Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18a tại thành phố uông bí thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 88 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đất đai ln là nguồn tài nguyên quý giá của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu
sản xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên
việc quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả nhất ln là vấn đề mà Chính phủ của các
quốc gia quan tâm và được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đưa đất đai thực
sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các nhà đầu tư phát triển thì việc thu hồi
đất chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị
tập trung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, xây dựng cơ cấu đất đai hợp lý thực
sự cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tế việc thu hồi đất để thực hiện các dự án cho thấy
công tác bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư đang là một
vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế chính trị - xã hội.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước tiến lên theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ khi đất nước đổi mới đến nay nhiều khu đô
thị mới, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, nhiều tuyến đường... được hình
thành. Dựa trên nguồn vốn nội lực cùng với ngoại lực trợ giúp, Việt Nam đang dần
chuyển mình thay đổi với rất nhiều dự án được xét duyệt và thi công. Một trong
những những vấn đề được quan tâm hàng đầu là vấn đề bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án. Làm thế nào để đảm bảo lợi ích
giữa Người dân - Nhà nước - Nhà đầu tư và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết
sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng
đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã
hội hiện nay.



2

Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, nhận thức của người dân ngày
một cao, giá trị sinh lời của đất ngày càng tăng cùng với tốc độ phát triển kinh tế thì
việc giải phóng mặt bằng để tạo ra quỹ đất sạch triển khai dự án theo đúng tiến độ
ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng bởi khơng có đất sạch thì khơng thể triển
khai dự án theo đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên, vì quyền lợi của người dân và vì
nhận thức ln phải có lợi cho mình của người dân lúc nào cũng đòi hỏi phải được
bồi thường thỏa đáng nhưng nếu việc giải phóng mặt bằng khơng theo quy định của
pháp luật, khơng tn theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước thì cơ quan thực
hiện việc giải phóng mặt bằng sẽ không bao giờ đáp ứng được đầy đủ theo đúng
nguyện vọng của nhân dân. Do vậy, để giải quyết hài hịa mối quan hệ trên trong
cơng tác giải phóng mặt bằng thì cần phải xác định đúng các nguyên nhân của
những tồn tại, qua đó xây dựng những giải pháp thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi
của người dân cũng như việc đảm bảo tiến độ của công tác giải phóng mặt bằng nói
riêng và tiến độ thực hiện của các dự án cần thu hồi đất nói chung.
Trong công cuộc đổi mới đất nước nhu cầu phát triển hạ tầng luôn đặt ra và
Nhà nước cũng phải bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân do vậy
để đáp ứng việc thực thi pháp luật Nhà nước ban hành các Nghị định, Thông tư,
Quyết định thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với tình hình thực trạng
đang diễn ra trong xã hội. Tuy có Nghị định, có Thơng tư, có Quyết định nhưng với
đặc thù của từng địa phương, từng dự án có sự khác biệt nên đây cũng là lý do để
chủ sử dụng đất, chủ sử dụng tài sản lợi dụng để đòi hỏi.
Để nâng cao năng lực thể chế trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
Luật Đất đai 2013 đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật đối với các chủ thể quản lý, sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất, sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Những năm gần đây, với tốc độ đô thị hóa nhanh, đất đai ở thành phố ng Bí
được chuyển mục đích sử dụng khá nhiều, đồng nghĩa với việc áp dụng những
chính sách của Nhà nước trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng và hỗ

trợ đối với người dân mất đất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, cơng tác này cịn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp, kể cả việc thu hồi đất để xây dựng


3

cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng đồng dân cư bị thu đất. Điều chỉnh quy hoạch
sử dụng đất, sửa đổi thiết kế dự án, chờ đợi do khơng giải phóng được mặt bằng
hoặc do cơ sở hạ tầng không đảm bảo là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
tiến độ các dự án, gây thiệt hại lớn về kinh tế của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
và nhà nước, làm mất ổn định chính trị xã hội ở địa phương. Xuất phát từ thực tiễn
nói trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành
phố ng Bí - Thực trạng và kiến nghị hồn thiện”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong góc độ lý luận và thực tiễn Pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng ln được sự quan tâm và đầu tư
nghiên cứu của nhiều tác giả. Nhiều người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu
luôn tìm tịi, sáng tạo và có những cơng trình khoa học về vấn đề này. Có thể kể đến
một số các cơng trình nghiên cứu sau đây:
- Pháp luật đất đai trong hoạt động của luật sư của tác giả Nguyễn Minh
Hằng, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội năm 2013.
- Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử của
các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, NXBThông tin và truyền
thông.
- Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư người có đất bị thu hồi trong giải phóng mặt
bằng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đỗ
Phương Linh, Trường Đại học Hà Nội, Năm 2012.
- Đánh giá thực trạng và giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác bồi
thường GPMB trên địa bàn thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ

quản lý đất đai của tác giả Lê Thanh Hải, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
2014.
- Pháp Luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Luật kinh tế của tác giả Lê Thị Thùy Dương,
Viện Đại học mở Hà Nội, Năm 2015.


