TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Họ và tên SV - Mã số SV - Mã nhóm HP
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
TÊN ĐỀ TÀI
Giảng viên hướng dẫn: Ths...
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên
sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đang dần khẳng định vị thế của mình với
thế giới về một nền độc lập, tự do, dân chủ.
Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những
hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ơng ta. Và để có được
nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngồi sự cống hiến, hy sinh của cả một dân
tộc, cịn có những người con kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, khơng
sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Người thanh niên mang tên Nguyễn
Tất Thành đã một mình bơn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại
độc lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc,
một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha
già kình yêu của dân tộc. Cả cuộc đời Người đã cống hiến cho nền độc lập của dân
tộc cho sự tự do của đất nước.
Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một
nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đây là tư
tưởng xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và Bác Hồ, đã
được minh chứng và kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây
dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Hồ Chủ tịch, nhà nước kiểu
mới – nhà nước pháp quyền phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đó là tư
tưởng, ý chí nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Do vậy, sau một thời gian tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” để có cái nhìn sâu và rộng
hơn.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
1.1.1. Cơ sở lý luận
* Học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước
- V.I.Lênin đã khẳng định: “Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề
chính quyền nhà nước”. Vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng vì chỉ giành được chính quyền giai cấp cách mạng mới xác lập
được nền chun chính của mình, triển khai quyền lực của mình trong đời sống xã
hội.
Trong Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết
cách mạng và khoa học này đã gợi mở cho Người tư tưởng về xây dựng một nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam.
Lý luận mácxít về nhà nước cách mạng vơ sản là cơ sở để người đánh giá,
phê phán các học thuyết về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các
nước tư bản. Mơ hình nhà nước vô sản mà cac nhà kinh điển đưa ra ảnh hưởng một
cách quyết định đến q trình Hồ Chí Minh xác lập mơ hình nhà nước cách mạng
Việt Nam. Mơ hình nhà nước Xơ viết mà Lênin tổng kết là mơ hình nhà nước mà
Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng ở Việt Nam.
- Trong tác phẩm Đường cách Mệnh, khi phân tích các chủ nghĩa, các học
thuyết, Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (Hồ Chí
Minh: Tồn tập, Nxb.CTQG, H, 1996, t. 10, tr. 128).
4
- Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu, thừa kế những quan điểm tiến bộ trong tư
tưởng nhà nước “thân dân” của Nho giáo, nhà nước pháp quyền của G. Rút-xô,
Mông-texki-ơ.
* Kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam
- Tư tưởng xây dựng nhà nước của dân tộc được phản ánh trong các bộ sử
lớn, các bộ luật.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước đã tích lũy biết bao kinh nghiệm
quý báu về xây dựng nhà nước được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc: Đại
Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí…; Kinh nghiệm làm luật, trị
nước cũng được ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng: Hình thư (đời Lý), Hình luật (đời
Trần), luật Hồng Đức (đời Lê)… mà giá trị của nó có thể sánh ngang với các bộ luật
nổi tiếng ở p. Đông.
- Tư tưởng xây dựng NN “thân dân”, gần dân của Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Trãi…
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng thịnh
trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà nước “vua Nghiêu Thuấn,
dân Nghiêu Thuấn”, “nước lấy dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo… là những
hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường tìm kiếm một mơ hình
nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập.
Qua đây ta có thể hiểu nhà nước là:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm
duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.).
