Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Hôn nhân của người Công giáo tại giáo xứ Bình Hải, tỉnh Nam Định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.38 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ VĂN ĐẠT

HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI CƠNG GIÁO
TẠI GIÁO XỨ BÌNH HẢI, TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội - 2020
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ VĂN ĐẠT

HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI CƠNG GIÁO
TẠI GIÁO XỨ BÌNH HẢI, TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG:

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. ĐỖ QUANG HƢNG

PGS.TS. NGUYỄN QUANG HƢNG



Hà Nội - 2020
2


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được cơng bố trên bất kỳ
cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Văn Đạt

3


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo, các thầy cơ
giáo trong Bộ mơn Tôn giáo học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, cũng như bạn bè, người thân đã dành cho tôi nhiều sự giúp đỡ quý báu
trong quá trình học tập và làm luận văn.
Một cách đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới người
thầy - PGS.TS. Nguyễn Quang Hưng. Bằng tất cả tình u nghề, lịng nhiệt
thành và cả sự nhẫn nại, thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tơi
trong suốt q trình thực hiện luận văn này.
Do những hạn chế về năng lực và điều kiện nghiên cứu, luận văn chắc
chắn khơng tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của các thầy
cơ giáo, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Tác giả luận văn


Vũ Văn Đạt

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

Ga

Tin mừng theo Gio-an

GLHTCG

Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo

Lc

Tin mừng theo Lu-ca

Mc

Tin mừng theo Mác-cô

Mt


Tin mừng theo Mát-thêu

NXB

Nhà xuất bản

tr

trang

5


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................

2

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HÔN NHÂN CƠNG GIÁO VÀ
GIÁO XỨ BÌNH HẢI .................................................................................

12

1.1. Tổng quan về hôn nhân Công giáo ........................................................

12

1.2. Tổng quan về giáo xứ Bình Hải .............................................................

23


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HƠN NHÂN CỦA NGƢỜI CƠNG GIÁO
TẠI GIÁO XỨ BÌNH HẢI ...................................................................................

34

2.1. Những thủ tục, nghi lễ trong hơn nhân ..................................................

34

2.2. Tình hình hơn nhân trong những năm gần đây ......................................

44

2.3. Khó khăn trong việc lãnh nhận bí tích Hơn phối và tình trạng sống
thử, quan hệ trước hôn nhân ..........................................................................

47

2.4. Thách thức trong việc duy trì tính bền vững của hơn nhân Cơng giáo
và vấn đề hôn nhân khác tôn giáo .................................................................

54

CHƢƠNG 3. BIẾN ĐỔI CỦA HƠN NHÂN CƠNG GIÁO TẠI GIÁO
XỨ BÌNH HẢI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY ................

65

3.1. Biến đổi của hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải ........................


65

3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự biến đổi hơn nhân Cơng giáo tại giáo
xứ Bình Hải ...................................................................................................

71

3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với hôn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải
trong bối cảnh hiện nay .................................................................................

77

KẾT LUẬN ..................................................................................................

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................

92

PHỤ LỤC .....................................................................................................