4

- Về khái niệm bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trong luật đất đai năm
2003 của tác giả Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 7/2008,
tr. 45 - 49.
- Về chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của
tác giả Nguyễn Thị Phượng, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 9/2010, tr. 32 - 36.
- Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất của tác giả Trần Quang Huy,
Tạp chí Luật học, Số 10/2010, tr. 29 - 36.
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết
sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng
đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã
hội hiện nay.
Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất dự án cải
tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp đẩy nhanh tiến độ bồi thường, hỗ trợ thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn
nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A chạy qua thành phố ng Bí, tỉnh
Quảng Ninh, tạo nên 1 diện mạo mới, khang trang, đồng thời góp phần vào nét đẹp
hiện đại, văn minh của Thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Tuyến đường có tổng chiều dài là 2.96 km, quy mô dự án là đường cấp III
đồng bằng có 04 làn xe, bề rộng mặt đường là 16.5 m; tốc độ thiết kế 80 km/h; tổng

diện tích thu hồi đất để thực hiện dự án là 2,19 ha (chủ yếu là đất hành lang bảo vệ
cơng trình giao thông đường bộ; đất trồng cây lâu năm, đất ở, không ảnh hưởng đến
nhà ở của người dân); tổng số hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng là 318 hộ (khơng
có đất của các tổ chức). Tổng kinh phí xây dựng tuyến đường lên tới
84.843.443.908 tỉ đồng.
Thời gian thực hiện dự án nghiên cứu từ năm 2015 đến năm 2017.
Thời gian thu thập số liệu từ năm 2015 đến năm 2017.


5

Địa bàn nghiên cứu: Tại địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Đây là một nội dung nghiên cứu tương đối phức tạp, nhạy cảm và liên quan
đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của thành phố ng Bí nói riêng, tỉnh
Quảng Ninh nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và Luật đất đai năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai: Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Ninh trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18A để từ
đó góp phần tìm ra những giải pháp nhằm hồn thiện hơn các quy định đó.
Thứ ba: Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố ng Bí,
tỉnh Quảng Ninh.
Thứ tư: Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
ta và cách lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi để thực hiện cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ
18A tại thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh .
4. Mục đích nghiên cứu

- Mục đích:
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí.
- Nhiệm vụ:
Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất.
Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí.


6

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
và Nhà nước về đất đai như phương pháp điều tra thu thập số liệu, phương pháp
điều tra số liệu, phương pháp tổng hợp....
5.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Thu thập các tài liệu, số liệu, các văn bản, chính sách có liên quan đến cơng
tác BTHT&TĐC, GPMB tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố ng Bí,
UBND các phường có liên quan, đơn giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
dự án như khung giá đất của Chính phủ, giá quy định của Nhà nước và giá bồi thường
được áp dụng đối với các dự án trên đại bàn thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh;
- Tìm hiểu quy trình thực hiện, kế hoạch và thực trạng triển khai dự án cải
tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí;
- Thu thập các tài liệu, số liệu liên quan từ các đơn vị, phòng, ban chuyên
môn của thành phố và UBND các phường thuộc thành phố ng Bí.
5.2. Phương pháp điều tra số liệu

- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Thu thập theo phương pháp phỏng vấn
trực tiếp các hộ có đất bị thu hồi theo phiếu điều tra. Sử dụng phiếu điều tra để thu
thập các thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài gồm: Số liệu về đánh giá của
người dân đối với việc xác định đối tượng được BTHT&TĐC,...
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế
- Xã hội thu thập tại Chi cục Thống kê thành phố ng Bí; Số liệu về tình hình
quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất tổng hợp trên cơ sở số liệu báo cáo các
năm được thu thập tại Phòng Tài ngun và mơi trường, UBND thành phố ng Bí,
UBND các xã, phường; Số liệu về bảng giá đất của UBND tỉnh ban hành, giá quy
định của Nhà nước và giá bồi thường được áp dụng cho thành phố ng Bí được


