Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

vị trí, vai trò của đảng chính trị trong đời sống chính trị của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.68 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..........................................................................................3
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
................................................................................................................................3
1.1. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.......................3
1.1.1. Phong trào Cần Vương.........................................................................3
1.1.2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước...............4
1.1.2.1. Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác
động bên ngoài............................................................................................4
1.1.2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa............................................................4
1.1.2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nơng, binh:...............5
1.2. Q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam............................................6
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.........................................6
1.2.2. Con đường "cách mệnh” Nguyễn ái Quốc...........................................8
1.2.3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.............................................10
1.3. Thực trạng Đảng Cộng Sản Việt Nam.......................................................11
1.3.1. Giới thiệu chung..................................................................................11
1.3.2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng...........................13
1.3.3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng..................13
1.3.4. Thành tựu............................................................................................14
1.3.5. Hạn chế...............................................................................................16
CHƯƠNG II: VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM..................................................................................18
2.1. Đảng lãnh đạo nhà nước và đảm bảo ổn định chính trị.............................18
2.1.1. Đảng lãnh đạo nhà nước.....................................................................18
i


2.1.2. Đảng đảm bảo ổn định chính trị..........................................................19
2.2. Vai trị của Đảng trong nền kinh tế thị trường...........................................21


2.2.1. Quá trình thực hiện.............................................................................21
2.2.2. Kết quả đạt được.................................................................................23
PHẦN III: KẾT LUẬN..........................................................................................25

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian
khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân
dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn
mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân dân ta dành được những thắng
lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại quá trình lịch sử của Cách mạng Việt Nam chúng ta thấy Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân
tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi thành cơng cũng như lúc sai lầm,
khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tát yếu khách quan của
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại
mới; là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị
về tư tưởng , chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng; là một sự sàng lọc và
lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử cách mạng Việt Nam tù khi mất nước vào tay đế
quốc thưc dân Pháp. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng dân tộc Việt Nam
Trước khi Đảng ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng chùng đều
bị thất bại trước sự đàn áp dã man của bọn thực dân Pháp. Chỉ đến năm 1924
Nguyễn Aí Quốc trở về thống nhất ba Đảng lúc bấy giờ thành một Đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng mới được
giải quyết. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Aí Quốc – Hồ Chí
Minh – người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người là người Việt

Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào đặc điểm
lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Vai trò quan trọng của Người được thể hiện rõ
nét trong quá trình thành lập Đảng cũng như trong q trình đấu tranh giải phóng
dân tộc thống nhất đất nước.

1


Qua q trình học tập và tìm hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài “ Vài trị của Đảng
chính trị tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu để có cái nhìn sâu hơn về mặt thực
tế cũng như lý luận.
Ngoài phần Mở Đầu, Kết luận, Tài Liệu Tham Khảo Nội dung bài viết gồm
có các phần sau:
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHƯƠNG II: VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
VIỆT NAM

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1.1. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác
liệt, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
anh dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta
đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham
gia đấu tranh dưới ngọn cờ cảu các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh
hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức,

lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các phong
trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa đó
đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.
1.1.1. Phong trào Cần Vương
Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam với hoà
ước 1884, cuộc đầu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã chuyển qua
một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn cơng trại lính Pháp mằn cạnh kinh thành
Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu nước trẻ tuổi
Hàm Nghi. Bị thất bại, Tôn Thát Thuyết đã phò vua Hàm Nghi lánh vào vùng rừng
núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng tồn dân tiếp tục chiến
đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa phương ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX.
Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết với các thổ hào
địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nơng dân trong vùng, dùng vũ khí thơ
sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định của thực dân Pháp. Các sĩ phu muốn khơi phục
một vương triều phong kiến có chủ quyền, các thổ hào muốn dành lại những thế lực
bị tước đoạt, nơng dân chống lại sự bóc lột thuế má và cướp đoạt ruộng đất, tất cả
gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào yêu nước chống xâm lược mang tính
chất truyền thống. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương đẫ thất bại vì rời rạc, lẻ
tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất.
3


1.1.2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước.
1.1.2.1. Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác động bên
ngoài.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, trước
những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truền thống Vệt Nam biến
đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong các cơng trường và hầm mỏ)
hình thành. ở đô thị xuất hiện một tầng lớp công thương và tiểu tư sản thành thị.