Theo Từ điển BKVN: tổ chức chính trị của xã hội, cơng cụ cơ bản của quyền lực
chính trị trong xã hội có giai cấp. nhà nước ra đời trong q trình phân cơng lao
động xã hội, hình thành chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và phân chia xã
hội thành giai cấp. Là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, NN phản
ánh và phục vụ những quan hệ sản xuất nhất định, những lợi ích của giai cấp chiếm
địa vị thống trị về kinh tế trong xã hội nhất định. nhà nước nào cũng thực hiện
5
chuyên chính nhằm bảo vệ giai cấp cầm quyền và duy trì trật tự xã hội bằng những
cơng cụ cưỡng bức (quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù...). Các nhà nước đều thực
hiện hai chức năng đối nội và đối ngoại; đối ngoại là sự kế tục của đối nội. Có nhiều
kiểu và hình thức nhà nước khác nhau đã hình thành trong lịch sử. Tương ứng với
các hình thái kinh tế - xã hội thì có các kiểu nhà nước khác nhau: nhà nước chiếm
hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong mỗi kiểu nhà nước lại có các hình thức khác nhau. Nhân tố quyết định những
hình thức khác nhau của một kiểu nhà nước là tương quan lực lượng giai cấp và đặc
điểm dân tộc của từng nước.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
* Hồ Chí Minh đã khảo sát các kiểu nhà nước trên thế giới Người nhận thấy:
- Nhà nước thực dân phong kiến: Đây là nhà nước xấu xa, tàn bạo cả về kinh
tế, chính trị, văn hóa tư tưởng, cần phải thủ tiêu.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vơ nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái gọi là
“công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở xứ “bảo hộ”. Theo Người đây là nhà
nước đi ngược lại lợi ích của đa số nhân dân, nên nhân dân có quyền đuổi chính phủ
đó đi.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân
Việt Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý
đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền tự do,
dân chủ của nhân dân đồng thời là văn bản có ý nghĩa to lớn trong việc tố cáo, lên
án sự thống trị tàn bạo của bọn đế quốc phong kiến và nhà nước thực dân phong
kiến đối với nhân dân Việt Nam.
- Nhà nước dân chủ tư sản: Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng nó là nhà nước
của số ít, dân chủ hình thức, chứa đựng các đối kháng giai cấp, xã hội.
+ Người đã đến các nước tư bản Anh, Pháp, Mỹ đã đến nhiều thuộc địa và
phụ thuộc ở khắp các châu lục. Ở đâu Người cũng sống và lao động thật sự như
những người công nhân để xem xét đời sống kinh tế - chính trị - xã hội và Nhà
nước, chế độ chính trị hiện thời; xem xét đời sống, nguyện vọng, hoạt động đấu
6
tranh của các dân tộc mong muốn có một chế độ xã hội mới tốt hơn. Người cũng
chứng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới với những tổ thất nặng nề, những hy sinh
to lớn, những hậu quả thật nặng nề của nó, đồng thời cũng thấy được tinh thần quật
khởi của các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng.
+ Người coi nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “những cuộc cách
mạng không đến nơi”, vì ở đó chính quyền vẫn nằm trong tay một số ít người – xã
hội bất bình đẳng, đời sống của đa số nhân dân nhất là nhân dân lao động vẫn rất
cực khổ nên Việt Nam không thể đi theo cách mạng tư sản, xây dựng NN dân chủ tư
sản.
Từ đó Người nhận thấy đất nước Việt Nam khơng thể đi theo những mơ hình
nhà nước đó được.
- Nhà nước Xơ-viết: Có nhiều ưu thế nổi bật, đó là Nhà nươc của quần chúng
lao động, dân chủ triệt để, giúp đỡ các dân tộc thuộc địa.
+ Nhà nước Xô – Viết là kết quả của cuộc cách mạng tháng Mười Nga
(1917), cuộc cách mạng đến nơi, đã phát ruộng đất cho dân cày, giao công xưởng
cho thợ thuyền…ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa “thế giới đại
đồng”. Mơ hình nhà nước đó đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây
dựng trong tương lai. Đó là khi giành được chính quyền thì phải chuyển giao về tay
nhân dân lao động
+ Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người chỉ rõ: “Làm cách mệnh rồi thì
giao quyền cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”. Tiếp nối
quan điểm đó, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo năm
1930, Người khẳng định: “Dựng ra chính phủ cơng nơng binh”.
+ Tháng 5 năm 1941, Người tiếp tục khẳng định: “Sau khi đánh đuổi được đế
quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng
hịa…Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra” (tr. 150)
+ Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong Thư gửi đồng bào tồn
quốc (tháng 10/1944), Hồ Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính phủ đại
biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành dộng nhất trí của tồn thể quốc dân, gồm
7
tất cả các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. “Một cơ
cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo cơng việc cứu quốc,
ngồi thì giao thiệp với các hữu bang”(tập 3, tr. 505).