97

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đối với người Công giáo, hơn nhân có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính
thánh thiêng, do chính Thiên Chúa thiết lập và thánh hóa. Hơn nhân là một
màu nhiệm lớn lao, biểu trưng cho sự kết hợp giữa Ðức Kitô và Hội Thánh,
phản ánh tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa dành cho con người. Ở
Việt Nam, hôn nhân Công giáo ln được đánh giá cao bởi tính bền vững
cũng như những nét đẹp trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Trong xã hội hiện nay, con người ngày càng được đáp ứng đầy đủ hơn
nhu cầu vật chất và tinh thần, cuộc sống ngày càng tiện nghi và năng động.
Tuy nhiên, cũng chính xã hội hiện đại ngày nay đang đặt nhân loại trước
những biến động to lớn về văn hóa - đạo đức; nói như cố Giáo hồng Gioan
Phaolơ II (John Paul II), nhân loại đang sống trong một “nền văn minh sự
chết” vốn phát sinh từ lối sống buông thả, sa đọa, hưởng thụ, thiên trọng về
vật chất. Trong xã hội ngày nay, hôn nhân - chế cổ kính nhất trong nền văn
hóa nhân loại, vốn là một giá trị truyền thống tốt đẹp hướng tới sự gắn kết
con người - đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Hơn nhân
Cơng giáo khơng nằm ngồi thực trạng đó. Trong mấy chục năm trở lại đậy,
chưa bao giờ vấn đề quan hệ trước hôn nhân, vấn đề hôn nhân khác đạo, vấn
đề ly hôn hay sự xem nhẹ ý nghĩa của hơn nhân - gia đình,… lại nhức nhối
đối với Giáo hội Cơng giáo như hiện nay. Đó là chưa kể đến những vấn đề
mới đang ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội như hôn nhân đồng tính,
hơn nhân giữa những người chuyển giới,… Những thách thức trên là vấn đề
chung của toàn xã hội, nhưng đối với Giáo hội Cơng giáo, những vấn đề đó
càng trở nên nhức nhối, nặng nề, trực tiếp hoặc gián tiếp thách thức đến
những giáo điều vốn là truyền thống bền vững của Giáo hội. Hơn nhân và
gia đình trở thành đề tài nóng bỏng đối với Giáo hội Cơng giáo trong những
năm gần đây.
2


Trên thực tế, hôn nhân Công giáo ở Việt Nam đang đứng trước nhiều

vấn đề, nhưng lâu nay, các nghiên cứu thường quan tâm nhiều hơn đến những
giá trị, ý nghĩa, nói cách khác là những thành tựu của hơn nhân Cơng giáo mà
chưa (hoặc ít) quan tâm đến những thách thức (trong vấn đề hôn nhân) mà
người Công giáo Việt Nam đang phải đối mặt. Do đó, việc nhìn thẳng vào vấn
đề, mạnh dạn chỉ ra những thách thức này là việc làm có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, những khẳng định vốn không dễ dàng này rất cần thiết phải căn cứ
trên một nghiên cứu thực tế.
Là một giáo xứ thuộc giáo phận Bùi Chu, giáo xứ Bình Hải được thành
lập từ đầu thế kỷ XX ở miền duyên hải tỉnh Nam Định, trên vùng đất được
hình thành từ quá trình quai đê lấn biển, khai hoang lập ấp trải qua hàng trăm
năm. Có nhiều lý do thúc đẩy tác giả luận văn lựa chọn giáo xứ Bình Hải làm
địa bàn nghiên cứu: Thứ nhất, giáo xứ Bình Hải thuộc giáo phận Bùi Chu Nam Định - cái nôi của Công giáo Việt Nam; thứ hai, giáo xứ Bình Hải là
một làng Cơng giáo tồn tịng, do đó dấu ấn Công giáo thể hiện sâu đậm; thứ
ba, giáo xứ Bình Hải cũng chính là q hương của tác giả luận văn và đó
chính là một thuận lợi cho tác giả trong công tác điền dã thực địa.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của những tác giả trước, kết hợp với nghiên
cứu thực tế tại giáo xứ Bình Hải, luận văn mong muốn phác họa bức tranh về
hôn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải, chỉ ra những thách thức mà người
Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải đang gặp phải trong vấn đề hôn nhân.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Hôn nhân của người
Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải, tỉnh Nam Định hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Tơn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về hôn nhân Công giáo
Hôn nhân Công giáo là một đề tài đã và đang thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, cả Cơng giáo và ngồi Cơng giáo.
3