7

thu thập tại Phịng Tài ngun và Mơi trường, Phịng Tài chính – Kế hoạch thành
phố ng Bí.
5.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu
Phân tích số liệu được tổng hợp, đánh giá số liệu theo các chỉ tiêu hàng năm
5.4. Phương pháp so sánh
Dùng để so sánh các số liệu thu thập được, từ đó thấy được sự giống nhau và
khác nhau trong việc thực hiện công tác bồi thường GPMB ở dự án với các quy
định về chính sách BTHT&TĐC của Nhà nước.
So sánh giá bồi thường về đất, cơng trình vật liệu kiến trúc, cây cối hoa
màu...của dự án qua từng giai đoạn.
Đánh giá các số liệu điều tra về các vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
công ăn việc làm, ổn định đời sống sản xuất, vấn đề xã hội, môi trường.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng trên thực tế các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, đánh giá được thực

trạng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trong điều kiện đặc thù của
thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Qua việc phân tích và tổng hợp so sánh các quy định về bồi thường trong các
thời kỳ để tìm ra những thành cơng, ưu điểm và tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng tại thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Luận văn cũng đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất phù
hợp với thu hồi đất phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật đất đai 2013 và thực tiễn áp
dụng. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về lĩnh vực bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất để phục vụ thiết thực cho công việc đang phụ trách.


8

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí.
Chương 3: Kiến nghị hồn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố
ng Bí.


9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÔI ĐẤT
1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Bồi thường
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bồi thường” có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị
hoặc công lao động cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể
khác (Viện Ngơn ngữ học, 2002). Điều này có nghĩa là: Không phải mọi khoản đều
bồi thường bằng tiền; Sự mất mát của người bị thu hồi đất không chỉ là về mặt vật
chất mà nhiều trường hợp còn mất mát cả về tinh thần nhất là khi phải TĐC; Về mặt
hành chính thì đây là một q trình khơng tự nguyện, có tính cưỡng chế và vốn là
điều hồ sự “hi sinh” khơng chỉ là một sự bồi thường ngang giá tuyệt đối.
Việc bồi thường có thể vơ hình (xin lỗi) hoặc hữu hình (bồi thường bằng
tiền, bằng vật chất khác), có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do
thỏa thuận giữa các chủ thể (Viện Ngôn ngữ học, 2002).
Theo Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại
giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.
Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”.
1.1.1.2. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Theo Luật đất đai 2003: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp
kinh phí để di dời đến địa điểm mới”.
Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.
1.1.1.3. Tái định cư
Theo Từ điển Tiếng Việt: Tái định cư được hiểu là đến một nơi nhất định để
sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa) (Viện Ngôn ngữ học, 2002).


10


Mặc dù thuật ngữ tái định cư được pháp luật đất đai đề cập nhưng lại chưa
có quy định nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Luật Đất đai năm
2003 chỉ quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và
thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở
cho người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở,… Trường hợp khơng có khu tái
định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua
hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất
ở đối với khu vực nơng thơn,… Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho
người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất” (Luật Đất đai, 2003).
Từ quy định trên của pháp luật đất đai hiện hành, chúng ta có thể tạm đưa ra
quan niệm về tái định cư như sau: Tái định cư đó là những chính sách, biện pháp
của Nhà nước nhằm thông qua các hoạt động để ổn định cuộc sống của những
người bị thu hồi đất nằm trong diện phải di dời khi có dự án đầu tư, đến nơi ở mới
được ổn định đời sống, ổn định sản xuất để phát triển kinh tế xã hội.
1.1.1.4. Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ
Quốc lộ 18A là tuyến giao thông huyết mạch kết nối tỉnh Quảng Ninh với
các tỉnh lân cận, đi qua 3 tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Việc nâng cấp
cải tạo, mở rộng là việc làm hết sức cần thiết với mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông. Dự án "cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18A đoạn ng Bí" là dự án quốc gia, cơng trình giao thông trọng điểm
nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại sinh hoạt, vận tải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và vùng Đơng Bắc nói chung.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.2.1. Mục đích
Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, nền kinh tế của một quốc gia, đặc
biệt là các dự án phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh cần sử dụng đất đai
như một nguồn lực đầu vào tạo mặt bằng sản xuất. Khi đó, Nhà nước phải thu hồi
đất của nhân dân và thực hiện việc BTHT&TĐC cho các hộ bị thu hồi đất.