+ Sang năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, Hồ
Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân trên
phạm vi cả nước. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng trong suốt 15
năm đấu tranh liên tục của Đảng, là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam.
1.2. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền là chủ của nhân dân
1.2.1. Nhà nước của dân
- Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng
Điều 1 – Hiến Pháp năm 1946 do Người làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng
định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa. Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”
Điều 32 – Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết…”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu
dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta
- Hồ Chí Minh khẳng định Nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả quyền
lực đều thuộc về nhân dân.
Nhà nước nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định trong xã hội.
Song giai cấp công nhân Việt Nam mà bộ phận ưu tú nhất của nó là Đảng cộng sản
Việt Nam lại đại diện cho quyền lợi của cả dân tộc. Nhận thức được điều đó, Hồ Chí
Minh ln khẳng định nhà nước ta là nhà nước của dân. Nhà nước của dân thể hiện
trên các nội dung sau:
8
+ Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách bầu ra Nhà nước
và chính quyền các cấp.
Ngay sau ngày thành lập nước, để có được một chính phủ của dân, Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ tiến hành tổ chức “Càng sớm càng hay Cuộc tổng tuyển
cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Người nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc
Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là
cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử…Do Tổng tuyển cử mà tồn dân bầu ra Quốc
hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của tồn dân”
(95, t4, tr.72). Xây dựng một nhà nước của dân khơng chỉ trong ý tưởng, thiết kế,
mà cịn bằng hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Ngày 6/1/1946, Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mọi công dân
Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, đảng phái, dân tộc,v.v…được đi bỏ
phiếu, dân chủ lựa chọn những đại biểu của mình vào Quốc hội, để tạo ra bộ máy
nhà nước mới phục vụ nhân dân. Ngày Tổng tuyển cử 6/1/1946 khơng những là
ngày hội lớn mà cịn là minh chứng rõ ràng cho tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
một nhà nước của dân.
+ Nhân dân có quyền kiểm sốt giám sát và bãi miễn đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân.
Nhà nước cũng như chính quyền các cấp do dân bầu ra, vì vậy phải do dân
kiểm sốt, hồn tồn có quyền bãi miễn họ. “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân
dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất
mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn nhiệm vụ của
mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.
+ Nhân dân có quyền bãi miễn, những đại biểu ấy nếu họ tỏ ra khơng xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
+ Dân được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
khơng cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
9
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ.
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị trí của dân, cịn dân làm chủ nghĩa là xác
định quyền lợi, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân với ý nghĩa đó, người
dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm
chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được
đặt ở vị trí tối thượng. Điều này ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo,
những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách, vị thế của mình, khơng phải là
đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân.
1.2.2. Nhà nước do dân
Nhà nước do là Nhà nước do dân dựng xây nên
* Một là, Nhà nước do dân lập nên, dân ủng hộ, dân làm chủ.
- “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ…”
- “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
- Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”.
- Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người
cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, xây dựng nhà nước đồng thời phải có trách nhiệm quản lý nhà
nước. Quyền lợi quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
- Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ khố I, kỳ họp thứ 11 ngày 18/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước địa phương…”. Chúng ta đều biết ngay
từ năm 1946, Quốc hội dược gọi là Nghị viện nhân dân đã được xác định là “cơ
quan cao nhất của đất nước” (Hiến pháp 1946).
10
* Hai là, Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu và
chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Nhân dân phải sử dụng cơ quan quyền lực - người đại diện của mình để thực
hành chức năng quản lý nhà nước. Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ. Trong thời gian Quốc hội khơng họp, thì Hội
đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, là cơ quan chấp hành
luật và nghị quyết của Quốc hội. Trong thời Quốc hội không họp, thì Hội đồng
Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Những vấn đề quan tọng nhất của
nhà nước trong phạm vi toàn quốc đều do Quốc hội quyết định.
* Ba là, Nhân dân phải tham gia vào công việc của NN. Mọi công việc xây dựng
đất nước là trách nhiệm của dân.