Tầng lớp sĩ phu nho học bên cạch đọc các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này cũng
đã đọc ngững cuốn sách mới của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy phong
trào cải cách chính trị – văn hố ở Trung Quốc, cùng với những tư tưởng cách mạng
Pháp được dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy
được thế suy tàn của các chế độ phong kiến châu á và sự cần thiết phải cải cách xã
hội.
1.1.2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa
Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng chính trị mới:
trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tục phong trào Cần Vương yêu
nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét mới khác trước. Tầng lớp
khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Lòng u nước của họ
khơng cịn bám giữ vào những tư tưởng “trung quân” mà đã chuyển sang ý thức về
một chủ nghĩa quốc gia – dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào trong cả
nứơc. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng, muốn đánh
đuổi thực dân Pháp, không thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi nghĩa vũ
trang như trước đây, mà còn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị,
ngoại giao, tiến hánh một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông đảo quần
chúng nhân dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là các nhà chí
sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lịng u nước, chủ trương vận động
quâng chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngaòi, tổ chức bạo động để
đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nền chế độ chính trị dựa
vào dân. Ơng đã lập hội Duy Tân, vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viên, tổ chức
phong trào Đông Du đưa các thanh thiếu niên Việt Nam sang học ở Nhật để chuẩn
4


bị lực lượng chống Pháp và dùng văn thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân . Cuộc
vận động Đông du chỉ diễn ra được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết .
Những du học sinh Việt Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phải rời

khỏi đất nước này.Sau cách mạng Tân Hợi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ
chức Việt Nam Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khỏi nghĩa, nhưng
cũng không tránh khỏi bị thât bại.Phan Bội Châu là một người anh hùng đầy nhiệt
huyết nhưng không gặp thời thế.
Phan Châu Trinh gần đồng thời với Phan Bội Châu, là một sĩ phu ở Quảng
Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ơng đã từng bơn ba ở nhiều
nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng phương pháp
nâng cao dân trí, dân quyền. Ơng vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi
Pháp phải sửa đổi chính sách cai trị ở thuộc địa. Chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng dan
chủ của Phan Châu Trinh, nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi lên như
việc thành lập nhà trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, phong trào
Duy Tân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể hiện một tinh thần dân tộc yêu
nước sâu sắc, nhưng chủ trương dùng cải cách để cứu nước của ơng có phần không
hợp thời thế.
1.1.2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng cơng, nơng, binh:
Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông binh trong thời kỳ này. ở đây
những cuộc đấu tranh so với phong trào của giới sĩ phu thường là thiếu đường lối, tổ
chức nhưng lại đông đảo, quyết liệt hơn. Năm 1908, do ảnh hưởng của những tư
tưởng cải cách của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân hô hào đời sống mới,
một phong trào chống sưu thuế của nông dân đã lan rộng ra ở nhiều tỉnh. Hàng ngàn
nơng dân nổi dậy biểu tình, bao vây huyện lị đòi giảm sưu thuế. Đáng chú ý là khởi
nghĩa của nơng dân n Thế của Hồng Hoa Thám, họ đã liên lạc với tổ chức yêu
nước của Phan Bội Châu trong một kế hoạch tấn công vào Hà Nội.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng cịn ít nhưng bước đầu đã
tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi cơng bạo động của công nhân các
công trường đường sắt(Yên Bái), học sinh trường Bách Nghệ (Sài Gòn) và một số
5