11

Cơng tác BTHT&TĐC trong tình hình hiện tại khơng đơn thuần là bồi
thường về vật chất mà còn phải đảm bảo được lợi ích của người dân phải di chuyển.
Do đó, mục đích chính của cơng tác BTHT&TĐC là:
- Bồi thường đúng với đất đai bị thu hồi và tài sản bị thiệt hại, đảm bảo cho
người dân khôi phục sản xuất và đời sống sau khi GPMB hoặc tại nơi tái định cư.
- Chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, công tác hỗ
trợ đảm bảo ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp để
tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.
- Tái định cư đảm bảo tái thiết lại cơ sở hạ tầng, các điều kiện cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và đời sống, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tạo lại nguồn thu
nhập và các văn hóa truyền thống, các hoạt động khám chữa bệnh, thể dục thể thao,
giáo dục,… và sinh hoạt cộng đồng cho người dân.
1.1.2.2. Ý nghĩa
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai (làm chấm
dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà cịn
“đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị
thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu
hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân…). Do vậy, trên
thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hịa lợi
ích kinh tế giữa các bên) gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn
đề BTHT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều
phương diện:
- Về phương diện chính trị: Giải quyết tốt nhất vấn đề BTHT&TĐC là thực
hiện tốt chính sách để phát triển kinh tế - xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố
sự ổn định về chính trị và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, nhà
đầu tư và người sử dụng đất.

- Về phương diện kinh tế - xã hội: Thực hiện tốt công tác BTHT&TĐC khi
Nhà nước thu hồi đất là điều kiện để người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống và
doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần vào việc thúc
đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.


12

1.1.3. Đặc điểm của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Để thực hiện được dự án theo đúng tiến độ, thì trước hết các chủ đầu tư cần
phải giải phóng mặt bằng (GPMB); đó là cơng việc trọng tâm, hết sức quan trọng,
nhưng phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức và tiền của. Ngày nay, việc giải
phóng mặt bằng ngày càng trở nên khó khăn hơn do đất đai ngày càng có giá trị và
khan hiếm. GPMB liên quan đến lợi ích của nhiều cá nhân, tập thể và của cả cộng
động dân cư trên một địa bàn nhất định với những đặc điểm chủ yếu như sau:
- Tính đa dạng: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với
điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí khác nhau. Tính đa dạng của
đối tượng GPMB dẫn đến quá trình thực hiện cơng tác BTGPMB có những đặc
điểm khó khăn, phức tạp khác nhau, đòi hỏi việc thực hiện GPMB và giá đất tính
BTHT cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt đối với từng địa bàn.
- Tính phức tạp: Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt
động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi
trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do
đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho th đất cịn
được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn khơng cho th; tình hình đó đã
dẫn đến cơng tác tun truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn
và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau
này. Ở khu vực đô thị, việc thu hồi đất, bồi thường GPMB liên quan đến đất ở lại
càng phức tạp hơn do đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và

sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở; nguồn gốc sử
dụng đất phức tạp, tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà trái phép chưa được xử lý
dẫn đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương án bồi thường gặp rất nhiều
khó khăn. Tình trạng chung thiếu quỹ đất dành cho xây dựng khu tái định cư cũng
như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu,... Sự tồn tại cơ chế
2 giá với sự chênh lệch lớn giữa giá đất Nhà nước và giá thị trường làm cho việc áp
dụng giá đất ở để tính bồi thường khơng được sự đồng thuận của những người dân.


13

1.1.4. Một số nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
1.1.4.1. Nguyên tắc bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013 được quy định tại 3 điều
(Điều 41, 42 và 43) và trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định
mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát
sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư tại các địa
phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách
nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng
sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và
Điều 88). Trong đó quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên
tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các
bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện. Nội
dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:“Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất
khi Nhà nước thu hồi đất"
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử

dụng với loại đất thu hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng
tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”. Nguyên tắc
trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà người dân có đầy
đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt
hại. Quy định trên phù hợp với nguyên tắc dân sự được quy định trong Luật dân sự
2015. Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu khơng có đất
cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất
phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để


14

mua được một thửa đất tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình
trạng người bị THĐ địi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ
việc chuyển mục đích SDĐ hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại. Việc bồi
thường phải dân chủ khách quan, tức là phải đảm bảo khi người dân bị thu hồi đất
mà có các đủ điều kiện nhận bồi thường, họ phải được bồi thường. Đây là quyền
liên quan tới lợi ích chính đáng mà không một ai hay tổ chức cá nhân nào không
cho họ thực hiện. Điều 88 đã quy định cụ thể các Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về
tài sản sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất, đó là: “Khi Nhà nước thu hồi
đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được
bồi thường” và “khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải
ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại”.
Có thể nói, đây là một điểm mới và có sự tiến bộ vượt bậc của luật đất đai
2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về đất khơng chỉ với tư cách là tài sản mà
cịn là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngồi ý nghĩa là tài sản, đất đai