Các cuốn sách: Giáo lý Công giáo hôn nhân và gia đình của Hội đồng

Giám mục Việt Nam; Hơn nhân Kitơ giáo của Phaolơ Nguyễn Bình Tĩnh,
Hơn nhân Cơng giáo của Tồ giám mục Xn Lộc, Giảng trong lễ hơn phối
của Linh mục Nguyễn Hữu Triết; Suy niệm với các bí tích của Hương Việt;
Cho đơi bạn tâm tình của Bùi Văn Khiết Tâm;... đề cập đến những nội dung
căn bản của hôn nhân Công giáo được ghi trong Sách Giáo lý của Hội thánh
Cơng giáo như: Sự hình thành hơn nhân Cơng giáo, mục đích của hơn nhân
Cơng giáo, đặc tính của hơn nhân Cơng giáo,... là một bí tích mà chính Thiên
Chúa thiết lập để liên kết hai người nam nữ; do đó, hơn nhân Cơng giáo là
đơn nhất và bất khả phân ly. Nhìn chung, những tác phẩm này cung cấp
những nhận thức mang tính bản lề về hôn nhân Công giáo.
Bên cạnh những cuốn sách mang tính “giáo khoa” về hơn nhân Cơng
giáo là những tác phẩm đề cập đến những nội dung, chủ đề rộng lớn hơn xoay
quanh vấn đề này.
Cuốn Hội nhập văn hoá trong hơn nhân và gia đình Việt Nam theo Tơng
huấn Familiaris Consortio của Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Dụ (Trung
tâm mục vụ Việt Nam - Italia ấn hành năm 2006) là một cơng trình chun
sâu nghiên cứu về sự hội nhập văn hố Cơng giáo với văn hố dân tộc Việt
Nam trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Bên cạnh việc phân tích kế hoạch
của đấng Tạo hố về hôn nhân, tác giả cũng chỉ ra những thách đố đối với
hôn nhân Công giáo trong bối cảnh hiện nay và đề ra một số giải pháp cho
công tác mục vụ hơn nhân - gia đình.
Như nội dung của tựa đề sách, cuốn Đạo Công giáo thiên niên kỷ thứ ba
(NXB Tơn giáo, 2010) là một tác phẩm rất có giá trị của Thomas P. Rausch
bàn về những vấn đề rất cơ bản và thời sự của đạo Công giáo trong thiên niên
kỷ thứ ba. Trong những nỗ lực để “nói lên một cái gì đó đang xảy ra trong
Hội Thánh Công giáo đương thời”, tác giả đã bàn về “Hôn nhân trong Đức
Kitô” với những vấn đề thời sự nóng bỏng như “Các cuộc hơn nhân khác
4



đạo” và vấn đề tiêu hôn xảy ra “khi một cuộc hơn nhân nào đó chết”. Theo
tác giả, đó chính là “những thắc mắc đau đớn nhất Hội Thánh ngày nay đang
phải đương đầu” [30, tr. 201-207].
Năm 2012, Trung tâm mục vụ Công giáo Việt Nam thuộc Giáo phận
Trier, Cộng hòa liên bang Đức đã xuất bản cuốn sách của linh mục Nguyễn
Hữu Thy với tựa đề Những suy tư đúng đắn về hơn nhân và gia đình Cơng
giáo [31]. Không chỉ cung cấp những nhận thức đúng đắn, quan phương về
hơn nhân Cơng giáo, cuốn sách cịn chỉ ra thực trạng của hôn nhân Công giáo
ngày nay với rất nhiều thách đố như ngoại tình, ly hơn, phá thai, hơn nhân
đồng tính…
Với mối quan tâm tương tự, cuốn sách Hơn nhân và Gia đình do linh
mục Nguyễn Khắc Hy chủ biên (Liên đồn Cơng giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
ấn hành năm 2015) [21] là sự tổng hợp những bài viết về đề tài hơn nhân và
gia đình của người Cơng giáo Việt Nam, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề
đáng lưu tâm như hôn nhân khác đạo, vấn đề tiêu hơn,... Đây là những đóng góp
đáng ghi nhận của cộng đồng Công giáo hải ngoại trong nghiên cứu về hơn nhân
Cơng giáo nói chung, hơn nhân của người Cơng giáo Việt Nam nói riêng.
Ý thức về những khó khăn mà hơn nhân Cơng giáo đang vấp phải, ngày
8/4/2016, Giáo hồng Phanxicơ (Francis) đã ban hành Tơng huấn Amoris
Leatitia (Niềm vui yêu thương), trong đó nhấn mạnh đến việc cần trang bị tốt
hơn cho các cặp vợ chồng về những gì liên quan đến hơn nhân [10]. Trên tinh
thần đó, trong Thư chung gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, các giám mục
Việt Nam đã đưa ra chủ đề mục vụ cho 3 năm (2016 - 2019), trong đó đặt
trọng tâm là vấn đề hơn nhân - gia đình. Đây là những tài liệu quan trọng thể
hiện quan điểm chính thức của Giáo hội về hơn nhân Cơng giáo trong thế giới
ngày nay.
Trong cuốn Nghi lễ và lối sống Cơng giáo trong văn hóa Việt Nam
(NXB Khoa học xã hội, 2001), tác giả Nguyễn Hồng Dương đã có phần bàn
5