- Tuy ở vị trí cao nhất, Quốc hội vẫn không phải là một cơ quan tập trung tất
cả quyền lực. Trong hoạt động của Quốc hội, theo nguyên tắc của Hiến pháp thì
những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phúc quyết, nếu 2/3
tổng số đại biểu của Nghị viện đồng ý (Điều 32, Hiến pháp năm 1946). Chế độ
trưng cầu dân ý tuy được thực hiện khá phổ biến ở các nước, nhưng áp dụng vào
nước ta trong giai đoạn đó là một tiến bộ vượt bậc về tư tưởng, đặt nền tảng nhân
dân trong tổ chức hoạt động của nhà nước. Về điểm này, Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến việc để dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết mọi vấn đề”
(t.5, tr.297).
- Hội đồng nhân dân được xem như một cơ quan “tự quản” của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Hội
đồng nhân dân có quyền quyết định những vấn đề có tính địa phương đã được ghi
nhận trong Hiến pháp và nhiều sắc lệnh. Để đảm bảo cho Hội đồng nhân dân thực
hiện đầy đủ thẩm quyền, các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải gửi lên cơ
quan hành chính cấp trên, trong một thời hạn nhất định nếu khơng có sự bác bỏ
hoặc yêu cầu bổ sung thì Hội đồng nhân dân sẽ đương nhiên thực hiện nghị quyết
đó.
11
- Do đó, phải phát huy vai trị của Mặt trận, các đồn thể trong cơng tác quản
lý nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu
quả nhất định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân.
Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả nhất định phải dựa
vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. Nhà nước do dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo thơng qua các mối quan hệ trong xã hội,
qua các đoàn thể, chứ không phải nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng
của nhà nước là quản lý, điều hành xã hội ở cấp vĩ mơ, “Chính phủ chỉ giúp kế
hoạch, cổ động” chứ không làm thay dân, làm cho dân thụ động, dân ỷ lại, chờ đợi.
1.2.3. Nhà nước vì dân
- Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Thực chất là tất cả mọi hoạt động của nhà nước đều vì nhân dân mà phục vụ,
ngồi ra khơng có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch,
khơng tham nhũng, khơng tiêu cực.
Là nhà nước làm lợi cho dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại cho dân, ta hết sức tránh”.
- Mục đích hoạt động của Nhà nước: Cải thiện và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Là nhà nước phải lo cho dân, bồi dưỡng sức dân Chăm lo mọi mặt đời sống
của dân, trước hết là những lợi ích trực tiếp, thiết thực nhất: cái ăn, mặc, chỗ ở, học
hành, chữa bệnh: “1.Làm cho dân có ăn; 2.Làm cho dân có mặc; 3.Làm cho dân có
chỗ ở; 4.Làm cho dân có học hành”(t.4,tr.152)
- Nhà nước phải biết kết hợp được các loại lợi ích của dân, bảo đảm sự thống
nhất, hài hịa, cơng bằng.
Là nhà nước mà mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của pháp luật từ
TW đến ĐF đều phải xuất phát từ lợi ích của dân: cả lợi ích trước mắt và lâu dài, cả
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hịa. Do đó, là nhà nước biết
12
bảo vệ nhân dân, chống lại những tệ nạn vi phạm quyền dân chủ và lợi ích của nhân
dân.
- Muốn phục vụ tốt nhân dân, nhà nước phải thật sự trong sạch, liên khiết,
chống tham ô, hối lộ, quan liêu, đặc quyền đặc lợi.
Là nhà nước phải yêu dân kính dân: “Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới
u ta, kính ta”. Đó là một quan điểm thật mới mẻ. Nhà nước như vậy chưa từng có
trong lịch sử nhân loại.
- Đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh”. Hồ Chí Minh khẳng định cán bộ nhà nước là đầy tớ của dân chứ không phải
cha mẹ dân như trong các chế độ cũ. Hồ Chí Minh viết: “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán
bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành
nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”
Trong chế độ dân chủ Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ nhà nước từ Chủ tịch
nước đến công chức bình thường đều phải làm cơng bộc, làm đầy tớ cho nhân dân
chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Như vậy kết hợp ba yếu tố Nhà nước (của dân, do dân, vì dân) Hồ Chí Minh
đã khẳng định được tính chất của Nhà nước. Qua đây có thể hiểu được vì sao chúng
ta lại xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân? Và làm thế nào để xây dựng
được một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân? (Phần vận dụng).