cịn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người. Vì đất
là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên nhà đầu tư ngoài việc bồi thường giá
trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người mất đất. Nếu
chỉ là khoản hỗ trợ trong một thời gian nhất định thì coi như đã phó mặc việc tìm
sinh kế mới cho người mất đất. Do đó, thay vì phó mặc gánh nặng hỗ trợ đào tạo
nghề đối với người mất đất cho Nhà nước, nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng
bàn bạc với người mất đất về cơ hội tìm sinh kế mới cho họ; đồng thời, nhà đầu tư
phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất
trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc,
càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư khơng thể trì hỗn.
Theo ngun tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng đất đai trong bài tốn
đầu tư để chi phí ít nhất, chính quyền địa phương cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự
phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và bảo vệ được
nguồn lực đất đai.
1.1.4.2. Nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư .
Đây cũng được coi là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013. Khoản 1,
Điều 83 quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:


15

Về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường
theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật.”
Thứ nhất, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất
nơng nghiệp mà khơng có đất nơng nghiệp để bồi thường.
Thứ hai, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm

cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu
nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chổ ở.
Thứ ba, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, tái định cư. Nhằm
khắc phục tình trạng một số khu vực tái định cư chất lượng cịn thấp, khơng đồng
bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn
nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa
bàn nên nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có
những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn
chưa được bồ trí vào khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và
thực hiện dự án tái định cư, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở.
Luật đất đai 2013 đã thể hiện tính dân chủ, cơng bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật: Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất đều đề cập tới tính bảo đảm khách quan, cơng bằng, kịp
thời, cơng khai minh bạch, dân chủ, đúng pháp luật. Đây là một địi hỏi khách quan
trong q trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm soát hoạt động này. Bởi tất cả nội
dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.


16

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước khi ra đời Luật đất đai năm 1993.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước thống nhất quản lý. Vì vậy, việc thực hiện đền bù về đất khơng được thực
hiện mà chỉ thực hiện đền bù về tài sản gắn liền với đất hoặc những thiệt hại do việc

thu hồi đất gây nên. Ngày 01/7/1980 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 201/CP
về việc: Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất với
bất kỳ hình thức nào, khơng được dùng để thu những khoản lợi nhuận khơng do thu
nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định”. Quan hệ đất đai thời kỳ này
đơn thuần chỉ là quan hệ “giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. Ngày
31/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 186/HĐBT về việc đền bù thiệt
hại đất Nơng nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác phải đền bù thiệt
hại về đất nơng nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Tiền bồi thường tài sản trên mặt
đất và tài sản trong lịng đất cho chủ sử dụng khơng phụ thuộc vào các khoản đền
bù về đất. Khung giá đền bù thiệt hại do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc trung ương quy định cụ thể. Mức bồi thường đối với quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh sát với giá đất địa phương, nhưng không được thấp hơn hoặc cao hơn
giá quy định của Chính phủ.
1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật đất đai 1993 đến khi Luật đất đai 2003 có
hiệu lực.
Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật Đất
đai năm 1988. Đây là văn bản pháp luật quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Tại Điều 27 quy định: “Trong trường
hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng thì người thu hồi đất được đền bù thiệt hại”.
Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “Nhà
nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 18 Hiến pháp năm
1992 quy định: “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và
được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Luật Đất đai


17

được Quốc hội thơng qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004.

Luật Đất đai ra đời với những quy định tiến bộ, phù hợp có ý nghĩa cũng như tác
động quan trọng đến đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
hiệu lực quản lý đất đai, khuyến khích việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lực
đất đai. Mặt khác, những quy định tại Luật Đất đai năm 2003 có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ các quyền của người sử dụng đất. Có thể nói, Luật đất
đai năm 1993 đã những quy định vượt bậc và hết sức phù hợp với thực tế đối với
chính sách thu hồi đất và đền bù thiệt hại cho người có đất bị thu hồi. Luật đất đai
năm 1993 đã quy định rõ hơn về quyền của người được giao đất bao gồm: quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Đồng thời, Chính phủ quy
định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian. Sau khi Luật đất đai
1993 có hiệu lực, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP-NĐ ngày 17/8/1994 để
cụ thể hóa chính sách bồi thường. Tuy nhiên, có thể nói chính sách bồi thường của
Nghị định này vẫn cịn rất nhiều hạn chế như: Chưa bù đắp được một cách đầy đủ
những thiệt hại gây ra từ việc thu hồi đất, chỉ bồi thường thiệt hại từ đất và bồi
thường thiệt hại về tài sản cho nên người bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn, khơng
đủ khả năng tái tại lại cuộc sống so với trước khi bị thu hồi. Hơn nữa, quyền và
nghĩa vụ của họ chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Đến năm 1998, Chính phủ
ban hành Nghị định số 22/1998 ngày 24/4/1998 để thay thế Nghị định 90/CP, chính
sách bồi thường đã thay đổi và có sự mở rộng phạm vi bồi thường để bù đắp một
phần nào đó cho người bị thu hồi đất nhưng vẫn chưa bảo đảm hết thiệt hại. Đặc
biệt, với sự ra đời của Luật đất đai năm 2003, đã khắc phục được những thiếu sót và
bất cập trong cơng tác bồi thường. Trong đó có những quy định cụ thể về việc tính
bồi thường về đất, điều kiện nơi tái định cư đối với các trường hợp được áp dụng cơ
chế chuyển đổi đất đai bắt buộc. Trong thời gian này, Nhà nước ban hành rất nhiều
các văn bản dưới Luật như: Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về
quản lý đất đai nhằm cụ thể hóa các điều luật, trong đó có những quy định chi tiết
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định cụ thể về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, bồi thường bỗ trợ , tái định cư; trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất và cho thuê