về “Vấn đề cưới xin” của người Công giáo, trong đó đề cập đến hai nội dung
chủ yếu là lịch sử vấn đề hôn nhân Công giáo ở Việt Nam và những nghi lễ
cưới xin của người Công giáo. Về những thách thức đối với hôn nhân Công
giáo, tác giả chỉ ra rằng, việc kết hôn với người ngoại đạo là một vấn đề rất
nan giải [7, tr. 261-272].
Trong cuốn Hơn nhân và nếp sống đạo trong gia đình người Việt Cơng
giáo (NXB Văn hóa - Thơng tin, 2012), tác giả Lê Đức Hạnh đã tiếp cận
nghiên cứu hôn nhân của người Công giáo từ một giáo họ cụ thể (giáo họ Nỗ
Lực, tỉnh Phú Thọ). Đây là cơng trình nghiên cứu công phu về hôn nhân Công
giáo với những dẫn chứng cụ thể; đặc biệt, trong chương 4, tác giả chỉ ra và
phân tích “một số vấn đề đặt ra” đối với hôn nhân Công giáo trong xã hội hiện
nay, đó là: vấn đề sinh đẻ có trách nhiệm, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha
mẹ và con cái [11, tr. 175-253].
Cũng về hôn nhân Công giáo, trong luận án tiến sĩ với tựa đề Giá trị của
hôn nhân và gia đình Cơng giáo ở Việt Nam hiện nay (Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, 2014), tác giả Đỗ Thị Ngọc Anh đã có những nghiên
cứu khá sâu về những giá trị của hôn nhân Công giáo trong xã hội hiện nay.
Tác giả cho rằng, trong xã hội đương thời, hôn nhân Công giáo chứa đựng
nhiều giá trị có ý nghĩa quan trọng như: tính tự nguyện, tính chung thuỷ trọn
đời, tính thánh thiêng và hướng tới việc duy trì và phát triển xã hội… Bên
cạnh đó, trong chương 4, tác giả chỉ ra “Những thách đố trong việc phát huy
giá trị của hôn nhân, gia đình Cơng giáo trong cộng đồng giáo dân Việt Nam
hiện nay”, đó là: vấn đề kết hơn với người khác tôn giáo, vấn đề ly dị, vấn đề
hôn nhân đồng tính, vấn đề kế hoạch hố gia đình, vấn đề nạo, phá thai,...
Năm 2017, tại Học viện Khoa học Xã hội, nghiên cứu sinh Cao Kỳ
Hương đã bảo vệ thành cơng luận án tiến sĩ ngành Văn hóa học với đề tài Ly
hơn trong các gia đình người Việt theo Công giáo (qua nghiên cứu giáo xứ
Chợ Mới, Nha Trang, Khánh Hòa). Trong luận án, tác giả cho thấy: “Từ thập
6