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân,
vì dân
Bản chất tốt đẹp của Đảng chỉ được giữ vững, sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo chỉ có thể phát triển và đạt được những thành tựu vững chắc khi Đảng có
dân, được dân ủng hộ, mối quan hệ giữa Đảng với dân thường xuyên được củng cố.
13
Để có được điều đó, Đảng đã khơng ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao và hoàn
thiện sự lãnh đạo của mình. Cụ thể là:
2.1.1. Hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đáp
ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân
Ở đây, tầm nhìn xa, trơng rộng; khả năng nắm bắt được các quy luật khách quan
đang vận động trong hiện tại và dự báo một cách chính xác sự vận động của nó
trong tương lai; khả năng nắm bắt kịp thời, đúng đắn những tâm tư, nguyện vọng và
đáp ứng được lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội; thái độ
nghiêm túc, chú ý lắng nghe ý kiến của nhân dân để kịp thời sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm nhằm hồn thiện đường lối, chính sách của mình là những phẩm
chất hàng đầu mà Đảng phải có. Ngày nay, trong giai đoạn cách mạng mới, quy mơ
và tính phức tạp của nó lại càng đỏi hỏi Đảng phải nâng cao các phẩm chất đó lên
một trình độ mới, cao hơn. Việc xác định nội dung và bước đi, cụ thể hóa những nội
dung của cơng cuộc đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sao cho chính
xác và khi thực hiện thì mang lại hiệu quả cao là những điều không đơn giản.
Chúng ta chủ trương đổi mới cả hai lĩnh vực kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Chính trị là một lĩnh vực rất nhạy cảm, cho nên việc đổi mới hệ thống chính trị
phải được tiến hành rất thận trọng và vững chắc, không để xảy ra sự mất ổn định
trong xã hội, bảo đảm thuận lợi cho toàn bộ tiến trình đổi mới đất nước. Bước đi và
cách tiến hành của Đảng đã được nhân dân chấp nhận và được thực tế chứng minh
là đúng đắn.
2.1.2. Dân chủ hóa đời sống xã hội
Thực hiện dân chủ là bảo đảm trên thực tế quyền làm chủ của người dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy cao độ tính tích cực chính trị xã hội và
sự sáng tạo của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ sau Đại hội VI
của Đảng đến nay, nền dân chủ của xã hội ta đã phát triển một bước đáng kể gắn
liền với việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều đã có những chuyển động tích cực theo hướng
dân chủ hóa.
14
Các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đồn thể quần chúng đều đã có
nhiều cố gắng trong việc tạo ra những cơ chế phát huy dân chủ. Song, đáng tiếc là
những chuyển biến đó chưa nhiều, chưa rộng và chưa sâu. Tình trạng vi phạm dân
chủ cịn diễn ra cả trong sinh hoạt của nội bộ Đảng, của các cơ quan nhà nước và
đoàn thể quần chúng; cả về quyền công dân trên các mặt của đời sống xã hội.
Để dân chủ hóa xã hội, thật sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân phải kiên
quyết chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Nơi nào dung túng cho những kẻ xấu
lộng hành, phá hoại an ninh, trật tự xã hội thì ở đó khơng thể nào có dân chủ. Càng
mở rộng dân chủ càng phải chú ý đến tập trung. Dân chủ và tập trung là hai mặt của
thể chế dân chủ. Chúng ta chỉ chống tập trung quan liêu chứ không chống tập trung
đúng đắn. Tập trung là sự thể hiện của những đòi hỏi về tinh thần trách nhiệm, ý
thức tổ chức kỷ luật, sự tôn trọng kỷ cương và pháp luật - những điều không thể
thiếu được trong một thể chế dân chủ. Khơng có pháp luật, kỷ luật, kỷ cương bảo
đảm thì dân chủ cũng chỉ dừng lại trên những khẩu hiệu chứ không thể trở thành
hiện thực trong cuộc sống.
