hiện tốt bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có vai trị quan
trọng góp phần duy trì ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội; tránh nguy cơ nảy
sinh các xung đột xã hội.
1.4. Khái niệm và đặc điểm và cơ cấu của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân
1.4.1. Khái niệm về hộ gia đình, cá nhân
Theo Từ điển Luật học, thì hộ gia đình là “tập hợp nhóm người có quan hệ
hơn nhân, huyết thống và ni dưỡng”. Trên khía cạnh pháp lý, hộ gia đình có các
điều kiện sau sẽ có thể là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự (vay vốn, mua, bán, thuê,
mượn,…) với đặc điểm: các thành viên có tài sản chung; cùng đóng góp cơng sức
để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định.
Bộ luật Dân sự 2015 không đưa ra định nghĩa cụ thể về hộ gia đình. Bộ luật
Dân sự 2005 không định nghĩa trực tiếp thế nào là hộ gia đình, nhưng Điều 106 quy
định như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp cơng
sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia
quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Vậy hộ gia đình là chủ thể gồm các thành
viên có tài sản chung, cùng đóng góp để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, tức không phải mọi hộ gia đình đều là chủ thể trong pháp
luật dân sự, cũng như chủ thể hộ gia đình theo pháp luật dân sự không được tham
gia mọi hoạt động, mà chỉ trong các quan hệ sản xuất kinh doanh.
Bộ luật Dân sự 2015 không quy định tài sản chung của hộ gia đình theo
phương pháp liệt kê như Bộ luật Dân sự 2005 mà quy định tài sản chung của hộ gia




×