niên 90 của thế kỷ XX đến nay, ly hôn trong các gia đình Cơng giáo đang có
chiều hướng gia tăng… Điều này cho thấy giá trị hôn nhân của Công giáo
đang bị tổn thương, giáo lý về hôn nhân “bất khả phân ly” và bí tích hơn phối
đang trở nên bất khả tồn” [20, tr. 01]. Đây chính là một trong những thách
thức đối với hôn nhân Công giáo mà chúng tôi đề cập trong luận văn này.
Bên cạnh các cơng trình sách báo đã được xuất bản, khơng thể khơng
nói đến những bài viết về hơn nhân Cơng giáo được đăng tải trên các website.
Nguồn tài liệu này thường nhỏ lẻ, ít tính hệ thống nhưng cung cấp nhiều nội
dung mang tính thời sự, được cập nhật thường xuyên và dễ tiếp cận.
Như vậy, nghiên cứu về hôn nhân Công giáo không phải là một chủ đề
mới mẻ; trên thực tế đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm bàn đến và đã
đạt được những kết quả nhất định. Song, điều dễ nhận thấy là hầu hết các tác
giả tập trung nghiên cứu về vấn đề hôn nhân của người Cơng giáo ở khía cạnh
giáo lý, giáo luật hoặc nhấn mạnh những giá trị của hôn nhân Cơng giáo; cịn
việc chỉ ra những khó khăn, thách thức trong hôn nhân mà người Công giáo
Việt Nam đang phải đối mặt chưa được bàn nhiều.
2.2. Nghiên cứu về hôn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải
Cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về một giáo xứ, giáo họ
cụ thể như những nghiên cứu của Nguyễn Hồng Dương về làng Cơng giáo
Lưu Phương (Ninh Bình), nghiên cứu của Lê Đức Hạnh về giáo họ Nỗ Lực
(Phú Thọ), hay nghiên cứu của Cao Kỳ Hương về giáo xứ Chợ Mới (Khánh
Hòa),… Tuy nhiên, những nghiên cứu như vậy chưa nhiều. Trong bối cảnh
đó, cho đến nay, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về giáo xứ Bình Hải,
tỉnh Nam Định. Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Phú do
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nghĩa Phú (huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định)
xuất bản năm 1993 [3], giáo xứ Bình Hải được đề cập đến như một vùng đất,
một thôn, làng của xã Nghĩa Phú dưới góc nhìn lịch sử; các khía cạnh văn hóa
- tơn giáo nói chung, hơn nhân Cơng giáo nói riêng hầu như khơng được đề

7


cập. Trong Kỷ yếu giáo phận Bùi Chu [28] có phần điểm qua về các giáo xứ
trong giáo phận, trong đó có giáo xứ Bình Hải. Vấn đề hơn nhân của người
Công giáo ở đây không được đề cập. Như vậy, việc nghiên cứu về một giáo
xứ cụ thể, đặc biệt là vấn đề hôn nhân trong cộng đồng giáo xứ đó, vẫn cịn là
một đề tài khá mới mẻ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ thực trạng hơn nhân Cơng giáo tại giáo
xứ Bình Hải, tỉnh Nam Định, trong đó tập trung chủ yếu vào việc chỉ ra và
phân tích những khó khăn, thách thức đối với hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ
Bình Hải trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ sự biến đổi
của hôn nhân Công giáo tại giáo xứ Bình Hải và những vấn đề đặt ra đối với
hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải trong bối cảnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về hôn nhân Công giáo và tổng quan về giáo xứ
Bình Hải.
- Làm rõ thực trạng hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải, tỉnh Nam
Định; chỉ ra những khó khăn, thách thức đối với hơn nhân Cơng giáo trong
bối cảnh hiện nay.
- Làm rõ sự biến đổi của hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải và
những vấn đề đặt ra hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hôn nhân của người Công giáo tại
giáo xứ Bình Hải, tỉnh Nam Định hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu

Hôn nhân của người Công giáo là một đề tài rộng trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, trong khuân khổ luận văn này, tác giả tập trung
8


chủ yếu vào việc phân tích thực trạng hơn nhân của người Cơng giáo, nhấn
mạnh đến những khó khăn, thách thức mà hôn nhân Công giáo đang phải đối
diện, từ đó chỉ ra sự biến đổi của hơn nhân Cơng giáo tại giáo xứ Bình Hải.
Vấn đề hơn nhân và gia đình thường đi liền với nhau, tuy nhiên, trong
luận văn này, tác giả chủ yếu nghiên cứu hôn nhân, khơng nghiên cứu những
khía cạnh rộng lớn của đời sống gia đình.
- Phạm vi khơng gian nghiên cứu
Luận văn dựa trên những nghiên cứu thực tế tại giáo xứ Bình Hải (nằm
trên địa bàn xã Nghĩa Phú, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Giáo xứ Bình
Hải bao gồm nhiều giáo họ, nhưng luận văn này chỉ tiếp cận giáo xứ Bình Hải
như một làng Cơng giáo, khơng nghiên cứu các giáo họ trực thuộc.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hôn nhân Công giáo tại giáo xứ Bình Hải trong
khoảng thời gian 20 năm trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, coi tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội,
chịu sự tác động của tồn tại xã hội, biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại
xã hội. Bên cạnh đó, luận văn dựa trên quan điểm, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước về tôn giáo và về hôn nhân, khẳng định tơn giáo có những
giá trị cần được phát huy trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chủ đạo sử dụng trong luận văn này là
phương pháp nhân học. Phương pháp nhân học được thực hiện thông qua