18

đất; phát triển quỹ đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng đất cơng
trình ngầm và gia hạn sử dụng đất. Nghị định đã góp phần giải quyết nhiều khó
khăn, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất đai. Với nhiều thay đổi tích cực và
thơng thống về các quy trình thủ tục trong các khâu như: Quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.3. Pháp luật về Bồi thường khi nhà nước khi thu hồi đất quy định theo Hiến
pháp 2013 và Luật Đất đai năm 2013.
Đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến kinh
tế, chính trị, xã hội, sự ổn định và phát triển của đất nước. Sau 10 năm thi hành Luật
Đất đai 2003 đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an sinh xã hội; đã thu hẹp sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài trong việc tiếp cận đất đai; khắc phục những bất cập về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đổi mới công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại về
đất đai.đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cơng hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trước biến động không ngừng của nền kinh tế, đặc biệt là các giao
dịch bất động sản đã bộc lộ dần những hạn chế, trong đó có quyền sử dụng đất cịn
bộc lộ những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm”
khá phổ biến Những bất cập của Luật Đất đai năm 2003 biểu hiện ở một số nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các
quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải
quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực
hiện các quyền.
Thứ hai: Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất thường xuyên thay đổi đã dẫn tới tình trạng bị so bì, khiếu nại của người có
đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng thực hiện thu hồi đất qua

nhiều năm, mặt khác giá đất bồi thường chủ yếu thực hiện theo khung giá nhà nước
quy định nên còn thấp so với giá đất thị trường, điều này dẫn đến những phản ứng
gay gắt của người sử dụng đất.


19

Thứ ba: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền
định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải quyết
hài hịa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực hiện
các quyền.
Thứ tư: Việc thực hiện cơ chế tự thỏa thuận đã tạo điều kiện cho nhà đầu tư
chủ động quỹ đất thực hiện dự án, rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng, đồng thời
giảm tải cơng việc cho các cơ quan nhà nước trong việc thu hồi đất. Tuy nhiên, đã
tạo ra sự chênh lệch lớn về giá đất so với dự án do Nhà nước thu hồi trong cùng khu
vực, hơn nữa, có nhiều dự án, người bị thu hồi đất địi hỏi giá đất cao hơn, khơng
hợp tác với nhà đầu tư, khiến dự án bị chậm tiến độ do đó rất khó hồn thành việc
giải phóng mặt bằng (27, tr.66).
Thứ năm: Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được các cấp
chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho người
nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến cho các
chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu
hồi đất. Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất,
khắc phục bất cập và điều tiết một cách hài hịa lợi ích giữa Nhà nước, người sử
dụng đất và nhà đầu tư, đồng thời nhằm giảm khiếu kiện trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng, Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014
vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp của pháp luật đất đai
năm 2003, nhưng đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ
những hạn chế, bất cập, đưa chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đi vào

cuộc sống. Quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất cịn lại (Điều 76),
cho một số trường hợp không được bồi thường về đất. Đối vớinhững trường hợp
được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông
nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54
của Luật này; đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử
dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất; đất được Nhà nước cho thuê trả tiền


20

thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng
được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do
thực hiện chính sách đối với người có cơng với cách mạng; đất nơng nghiệp thuộc
quỹ đất cơng ích của xã, phường, thị trấn; đất nhận khốn để sản xuất nơng lâm
nghiệp, ni trồng thủy sản, làm muối. Luật đất đai năm 2013 cũng đã bổ sung quy
định về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt (Điều
87). Bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ơ nhiễm mơi trường có nguy
cơ đe dọa tính mạng con người, đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi
hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người thì người có đất thu hồi được
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để ổn định đời sống, sản xuất theo quy định của
Chính phủ. Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân
cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của
cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư. Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài
mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư thì thực hiện theo khung chính sách đó. Nhằm hướng dẫn thi hành những quy
định của Luật Đất đai năm 2013 liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất, ngày 15/5/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
47/2014/NĐ-CP “Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất” (thay thế Nghị định số 197/2004/NĐ-CP); cũng trong ngày 15/5/2014 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP “Quy định về giá đất” (thay thế
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP; Nghị định 123/2007/NĐ-CP…). Đây là những cơ
sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất trong thời gian tới.