cơng nhân tàu biển. Ngồi ra cịn có những cuộc bạo động khởi nghĩa chống Pháp
của dân tộc ít người.
Ngồi tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX cịn có một lực
lượng xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó là các binh lính
người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách dùng người Việt để trị
người Việt nên qua những cuộc càn quét những binh lính Việt đã thấy được tận mắt
nhữnh tội ác của giặc, lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa do sự đối xử của
thực dân Pháp đối với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy bạo
động khởi nghĩa.
Những phong trào dân tộc – dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX do
những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tham gia, tuy khơng thành cơng nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó là
những bước đi ban đầu để tìm ra một con đường mới, dúng đắn trong cuộc cách
mạng dân tộc và cách mạng xã hội.
1.2. Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu nước
và dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bọc lột của bọn
địa chủ và thực dân Pháp đã lần lượt diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc
biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng, biểu tình.
Tuy nhiên trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong
trào này cuối cùng đều khơng thành cơng. Nhưng ngun nhân cơ bản đó lá những
người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản ánh
đúng nhu cầu phát triển của xã hộ Việt Nam. Cách mạng nước ta đang đướng trước
cuộc khủng hoảng về đường lối.
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong đêm tối chưa tìm được lối ra,
Nguyễn ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc từ tháng 6 năm 1911
đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư tưởng tự do, đan chủ và khoa học
kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập họ rồi trở về giúp đồng bào
mình cởi bỏ xiềng xích nơ lệ. Trên con đường bôn ba khắp năm châu, bốn bể, vừa

6


lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư
sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp Địng thời Người
tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh, hội họp do Đảng xã hội Pháp – một
đảng duy nhất trong số các đảng ở Pháp đấu tranh bảo vệ các dân tộc thuộc địa. Đến
cuối năm 1918, một biến chuyển quan trọng đã diễn ra trong cuộc đời của Nguyễn
ái Quốc: Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Người là người Việt Nam đầu tiên
tham gia một đảng chính trị của “mẫu quốc”. Trong quá trình tham gia hoạt động
Đảng và nghien cứu về cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn ái Quốc đã tập
hợp được nhiều bài học quý về lực lượng cách mạng, về tổ chức, về tinh thần, ý chí
cách mạng và đặc biệt là bài học về con đường cách mạng. Người vạch rõ:” Cách
mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi,tiếng là cơng hồ và dân chủ, nhưng kỳ thực trong thì nó tước lực cơng
nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. ”Chúng ta dã hy sinh làm cách mệnh, thì nên
làm cho đén nơi nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho đan chúng số
nhiều…Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc”.
Giữa tháng giêng năm 1919, Pa-ri long trọng tổ chức hội nghị hồ bình. Giới
cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết” chiến tranh càng nhanh càng
tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên baừng cách bóc lột các nước bại trận. Nguyễn
ái Quốc đã gửi đén hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản u sách của nhân dân
An Nam” địi chính phủ Pháp công nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của
nhân dân Việt Nam. Bản u sách đó khơng được hội nghị quan tâm đến. Từ thực tế
đó người ra một kết luận quan trọng : tự do bình đẳng bác ái…những chữ tốt đẹp đó
chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che đậy những tội ác của chúng.
Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm chiến
tranh để làm bia đỡ đạn cho chúng hoá ra chỉ là một trò bịp bợm. Chẳng bao giờ cầu
xin được cơng lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thốt ở đâu ? Chỉ ở trong đấu tranh, đấu
tranh một mất, một cịn. Để giải phóng mình nhân dân các dân tộc thuộc địa phải lât

đổ ách thông trị của bọn áp bức. Cách mang là trận đánh quyết liệt, nhờ nó mà
thành luỹ thực dân tưởng như bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản yêu sách”
đã trở thành một tun ngơn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới trong
việc phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
7


Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng của
Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và thắng
lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga có ý
nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dan tộc của các nước
thuộc địa trên thế giới. Nhờ có Cách mạng thámh Mười Nga, phong tràogiải phóng
dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế
quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn ái Quốc đã hướng đến con đường Cách
mạng tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của cuộc cách mạng đó.
Và bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn
văn Sơ khảo lần thứ nhất những kuận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lê-nin đăng trên báo “Nhân đạo”. Đay là tác phẩm đầu tiên của Lê-nin mà
Nguyễn ái Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại một số câu, cố gắng hiểu sâu
hơn nữa bản chất những tư tưởng của Lê-nin và Người rưng rưng nước mắt, hân
hoan vơ cùng. Người nói to lên như đang đướng trước quần chúng đông đảo:” Hỡi
đồng bào bị đoạ đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”. Bản đề cương đó đã chỉ rõ cho Người “ Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khấc là con đường cách mạng vô sản”.
Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lê-nin, con đường cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản
quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam

đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đán giải
phóng dân tộc.
1.2.2. Con đường "cách mệnh” Nguyễn ái Quốc.
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã tham gia hoạt
đọng trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận đọng phong trào
cách mạng thuọcc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin vè Việt Nam
qua các báo ‘Ngươig cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân” và sau này là
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) của Người.
8


Tháng 12 năm 1924, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ
đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia
sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông, sáng lập và viết bài cho báo
Thanh niên. Và đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách lơgíc cuốn “Bản án chhế độ thực dân Pháp”. “Đường cách mệnh” đã vạch ra con
đường cụ thể để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng: để chiến thắng kẻ thù
hùng mạnh, những nhà cách mệnh Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ
bản: nắm vững học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập đội tiên phong tức là
Đảng cách mạng.
Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải tuân theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa
cũng như người khơng có trí khơn. tàu khơng có bàn chỉ nam”. Nguyễn ái Quốc đã
trình bày một cách \sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lê- nin áp
dụng vào những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn ái Quốc chỉ
ra rằng Việt Nam đang đứng ở ngưỡng của cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc
cách mạng này phải là một giai đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống bọn thực dân và

Đảng phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Theo Nguyễn ái
Quốc, lực lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam sau này là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Luận điểm quan trọng này được Nguyễn ái Quốc trình bày ngay
từ buổi đầu của cuộc cách mạnggiải phóng dân tộc và về sau trở thành luận điểm
chủ đạo, luận diểm quyết định trong hoạt động của Nguyễn ái Quốc và các đồng chí
của Người.
Tác giả “Đường cách mệnh” cũng phát triển hơn nữa tư tưởng của mình và
cho rằng chủ nghĩa u nước chân chính khơng thể tách rời chủ nghĩa Quốc tế vơ
sản. Vì vậy, nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất của các nhà cách mạng Việt Nam là
chăm chú nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường của cách
9


mạng Việt Nam là con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải liên minh với giai cấp vô sản cách mạng
chính quốc. Thống nhất và gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong
trào cách mạng thế giới là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. “Cách mạng Việt
Nam là bộ phận hợp thành của cách mạng thề giới. Tất cả các nhà cách mạng đều là
bạn của nhân dân Việt Nam”.
Nói tóm lại, hệ thóng quan điểm và lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn
ái Quốc là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Lê-nin,
nó được truyền vào Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX đã trở thành tư
tưởng cách mạng hướng đạo phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức chính trị
theo khuynh hướng cách mạng vơ sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tun truyền của Nguyễn Quốc được giai cấp
cơng nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà cị
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lơi cuốn những người u nước Việt Nam
đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu tranh mạnh

mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân trở thành một lực lượng
chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp
nhân dân phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của cơng nhân ngáy càng
cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất hiện trong các xí nghiệp cơng
nghiệp ở các thành phố lớn địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên
bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông Dương
Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngay từ khi
thành lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý
muốn đóng vai trị Đảng Cộng sản duy nhất ở trong vước. Những cuộc xung đột
nghiêm trọng giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra. Mối quan hệ
giữa các tổ chức Đảng khơng bình thường lại khơng có một cương lĩnh hành động
thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và khơng thể hoạt động có kết quả
10