những nghiên cứu thực địa của tác giả luận văn trong nhiều thời điểm khác
nhau, nhưng tập trung chủ yếu từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2018; đây là 6
tháng cuối năm, cũng được coi là “mùa cưới” ở giáo xứ Bình Hải. Để thu thập
thông tin, tác giả đã triển khai, vận dụng các kỹ năng sau:
9


Quan sát tham dự: Quan sát tham dự nhằm trải nghiệm bối cảnh nghiên
cứu thông qua các kinh nghiệm cá nhân trực tiếp tại thực địa, như quan sát
tham dự tại các lễ cưới của người Công giáo. Thông qua kỹ năng này, tác giả
luận văn có thể kiểm chứng được các sự kiện văn hóa đang diễn ra một cách
chân thực nhất, đồng thời thiết lập được mối quan hệ thân thiết với cộng đồng
đối tượng nghiên cứu của mình, giúp cho những thơng tin phục vụ cho nghiên
cứu sát thực để có kết quả nghiên cứu gắn với thực tiễn.
Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là kỹ năng quan trọng được sử dụng để
thu thập các thông tin làm nền tảng cho luận văn này. Do người Công giáo
ln có ý thức bảo vệ cộng đồng mình nên rất khó để khai thác những thơng
tin về đời sống hôn nhân, nhất là những thông tin nhạy cảm. Những thông
tin mà tác giả luận văn thu được chủ yếu qua các cuộc trò chuyện thân mật
với trên 30 người (bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ khác nhau
như: Giáo chức, giáo dân, cán bộ làm công tác văn hóa xã hội ở địa
phương,…) Thơng tin thu được khá phong phú, tuy nhiên trong luận văn
này, tác giả tập trung khai thác thông tin từ 12 cuộc phỏng vấn để có cái
nhìn sâu hơn.
Trong luận văn này, khi trích dẫn các nội dung phỏng vấn, tác giả cố
gắng giữ nguyên văn phong của người được phỏng vấn, để qua đó thấy được
cả quan điểm và cảm xúc của họ thông qua cách sử dụng từ ngữ. Theo nguyên
tắc đạo đức khoa học cũng như yêu cầu của người được phỏng vấn, tác giả đã
cam kết giữ bí mật danh tính của họ. Vì thế, tất cả danh tính người phỏng vấn
được dẫn trong luận văn này đều được thể hiện ở chế độ ẩn danh.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Phương pháp này giúp thu
thập những kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau, qua đó kế thừa
những thành quả nghiên cứu trước.
- Luận văn còn sử dụng các thao tác của nghiên cứu khoa học nói chung
như: Phân tích, so sánh, tổng hợp,…
10


6. Đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề thực tiễn của hôn nhân
Công giáo hiện nay, qua nghiên cứu trường hợp một giáo xứ cụ thể.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu về tôn giáo học, văn hóa học và các khoa học khác liên quan;
cung cấp tư liệu cho cho sinh viên quan tâm tới vấn đề hôn nhân của người
Công giáo Việt Nam.
7. Kết quả nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

11


Chƣơng 1.
TỔNG QUAN VỀ HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
VÀ GIÁO XỨ BÌNH HẢI
1.1. Tổng quan về hơn nhân Cơng giáo
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm hôn nhân
Theo cách hiểu thông thường và phổ biến, hơn nhân là hình thức “sống
chung” giữa một người nam và một người nữ mang tính bền lâu qua việc trao