Để dân chủ hóa xã hội phải khơng ngừng nâng cao dân trí. Trước hết, cần nâng
cao sự hiểu biết về dân chủ và về pháp luật cho mọi người dân. Thí dụ, phải làm cho
dân hiểu rõ, ngày nay nói đến dân chủ thì đó hoặc là dân chủ tư sản, hoặc là dân chủ
xã hội chủ nghĩa, khơng có thứ dân chủ chung chung. Dân chủ ở nước ta là dân chủ
của số đông, là quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động. Dân chủ tư sản đi
liền với chun chính tư sản, cịn dân chủ xã hội chủ nghĩa đi liền với chun chính
vơ sản. Đánh giá nền dân chủ của một chế độ xã hội nào đó khơng thể căn cứ vào
những khẩu hiệu nêu ra mà phải xem nó thực thi khẩu hiệu đó như thế nào. Khi
quần chúng không hiểu biết đầy đủ về dân chủ và pháp luật thường dẫn tới tình
trạng: Một là, khơng biết mình có quyền dân chủ nên khi quyền đó bị vi phạm
khơng đấu tranh để địi lại; hai là, dễ bị kẻ địch lợi dụng, kích động dẫn đến đấu
tranh vơ ngun tắc, có những hành động quá khích.
2.1.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị
Lâu nay có một số người hiểu sai lệch khái niệm Đảng cầm quyền. Họ cho rằng,
Đảng cầm quyền đồng nghĩa với cực quyền; Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng thâu
15
tóm mọi quyền lực về tay mình. Vì thế, họ lớn tiếng kêu gọi: Hãy trả lại quyền lực
cho nhân dân; Đảng cầm quyền thì dân mất quyền; muốn cho dân có quyền thì
Đảng phải từ bỏ vai trị lãnh đạo của mình. Thật ra, Đảng lãnh đạo là để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Quyền của Đảng và quyền của dân không hề đối lập
nhau.
Thực tế đã cho thấy, chỉ khi nào Đảng giữ vững được vai trị lãnh đạo của mình
thì dân mới có quyền lực thực sự và khi nào quyền lực thực sự thuộc về nhân dân
thì vị trí, vai trị, uy tín của Đảng mới được củng cố. Trong điều kiện hiện nay, để
giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng với các thành viên khác của hệ thống chính trị mà trước hết và chủ yếu là
mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Cần phân biệt chức năng lãnh đạo của Đảng
với chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức Đảng các cấp không
làm thay công việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước được thông qua cơ chế dân chủ do luật định, thơng qua các tổ chức Đảng
và đảng viên của mình hoạt động trong bộ máy nhà nước.
Đảng đặc biệt coi trọng sự nghiệp đồn kết tồn dân tộc thơng qua Mặt trận Tổ
quốc. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần tăng cường mối quan hệ mật
thiết với Mặt trận, cử đại biểu của Đảng đến dự các buổi sinh hoạt của Mặt trận,
lắng nghe ý kiến của các đại biểu thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp
nhân dân; trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng với Mặt trận; thực hiện tốt
sự đối thoại, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa Đảng và
các đoàn thể, các tổ chức, các nhân sỹ tiêu biểu trong Mặt trận Tổ quốc. Các đoàn
thể quần chúng và các tổ chức xã hội có vai trị quan trọng trong việc giáo dục, tổ
chức phong trào quần chúng, tham gia quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.
Đảng cần hướng sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể quần chúng
và các tổ chức xã hội vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên đi đơi với động viên
nhân dân góp phần vào sự nghiệp chung của cách mạng. Từ việc đáp ứng những lợi
ích vật chất và tinh thần một cách thiết thực, bênh vực lợi ích chính đáng của đồn
16
viên, hội viên mà tạo ra sự gắn bó của họ với đồn thể của mình nói riêng và với
Đảng nói chung.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng cách: Xây dựng Cương lĩnh, đường lối
chiến lược, xây dựng những mục tiêu cơ bản của cách mạng trên các lĩnh vực đối
nội, đối ngoại, định hướng hoạt động cho các tổ chức thành viên của hệ thống chính
trị. Kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn chỉnh
chủ trương, đường lối, kịp thời thay đổi hoặc điều chỉnh những chủ trương chưa sát
với thực tế. Nắm công tác cán bộ, chuẩn bị các cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong bộ
máy nhà nước; giới thiệu cán bộ cho các cơ quan dân cử và các đoàn thể quần
chúng để họ bầu cử một cách dân chủ, khơng gị ép, áp đặt.