21

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BÒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT CHO DỰ ÁN
CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ NG BÍ
2.1. Khái qt về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố ng Bí
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố ng Bí
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Thành phố ng Bí nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ninh cách thành
phố Hạ Long 45 km, cách Hà Nội 120 km, cách Hải Phòng 30 km. Tổng diện tích
tự nhiên là 25546,40 ha chiếm 4,03% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh.
Vị trí địa lý của ng Bí nằm trong khoảng từ 21000’ đến 21010’ Vĩ độ Bắc và từ
106040’đến 106052’ kinh độ Đơng:
- Phía Bắc giáp huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang;
- Phía Nam giáp Thị xã Quảng Yên và thành phố Hải Phịng;
- Phía Đơng giáp huyện Hồnh Bồ;
- Phía Tây giáp huyện Đơng Triều.
Thành phố ng Bí nằm cách khơng xa hai khu trung tâm kinh tế lớn Hải
Phịng và Hạ Long, có đường Quốc lộ 18, đường Quốc lộ 10 và tuyến đường sắt Hà
Nội - Kép - Bãi Cháy chạy qua đã tạo cho ng Bí một vị trí thuận lợi trong giao

lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngồi. ng
Bí là một trong những địa bàn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Quảng Ninh.
Với vị trí và những lợi thế, ng Bí có điều kiện phát triển nhanh kinh tế xã hội, thực hiện đơ thị hố, cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển các vùng xung quanh và tỉnh Quảng Ninh trong tam giác
phát triển kinh tế Bắc Bộ là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.


22

Sơ đồ 2.1: Bản đồ Hành chính thành phố ng Bí
(Nguồn: Phịng Tài ngun và Mơi trường thành phố)
b. Khí hậu, thủy văn
Do vị trí địa lý và địa hình nằm trong cánh cung Đơng Triều - Móng Cái, có
nhiều dãy núi cao ở phía Bắc và thấp dần xuống phía Nam đã tạo cho ng Bí một
chế độ khí hậu đa dạng, phức tạp vừa mang tính chất khí hậu miền núi vừa mang
tính chất khí hậu miền duyên hải.
Dãy núi Bình Hương với độ cao 384 - 358 m nằm giữa vùng núi Yên Tử và


23

núi Bảo Đài đã tạo nên dải thung lũng dài, hẹp và vùng đất thấp làm cho khí hậu
ng Bí phân thành nhiều tiểu vùng khác nhau: vùng núi cao phía Bắc đường 18B
có khí hậu miền núi lạnh và mưa vừa; vùng núi cao dọc đường 18B có khí hậu
thung lũng, ít mưa, mùa hè nóng, mùa đơng lạnh; vùng núi nằm giữa phía Nam
đường 18B và phía Bắc đường 18 kéo dài đến hạ lưu sông Đá Bạc có tích chất khí
hậu miền dun hải.
Hệ thống sơng suối của Thành phố phần lớn là các sông nhỏ, diện tích lưu
vực hẹp, nguồn nước và lưu lượng khơng lớn. Sơng lớn nhất và có ảnh hưởng mạnh