hiến thân xác cho nhau. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn
ông được gọi là chồng và một người đàn bà được gọi là vợ. Điều 3 trong Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giải thích: “Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi kết hôn”. Tuy nhiên, khái niệm này khơng phải là một tiêu chí
được áp dụng cho mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Ở một số nước, nhất là
các nước Hồi giáo, vẫn thừa nhận rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người
nam và một người nữ..., nhưng đồng thời còn cho phép một người đàn ơng
thực hiện sự kết hợp đó với nhiều người đàn bà cùng một lúc. Đó là chế độ
hôn nhân đa thê. Chế độ đa thê cũng có thời kỳ được thừa nhận ở phương
Ðơng (Việt Nam, Trung Quốc,...) nhưng nay đã bị bãi bỏ. Bên cạnh đó, ở một
vài bộ tộc sống theo nề nếp hình thành từ thời kỳ sơ khai của nền văn minh,
chế độ đa phu được thừa nhận: một người đàn bà có thể chung sống với nhiều
người đàn ơng cùng một lúc.
Mặt khác, ở một số nước lại xuất hiện xu hướng cho rằng sự khác biệt
giới tính khơng phải là điều kiện bắt buộc của hơn nhân; ở đó những người
cùng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau và tạo thành một gia đình. Các
nước Bắc Âu là nơi phát triển mạnh nhất của xu hướng này. Riêng Hà Lan là
nước đầu tiên đã thông qua một đạo luật cho phép kết hơn giữa những người
có cùng giới tính.
12


Ngồi ra cịn tồn tại một số biến dị của hôn nhân khác như: hôn nhân
tạm là việc 2 người chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết
hôn; tảo hôn là việc người chưa đủ tuổi nhưng vẫn kết hơn...
Thật vậy, đã và đang có đủ loại hình thức phối hợp bền vững giữa một
người nữ và nhiều người nam, hay giữa một người nam và nhiều người
nữ. Hình thức sống chung giữa một người nam và một người nữ được coi là
một cuộc thay đổi lớn lao về khái niệm hôn nhân trong phần lớn các nền văn
hóa trên thế giới mà ngày nay chúng ta gọi là đơn hôn. Hôn nhân một vợ một chồng là loại hình hơn nhân cơ bản nhất, được pháp luật công nhận ở hầu

hết quốc gia, trong khi các biến dị khác của hơn nhân thì chỉ được chấp nhận
ở một số quốc gia trong một số giai đoạn lịch sử.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm
2013), điều 36 quy định: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau”. Theo ngun tắc này,
vợ - chồng tại Việt Nam bình đẳng với nhau trước pháp luật. Đồng thời,
nguyên tắc một vợ - một chồng có nghĩa rằng các dạng thức hơn nhân khác
như đa thê (nhiều vợ - một chồng) hoặc hôn nhân đồng tính (khơng có vợ
hoặc khơng có chồng) là vi hiến và pháp luật Việt Nam không công nhận.
Luật Hơn nhân và Gia đình cũng quy định, một trong những nguyên tắc
cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam là: “Hơn nhân tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” (Điều 2). Cịn theo Từ điển
giải thích thuật ngữ luật học của trường Đại học Luật Hà Nội, hôn nhân được
hiểu là: “sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống
với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hồ thuận” [32, tr. 148].
Hôn nhân là một định chế được xã hội lồi người cơng nhận và chấp
nhận, được xã hội bảo vệ và chuẩn nhận bằng vô số những quy ước, phong
tục, và điều luật thích ứng với những trường hợp khác nhau. Vì thế, hơn nhân
13


khơng chỉ ảnh hưởng đến đương sự mà cịn liên quan đến cả xã hội; do đó,
việc nam nữ kết hợp bền chắc trong hôn nhân không thể là chuyện thuần túy
riêng tư, nhưng là một khế ước cần phải được xã hội nơi mình sinh sống cơng
nhận. Khế ước hơn nhân có thể được biểu tỏ một cách khác nhau tùy theo
phong tục, văn hóa của từng thời đại và từng dân tộc. Tựu trung lại, ý nghĩa
của khế ước hôn nhân là biểu tỏ sự ưng thuận của người nam và người nữ
muốn kết nối với nhau trong đời sống chung thành vợ chồng, kiến tạo mái ấm
gia đình, hai người biểu tỏ cho nhau một tình yêu hiến dâng trong tâm hồn lẫn