2.1.4. Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt: Tư
tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức hoạt động. Trước mắt, Đảng chủ trương làm tốt
những việc sau:
- Tiếp tục triển khai một cách tích cực và mạnh mẽ chủ trương chống tham
nhũng; xử lý thật nghiêm từ trên xuống dưới những người mắc sai lầm, khuyết điểm
này, bất kể người đó ở cương vị cơng tác nào.
- Nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng, bởi vì đó chính là chiếc cầu nối liền Đảng với dân. Dân có tin Đảng hay
khơng, mối quan hệ giữa Đảng với dân có mật thiết hay khơng phụ thuộc rất lớn
vào các tổ chức cơ sở Đảng. Dân chỉ tin Đảng và thật sự theo Đảng khi trong hoạt
động thực tiễn, các tổ chức Đảng và đảng viên ở cơ sở thật sự là tấm gương sáng để
nhân dân noi theo.
- Đổi mới công tác cán bộ. Trong bối cảnh thực hiện công cuộc đổi mới và
chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo, cơng tác cán bộ có một tầm quan trọng đặc biệt. Hiện
nay, nhiệm vụ hàng đầu của công tác cán bộ là đào tạo cho được đội ngũ cán bộ
thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường nhưng phải vững vàng về chính trị, trung
thành với lý tưởng của Đảng; loại bỏ ngay những phần tử cơ hội, nhất là cơ hội về
chính trị, lợi dụng đổi mới để tấn công vào học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
17
Minh và sự lãnh đạo của Đảng ta hòng phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ định tư
tưởng Hồ Chí Minh, phủ định chủ nghĩa xã hội và vơ hiệu hóa vai trò lãnh đạo của
Đảng, tách Đảng ra khỏi nhân dân... Ngoài ra, hết sức chú ý đào tạo, bồi dưỡng,
kiện tồn đội ngũ cán bộ cơ sở, vì cán bộ cơ sở là những người hàng ngày tiếp xúc
với dân, đem chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống và biến
thành hành động của đông đảo quần chúng. Thực tế cho thấy, ở nơi nào có đội ngũ
cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ cốt cán vững vàng thì ở đó phong trào mọi mặt phát
triển tốt.
2.2. Một số giải pháp vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân và vì dân
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước, việc tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần
tập trung vào một số việc sau đây:
1- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước phải
luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt các chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và
chính sách đó; phải ln ln gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo
đảm quốc phòng, an ninh.
2- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải dựa vào lực lượng
nhân dân, phát huy dân chủ XHCN; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
3- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và phân công quyền
lực Nhà nước thật sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước thực hiện ba quyền thống nhất có
sự phân cơng rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối
hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,
18
bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
19
KẾT LUẬN
Kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực, nhất là trong bối cảnh
tình hình quốc tế, khu vực có nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay, kinh tế vĩ mô
ổn định; lạm phát được kiểm soát; thu ngân sách tăng khá; các ngành, lĩnh vực chủ
yếu phát triển ổn định. Đời sống nhân dân được cải thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã
hội, mơi trường, cải cách hành chính, phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quốc
phịng, an ninh, đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực, tạo khơng khí phấn khởi trong
tồn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, các
nhà đầu tư trong nước và nước ngồi.
Tuy nhiên, trong q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thời gian qua vẫn cịn những hạn chế, bất
cập cần tiếp tục giải quyết. Đó là, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập; việc thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân còn những hạn chế; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cịn
chậm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của khơng ít cấp ủy cịn thấp, thậm chí có
nơi mất sức chiến đấu…
Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, bộ máy nhà nước,
cần đặt người dân vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động và lấy tinh thần phục vụ
nhân dân làm nền tảng hoạt động. Tiếp tục đổi mới mơ hình tổ chức, hình thức,
phương thức hoạt động của cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương nhằm
hướng tới một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn các
yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, quốc phịng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân. Kiện tồn tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất yêu cầu xây dựng nền hành
chính dân chủ, hiện đại.
20