trong quần chúng. Vì vậy yêu cầu bức thiết của Cách mạng là cần có một Đảng duy
nhất lãnh đạo. Nguyễn ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng u cầu đó của lịch sử:
thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy nhất , lấy
tên là Đảng Cộng sản Vệt Nam. Các đại biểu tán thành chánh cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các
hội quần chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời…
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh cách
mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới, nhuẫn nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc.
Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi

của cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lờn trong lịch sử
cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác-Lênin
với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Sự ra đời
của Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo
cách mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí
Minh – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
1.3. Thực trạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
1.3.1. Giới thiệu chung
Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân
dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ và
coi Đảng là Đảng của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ
với các Đảng Cộng sản và Cơng nhân quốc tế; ngồi ra, Đảng cịn có quan hệ với
11


nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn
của bạn bè và nhân dân u chuộng hồ bình, tiến bộ trên thế giới.

- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, khơng có các đảng
chính trị đối lập nên khơng có sự cạnh tranh về vai trị lãnh đạo của Đảng;
- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy
định tại Điều 4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;
- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
một công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình
đối với tồn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội hoạt động

dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các
tổ chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ thống tổ
chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính
của Nhà nước gồm 4 cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Ngoài
ra, tổ chức đảng còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của
Ban Chấp hành Trung ương.
Hiện nay, tồn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng bộ
tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có gần 1.300 đảng
bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ tương đương là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở
đảng).
Tồn Đảng có hơn 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ cơ sở
và hơn 34.000 chi bộ cơ sở; hơn 1.600 đảng bộ bộ phận, hơn 241.000 chi bộ trực
thuộc đảng uỷ cơ sở với tổng số hơn 3,9 triệu đảng viên. Có 5 loại hình tổ chức cơ
sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình doanh nghiệp); tổ chức cơ sở đảng
12


trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp và tổ chức cơ
sở đảng trong lực lượng vũ trang.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm gần
đây, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở tăng nhanh
và chất lượng khơng ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại
hình đã phát huy vai trị lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mơ hình
mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, cơng tác
chun mơn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình qn mỗi
năm tồn Đảng kết nạp hơn 170.000 đảng viên mới, trong đó số đảng viên trẻ, là
Đồn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 60%; số đảng viên nữ,
đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, làm cho tuổi bình quân của toàn
Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước chuyển dịch theo hướng tích
cực.

1.3.2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng đã xác định như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hồ bình, độc lập, dân
giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ
nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
13


1.3.3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình;
đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; gắn bó mật thiết với nhân
dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước

và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ
chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng..
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng lãnh đạo, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp cơng nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
1.3.4. Thành tựu
Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và qua các kỳ Đại hội, nhận thức
về phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng rõ và đầy đủ hơn: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thơng qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng
cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
14


Đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng
thời phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ
chức khác và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh

vực của đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị nước ta trong những năm qua.
+ Đảng đặc biệt coi trọng việc thể chế hoá, cụ thể hoá quan điểm, chủ trương
đường lối thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
+ Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động lập pháp, giám
sát tối cao và việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
+ Định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại… của Chính phủ.
-

Đảng lãnh đạo cơng tác tun truyền, vận động, giáo dục, thuyết

phục, thực hành công khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy và thực
hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân; phát huy tính năng động, sáng tạo của
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội.
-

Việc lập đảng đoàn, ban cán sự đảng, giới thiệu những đảng viên của

Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các hệ thống chính trị, củng cố tổ chức cơ
sở đảng và phát huy vai trò quản lý, giám sát của tổ chức đảng đối với đảng viên,
nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên đã có tác động tích cực đến việc
giữ vững và nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng.
-

Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được tăng cường. Đảng lãnh

đạo, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị và cán bộ, đảng

viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, về trách nhiệm đối với công việc và thái độ phục vụ nhân dân.