thể xác.
Vì mang đặc tính xã hội, cho nên, đối với tất cả các nền văn hóa nhân
loại, hơn nhân ln được hình thành từ một khế ước được biểu hiện qua một
chuỗi hành vi mang tính biểu tượng mà ý nghĩa của nó được làm sáng tỏ qua
tín ngưỡng hay tơn giáo. Trong nền văn hóa cổ xưa, các phong tục về hơn
nhân thường được tơn kính và coi như thánh thiêng, do đó, theo nghĩa rộng
cũng có tính tơn giáo.
1.1.1.2. Khái niệm hơn nhân Công giáo
Hôn nhân không phải là “sản phẩm” của riêng Kitơ giáo mà là di sản của
tồn thể nhân loại. Giáo hội Công giáo đã khẳng định: Hôn nhân nằm ngay
trong bản tính tự nhiên của con người (GLHTCG số 1603) [15, tr. 478]. Khái
niệm hôn nhân Công giáo có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, hơn nhân Công giáo là hôn nhân của người Công giáo.
Trong trường hợp này, đương sự trong cuộc hơn nhân có thể cả hai đều là
người Công giáo hoặc một người là người Cơng giáo cịn người kia thì khơng.
Người Cơng giáo là người đã được rửa tội theo nghi thức Cơng giáo. Có
nhiều cách để một người được rửa tội và trở thành tín đồ Cơng giáo. Thơng
thường, người Cơng giáo trở thành tín đồ như là sự kế thừa truyền thống từ
cha ông thông qua nghi lễ rửa tội khi cịn là trẻ sơ sinh. Đối với những người
Cơng giáo “gốc” này, họ được truyền dạy giáo lý Công giáo ngay từ nhỏ và
14


thực hành các nghi lễ tôn giáo theo quy định của Giáo hội và sự đôn đốc của
các bậc phụ huynh. Người ta có thể trở thành người Cơng giáo khi đã trưởng
thành. Có nhiều động cơ để một người trưởng thành xin gia nhập đạo Công
giáo: Trường hợp thứ nhất, nhiều người trở lại đạo để được lấy vợ lấy chồng
là người Công giáo một cách thuận lợi nhất. Trường hợp thứ hai, người ta trở
lại đạo thuần túy vì sự thơi thúc của niềm tin, tức theo đạo để được “ơn cứu
độ”; trong số đó có rất nhiều người khi hấp hối muốn được rửa tội và lãnh

nhận các bí tích Cơng giáo để được ơn tha tội và được Chúa đưa lên Thiên
Đàng. Trường hợp thứ ba, có những người trở lại đạo để được thỏa mãn
những lợi ích thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của họ, nói cách khác, họ
gia nhập đạo vì được cho cơm, áo, gạo, muối,… Trường hợp này thường xảy
ra đối với các tín đồ dân tộc ít người trên các vùng cao nơi mà kinh tế cịn
nhiều khó khăn như Tây Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên. Trong các trường hợp
nêu trên, theo thống kê của Giáo hội Công giáo Việt Nam, đa số những người
đã trưởng thành xin trở lại đạo để được kết hôn với người Công giáo.
Nghĩa thứ hai, hôn nhân Công giáo tức là giáo lý, giáo luật, những nghi
lễ, thủ tục,… của Giáo hội Công giáo về vấn đề hôn nhân.
Trong Giáo lý Công giáo, hôn nhân là một đề tài lớn, một vấn đề rất
quan trọng. Từ trang đầu tới trang cuối, Kinh Thánh vừa đề cập tới hôn
nhân và con người vừa đề cập tới mầu nhiệm tình u và hạnh phúc của lồi
người.
Những trang đầu Kinh Thánh đã tường thuật về việc Thiên Chúa sáng
tạo con người: Ban đầu Thiên Chúa đã sáng tạo lồi người khơng gồm hai
người nam hoặc hai người nữ, mà gồm một người nam và một người nữ để họ
chung sống với nhau mà cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo liên tục
của Ngài [13, tr. 32]. Như thế, hôn nhân đã nằm ngay trong ý định sáng tạo
nguyên sơ của Thiên Chúa. Hơn nữa, ngay trong trật tự sáng tạo, Thiên Chúa
đã sáng tạo người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài; mà Ngài là tình yêu,
15



×