Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

“Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.43 KB, 19 trang )

Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
1. Lý do khách quan:
- Nhìn chung chất lượng giáo dục ở nước ta hiện nay còn thấp, chưa
đáp ứng được mục tiêu mà Đảng ta đã chỉ ra. Nguyên nhân dẫn đến chất
lượng không được như mong muốn như thế có nhiều. Song vấn đề mấu
chốt hiện nay vẫn là phương pháp dạy học.
- Ngày nay, việc dạy học không chỉ trang bị cho học sinh (HS) một
lượng kiến thức tối đa làm nền tảng vững chắc cho cuộc sống sau này mà
còn rèn luyện cho các em những kĩ năng xử lý các vấn đề nảy sinh trong
cuộc sống. Bởi vì với lượng thơng tin và tri thức ngày càng tăng và thay đổi
nhanh chóng thì việc dạy học nếu chỉ với mục đích trang bị kiến thức cho
HS là chưa đủ mà cần dạy cho các em cách học, cách tiếp cận, vận dụng tri
thức vào trong cuộc sống và sáng tạo tri thức mới. Do đó, nội dung giảng
dạy ngày nay cần chú trọng kiến thức cơ bản và cốt lõi là rèn luyện kĩ năng
tự học, tự nghiên cứu để giúp các em tự học tập trong tương lai và học tập
suốt đời. Phương pháp dạy và học bằng bài tập tình huống phần nào đáp
ứng được u cầu đó.
- Bộ mơn Giáo dục cơng dân (GDCD) là mơn học có tính giáo dục
cao và yêu cầu HS phải biết thực hiện các chuẩn mực đạo đức và Pháp luật
đã học vào trong cuộc sống. Sử dụng bài tập tình huống là một phương
pháp dạy học tích cực nhằm thu hút được sự say mê, hứng thú, khơi gợi
được tiềm năng sáng tạo của HS trong mơn GDCD. Bên cạnh đó phương
pháp này còn rèn cho HS một số kĩ năng cần thiết như: kĩ năng hợp tác, kĩ
năng tư duy sáng tạo, kĩ năng thu thập và xử lí thơng tin, kĩ năng giải quyết
vấn đề, kĩ năng trình bày quan điểm trước tập thể, kĩ năng sáng tạo khi đưa
ra các giải pháp cho vấn đề, kĩ năng giao tiếp…
2. Lý do chủ quan:
- Robinson có viết: “Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình


huống của thực tiễn cuộc sống”. Do vậy, việc dạy học bằng sử dụng bài tập
tình huống sẽ giúp cho các em có được một sự chuẩn bị chu đáo, một bản
lĩnh vững vàng trước sự biến đổi muôn màu của cuộc sống.
- Nhằm giúp cho các em có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành Pháp
luật, biết đấu tranh chống các hành vi vi phạm Pháp luật và đặc biệt là tạo
được hứng thú, sự chủ động, tích cực của các em trong học tập.
- Sau một thời gian tích cực sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy
GDCD, tơi thấy HS u thích mơn học hơn, tiết học trở nên sinh động, hấp dẫn
hơn và từ đó đề xuất sáng kiến “Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống
trong giảng dạy Giáo dục công dân 9”

Trang 1

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

II. Lịch sử nghiên cứu:
Qua việc giảng dạy, nghiên cứu sáng kiến, chúng tôi nhận thấy những
tài liệu hiện có chỉ dừng lại ở:
- Gây hứng thú cho học sinh.
- Tính tích cực trong giờ dạy.
- Những bài tập tình huống được sử dụng chung chung, chưa có
hướng dẫn cho giáo viên (GV) biên soạn và sử dụng.
III. Mục đích nghiên cứu:
Đi sâu vào việc giúp GV biên soạn và sử dụng bài tập tình huống
trong giảng dạy GDCD 9.
IV.Nhiệm vụ nghiên cứu.
Khi xác định đề tài tôi thấy cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu khái niệm bài tập tình huống.
- Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp về việc sử dụng bài tập tình
huống trong giảng dạy bộ mơn GDCD 9.
- Nghiên cứu tài liệu liên quan đến bài tập tình huống mơn GDCD.
- Thực nghiệm những bài tập tình huống do chính mình biên soạn.
- So sánh đối chiếu và rút ra kết luận.
V. Phương pháp nghiên cứu.
1. Dự giờ:
1.1. Mục đích:
- Nghiên cứu các tiết dạy của đồng nghiệp để thấy khả năng tiếp
thu bài của học sinh.
- Xem các bài tập tình huống được sử trong các giờ dạy GDCD
cũng như hiệu quả của nó.
1.2. Đối tượng:
- Đồng nghiệp dạy môn GDCD ở trong huyện.
- Đồng nghiệp dạy môn GDCD ở đơn vị đang công tác.
1.3. Cách tiến hành:
- Tham gia các tập huấn chuyên môn.
- Xin dự giờ các tiết dạy GDCD của đồng nghiệp.
2. Toạ đàm:
2.1. Mục đích:

Trang 2

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

Cùng đồng nghiệp dạy bộ mơn GDCD trao đổi để đánh giá tình

hình sử dụng bài tập tình huống trong các giờ dạy GDCD. Từ đó đề xuất
việc sử dụng bài tập tình huống cho thích hợp.
2.2. Đối tượng:
- Đồng nghiệp dạy bộ mơn GDCD nơi công tác.
- Một số đồng nghiệp dạy GDCD công tác ở trường khác.
2.3. Cách tiến hành:
- Phổ biến cách tiến hành nghiên cứu cũng như tác dụng của bài
tập tình huống trong các giờ dạy với đồng nghiệp.
- Sau khi dự giờ các giờ dạy GDCD không sử dụng bài tập tình
huống cũng như có sử dụng cùng nhau trao đổi để nhận xét đánh giá về
hiệu quả của việc sử dụng này.
3. Quan sát khách quan:
3.1. Mục đích:
- Xác định việc tiếp thu bài của HS sau khi thực hiện tham gia
xử lý tình huống mà GV nêu ra.
- Quan sát khả năng ứng phó với những tình huống trong thực tế
cuộc sống.
3.2. Đối tượng:
GV dạy GDCD và HS trường THCS Nguyễn Tuấn Việt - Khối 9
(năm học: 2011-2012 và năm học: 2012-2013)
3.3. Cách tiến hành:
- Cho HS các lớp mình dạy thực hiện xử lý bài tập tình huống và
một lớp khơng đưa ra bài tập tình huống. Từ đó rút ra hiệu quả của việc sử
dụng này.
- Theo dõi việc rút ra những bài học thực tế từ những bài tập
tình huống mà GV sử dụng trong giờ dạy.
VI/ Giới hạn đề tài.
1.Thời gian
- Nghiên cứu từ đầu năm học 2011-2012
- Xây dựng đề cương từ 1-10-2012 đến 1-11 -2012

- Thực hiện đề tài từ 2-11-2012 đến 20-12-2012
- Viết nháp từ 20-12-2012 đến 1-1-2013
- Hoàn chỉnh từ 2-1-2013 đến 15-02-2013.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong mơn GDCD 9.
Trang 3

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

3. Khách thể nghiên cứu:
GV và HS Trường THCS Nguyễn Tuấn Việt nói chung, học sinh
khối 9 năm học 2011-2012 và năm học 2012-2013 nói riêng.
VII. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
Người viết không dừng lại ở việc nêu ra những bài tập tình huống có
tính thực tế cao mà cịn giúp GV tự biên soạn và sử dụng bài tập tình huống
hiệu quả nhất.