tới chế độ thuỷ văn của Thành phố là sông Đá Bạc, đoạn chảy qua Thành phố
(thuộc địa phận các xã, phường Phương Nam, Phương Đơng, n Thanh và Quang
Trung) có chiều dài 12 km, rộng trung bình 400 m, độ sâu lúc thủy triều lên đảm
bảo cho tàu 5.000 tấn và xà lan 400 - 500 tấn ra vào cảng; là đường thủy liên tỉnh,
tàu bè và thuyền lớn có thể đi lại vận chuyển vật tư, hàng hóa đi Hải Dương, Hải
Phịng và ngược lại.
Ngồi sơng Đá Bạc, Thành phố cịn có các con sơng khác như Vàng Danh,
sơng ng và sông Sinh. Sông Vàng Danh là thượng nguồn của sông ng, là
nguồn cung cấp nước chủ yếu cho ng Bí. Sông Uông được tiếp nối từ sông Vàng
Danh, kết thúc ở phần đất phường Quang Trung, là ranh giới giữa vùng nước ngọt
và nước mặn, có đập tràn để lấy nước làm mát nhà máy điện ng Bí. Sơng Sinh
bắt nguồn từ vùng núi phía tây bắc ng Bí chảy qua trung tâm Thành phố (giữa
phường Yên Thanh và phường Quang Trung), cắt trục đường 18 với chiều dài 15
km, sơng này có khả năng cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Các sông đều
xuất phát từ các dãy núi cao chảy qua Thành phố và đổ vào sông Đá Bạc.
c. Tài ngun đất.
ng Bí có diện tích đất tự nhiên là 25546,40 ha; trong đó 4420,56 ha là
diện tích đất sản xuất nơng nghiệp, bằng 17,30% diện tích đất tự nhiên; 13554,58 ha
là diện tích đất lâm nghiệp, bằng 53,66% diện tích đất tự nhiên; 4965,17 ha là diện
tích đất ở, đất chuyên dùng, bằng 19,44% diện tích đất tự nhiên; 1020,75 ha là diện
tích đất chưa sử dụng, bằng 3,99% diện tích đất tự nhiên; cịn lại đất nuôi trồng thủy


24

sản và đất nông nghiệp khác.
Bảng 2.1: Bảng hiện trạng sử dụng đất tại thành phố ng Bí

LOẠI ĐẤT


STT

(1)

(2)



(3)

Tổng diện tích đất tự nhiên
(1+2+3)

Tổng diện
tích các loại

Cơ cấu diện tích
loại đất so với tổng

đất

diện tích trong đơn
vị hành chính

(4)

(5)

25546,40


100,00

1

Nhóm đất nông nghiệp

NNP

19560,49

76,57

1.1

Đất sản xuất nông nghiệp

SXN

4420,56

17,30

1.1.1 Đất trồng cây hàng năm

CHN

1985,72

7,77


1.1.2 Đất trồng cây lâu năm

CLN

2434,84

9,53

Đất lâm nghiệp

LNP

13554,58

53,06

1.2.1 Đất rừng sản xuất

RSX

9671,41

37,86

1.2.2 Đất rừng phòng hộ

RPH

1494,18


5,85

1.2.3 Đất rừng đặc dụng

RDD

2389,00

9,35

1570,29

6,15

1.2

1.3

Đất ni trồng thuỷ sản

NTS

1.4

Đất làm muối

LMU

1.5


Đất nơng nghiệp khác

NKH

15,05

0,06

2

Nhóm đất phi nông nghiệp

PNN

4965,17

19,44

2.1

Đất ở

OCT

545,73

2,14

2.1.1 Đất ở tại nông thôn


ONT

51,45

0,20

2.1.2 Đất ở tại đô thị

ODT

494,28

1,93

2.2

Đất chuyên dùng

CDG

2911,19

11,40

2.3

Đất cơ sở tôn giáo

TON


37,90

0,15

2.4

Đất cơ sở tín ngưỡng

TIN

0,57

2.5

Đất nghĩa trang, nghĩa địa

NTD

47,86

0,19

2.6

Đất sơng, ngịi, kênh, rạch, suối

SON

1201,24


4,70

2.7

Đất có mặt nước chun dùng

MNC

219,78

0,86

2.8

Đất phi nơng nghiệp khác

PNK

0,89


25

STT

(1)

LOẠI ĐẤT

(2)




(3)

Tổng diện
tích các loại

Cơ cấu diện tích
loại đất so với tổng

đất

diện tích trong đơn
vị hành chính

(4)

(5)

3

Nhóm đất chưa sử dụng

CSD

1020,75

3,99


3.1

Đất bằng chưa sử dụng

BCS

402,99

1,58

3.2

Đất đồi núi chưa sử dụng

DCS

437,92

1,71

3.3

Núi đá khơng có rừng cây

NCS

179,83

0,70


(Nguồn: Phịng Tài ngun và Mơi trường thành phố ng Bí năm 2017)

2.1.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố ng Bí
a. Tình hình dân số - lao động
Hiện trạng dân số:Theo báo cáo điều tra dân số tại Phòng thống kê
Thành phố ng Bí đến năm 2017, tồn thành phố có 123.601 người (trong đó
nam có 64.288 người chiếm 52%, nữ có 59.314 người chiếm 48%) và tiếp tục
gia tăng trong năm 2018.
Thành phố có 11 đơn vị hành chính gồm 09 phường, 2 xã; 101 thôn, khu;
gồm 5 dân tộc là: Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Hoa. Mật độ dân số của thành phố
ng Bí năm 2016 là 484 người/km2.


×