15


-

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và phong

cách, lề lối làm việc của các cấp uỷ và đảng viên có đổi mới theo hướng khoa học,
công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn.
Nguyên nhân:
-

Đường lối đổi mới đúng đắn và những thành tựu đạt được của đất nước trong

hơn 30 năm qua đã đặt ra những yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
và là cơ sở khoa học để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
-

Đảng ta ngày càng quan tâm, nhận thức rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng

của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, coi đổi mới phương thức lãnh
đạo là một trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.
-

Trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng ta vừa giữ vững những


nguyên tắc cơ bản của công tác xây dựng Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, vừa bám sát thực tiễn đất nước, tổng kết thực tiễn, phát huy dân chủ để tìm
tịi, đổi mới một cách sáng tạo.
1.3.5. Hạn chế
Vẫn cịn tình trạng cấp uỷ bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối
với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành những
quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể; về mối quan hệ cơng tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cịn thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác cán bộ
đổi mới chậm; chất lượng công tác tư tưởng, tuyên truyền cịn nhiều hạn chế.
Chậm cụ thể hố tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố cho từng chức danh cụ thể ở các cấp, các ngành.
Chất lượng công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bổ nhiệm cán bộ còn nhiều hạn chế; chính sách đãi ngộ với cán bộ cịn bất cập.
16


Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng,
trọng dụng người có đức, có tài, thay thế kịp thời những người yếu kém về phẩm
chất và năng lực.
Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc; tình trạng họp
hành nhiều, nói chưa đi đơi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách
nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
Nguyên nhân :
-

Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ chiến tranh và quản lý tập


trung quan liêu, bao cấp còn ảnh hưởng đến ngày nay.
-

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng duy

nhất cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập
kinh tế quốc tế… là vấn đề mới mẻ, chưa có thực tiễn trong nước và trên thế giới,
địi hỏi phải tìm tịi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.
Lý luận về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
một Đảng cầm quyền còn nhiều vấn đề chưa làm rõ, nhận thức còn khác nhau.
-

Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và yếu kém trong đội ngũ cán bộ đã tác

động tiêu cực, cản trở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
-

Chậm ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy chế, quy định về sự lãnh đạo và

phối hợp công tác giữa các tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị.

17


CHƯƠNG II: VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành và phát triển đến nay đã hơn
85 năm. Đó là một chặng đường đầy gian lao, khó khăn và thử thách. Nhiều thời kỳ,
nhiều giai đoạn cách mạng với nhiệm vụ, tính chất và nội dung khác nhau Đảng ta

đều vượt qua và giành thắng lợi. Lịch sử đã chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX và qua
những thành tựu trong công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội trong những năm
qua.
2.1. Đảng lãnh đạo nhà nước và đảm bảo ổn định chính trị
2.1.1. Đảng lãnh đạo nhà nước
Trong hệ thống chính trị của Việt Nam, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chính trị. Quyền lực của nhân dân có được thực hiện hay khơng là một nội dung cơ
bản nói lên vai trị, uy tín và trình độ lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam được Hiến pháp thừa nhận là lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội là vì:
- Vì Đảng mang trong mình bản chất giai cấp công nhân và đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời trước hết với tư cách là lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào yêu nước và phong trào cách mạng. Đây
chính là đặc thù riêng biệt của Đảng Cộng Sản Việt Nam bởi khơng có một Đảng
nào trên thế giới ra đời có sự kết hợp của ba yếu tố trên. Nhìn nhận về lịch sử đấu
tranh giành độc lập ta thấy muốn giải phóng và xây dựng thành cơng XHCN, Đảng
ta đồng thời phải giải phóng tồn thể nhân dân lao động,…. Lợi ích của mọi tầng
lớp cơ bản là thống nhất. Đảng phải đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cả dân tộc, không chỉ là trước mắt mà cả về lâu dài. Đó khơng
thể coi là sách lược mà là mục đích và lý tưởng của Đảng. Khi giành được chính
quyền lãnh đạo xây dựng CNXH trách nhiệm của Đảng trước giai cấp và dân tộc
càng tăng lên gấp bội. Vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng phụ thuộc vào việc thực
18




×