Trang 4

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

B. NỘI DUNG
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. Cơ sở lý luận.

- Định hướng đổi mới về phương pháp dạy học của Đảng và Nhà
nước đã được pháp chế hóa trong văn bản pháp luật. Trong Luật Giáo dục
(sửa đổi, bổ sung) năm 2009 Điều 18, khoản 2 đã nêu rõ: “Phương pháp
giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”. Vận dụng định hướng trên, việc sử dụng
phương pháp dạy học môn GDCD cần định hướng vào việc phát triển tính
tích cực nhận thức, kĩ năng học tập, thái độ tự giác và chủ động, khả năng
độc lập hoạt động , khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề của HS. Khi
dạy học việc sử dụng bài tập tình huống sẽ giúp cho HS có cơ hội thể hiện
lập trường, ý kiến của bản thân về những vấn đề đạo đức, Pháp luật trong
cuộc sống. Bên cạnh đó phương pháp này cịn có tác dụng kích thích HS
suy nghĩ, phán đốn, lựa chọn những phương án để xử lí. Nhờ vậy mà HS
tích cực hoạt động và chiếm lĩnh các giá trị đạo đức và Pháp luật một cách
tự giác.
- Như chúng ta được biết tư duy bắt đầu khi có nhu cầu hiểu biết một
cái gì đó. Tư duy thường xuất phát từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ một
sự ngạc nhiên hay một điều trăn trở. Như vậy, tư duy chỉ bắt đầu từ một
tình huống có vấn đề - đó là trạng thái tâm lý độc đáo của con người khi
chúng ta chưa tìm ra hướng giải thích hiện tượng, sự kiện, quá trình trong
thực tiễn, khi con người chưa thể đạt đến bằng các cách thức hành động
quen thuộc. Do vậy, tình huống được sử dụng sẽ kích thích người học như
phân tích, bình luận, đánh giá, suy xét và trình bày ý tưởng của mình. Qua
đó từng bước chiếm lĩnh tri thức hay vận dụng những kiến thức đã học vào
những trường hợp thực tế.
- Dạy học bằng tình huống là phương pháp trong đó GV đưa học sinh
vào những tình huống trong cuộc sống, chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã
biết và cái chưa biết. GV sẽ là người hướng dẫn kích thích học sinh chủ

động, tự lực tìm hiểu tình huống, tìm giải pháp cần thiết để giải quyết tình
huống đó. Từ đó, việc chiếm lĩnh tri thức đối với học sinh sẽ dễ dàng hơn,
các em sẽ rút ra bài học cho bản thân, định hướng được thái độ, hành vi của
mình theo hướng tích cực trong cuộc sống.
II. Thực trạng vấn đề.
- Giáo dục đạo đức và Pháp luật trong nhà trường là vô cùng quan
trọng vì giáo dục đạo đức và Pháp luật trong nhà trường nhằm mục đích
trang bị cho HS những kiến thức đạo đức và Pháp luật cơ bản từ đó góp
Trang 5

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

phần điều chỉnh hành vi, cách xử sự của các em, góp phần hình thành ở các
em phong cách sống và làm việc theo chuẩn mực đạo đức và Pháp luật, là
một trong những biện pháp tích cực nhất trong hoạt động phịng ngừa, ngăn
chặn hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra sau này.
- Thế nhưng HS thường cảm thấy gặp khó khăn trong các bài học về
đạo đức và Pháp luật, vì các bài học này khơ khan và khó nhớ. Nếu như chỉ
dùng phương pháp vấn đáp hoặc thuyết trình các khái niệm đạo đức và
Pháp luật thì các em sẽ không hiểu được cặn kẽ vấn đề dẫn đến các em dễ
rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà khơng hiểu nên rất mau
qn. Cịn khi giảng dạy bằng việc sử dụng bài tập tình huống sẽ giúp cho
HS dễ hiểu và dễ nhớ các vấn đề lý thuyết phức tạp.
- Thơng qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người học có
thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này
một cách dễ dàng trong thời gian dài. Vì vậy việc dùng tình huống để giảng
dạy bộ môn GDCD hết sức cần thiết đặc biệt là trong giáo dục đạo đức và

Pháp luật cho HS. Hiện nay, nhiều GV có sử dụng nhưng chưa được chú
trọng vì đa số GV sử dụng tình huống để cho các em xử lí khi củng cố bài
học hay khi thực hành bài tập. Theo tôi nghĩ việc sử dụng bài tình huống
cần rộng rãi hơn trong bài học. Có khi nó là một vấn đề cần suy ngẫm khi
giới thiệu vào bài học để mong tìm ra cách giải quyết có hiệu quả, có khi nó
là phương tiện để khai thác nội dung bài học, để minh họa hay mở rộng vấn
đề, có khi nó là tình huống do các em đặt ra để trao đổi cùng các bạn về
một vấn đề nào đó các em băn khoăn, có khi nó là một tình huống để các
em củng cố bài học hay thực hành bài tập…
III. Nhiệm vụ của kinh nghiệm cần được tổng kết.
Từ thực trạng đã nêu tôi thiết nghĩ chúng ta cần:
- Giúp cho GV dạy mơn GDCD nắm được mục đích, u cầu, đặc
điểm và tác dụng,… của bài tập tình huống .
- GV sử dụng bài tập tình huống đúng mục đích hoạt động.
- Sử dụng linh hoạt, khoa học các bài tập tình huống vào quá trình lên
lớp, để tạo hứng thú môn học cho HS.
- Sử dụng đúng thời điểm: vào bài, dạy nội dung, luyện tập hay củng
cố bài học, kiểm tra đánh giá HS.

Trang 6

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

Chương II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
I/. Phân tích kết quả nghiên cứu:
1. Thuận lợi – khó khăn:
1.1. Thuận lợi:

- GV ngày nay được trang bị nhiều kiến thức mới, được tập huấn qua
nhiều lớp thay sách giao khoa. Có điều kiện trao đổi, dự giờ các đồng
nghiệp.
- HS có điều kiện học tập tốt hơn, nhạy bén trong các trong việc xử
lý các tình huống.
- GV có cơ hội đánh giá thái độ học tập và cách ứng xử của HS qua
việc xử lý những bài tập tình huống:
+ Để phát triển tư duy.
+ Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức.
+ Phân tích kĩ năng xử lý tình huống.
1.2. Khó khăn:
- Do đặc thù bộ mơn nên việc biên soạn bài tập tình huống phù hợp
trong giờ dạy GDCD của GV luôn gặp khó khăn.
- HS chưa quan tâm nhiều đến việc xử lý những tình huống trong
cuộc sống.
2. Kết quả nghiên cứu:
2.1. Những khó khăn khi giáo viên thực hiện biên soạn và sử dụng
bài tập tình huống:
- Nhiều GV chưa nhận ra hết tính thực tiễn của những bài tập tình
huống.
- GV ít khi biên soạn những bài tập tình huống phù hợp với đặc thù
của trường của lớp cũng như những bài tập mang tính thực tế cao.
2.2. Định hướng đổi mới:
- Hiện nay đang tiến hành đổi mới kiểm tra đánh giá cho nên trong
những đề kiểm tra thường xun và kiểm tra định kỳ ln có những bài tập
tình huống để các em giải quyết.
- Mơn GDCD lần đầu tiên cho tiến hành thi HS giỏi vòng huyện và
vịng tỉnh. Những đề thi này ln u cầu HS phải xử lý tình huống.
3. Biện pháp giải quyết:
3.1. Khái niệm tình huống:

Hiện nay, trong khoa học giáo dục có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về tình huống:
Trang 7

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục cơng dân 9

+ Tình huống là những câu chuyện thực tế với những thông điệp
nhằm mục đích giáo dục.
+ Tình huống là những thơng tin trong đó có chứa đựng mâu thuẫn
nhận thức (muốn biết mà chưa biết) không thể giải quyết chỉ bằng sự tái
hiện.
+ Một tình huống tốt và hay khơng dừng lại ở sự mơ tả chung chung.
Đó là sự sắp xếp thơng tin để người đọc có cảm thấy mình đang phải đối
mặt với mọi thứ như chính tác giả. Trong khi đó, sự sắp xếp khéo léo sẽ gói
ghém mọi thứ theo một trật tự. Nó cho người đọc biết mọi thứ, kể cả biết
trước kết cục. Vì thế, người đọc chẳng phải động não bao nhiêu cả.
+ Khi bạn viết một tình huống, để giúp người đọc có cảm giác chinh
phục được thử thách như chính người trong cuộc.
3.2. Khái niệm về bài tập tình huống:
- Bài tập tình huống là những tình huống xảy ra trong quá trình dạy
học được cấu trúc dưới dạng bài tập. Trong dạy học GDCD, những tình
huống được đưa ra là tình huống giả định hay tình huống thực tế đã xảy ra
trong thực tiễn. HS giải quyết được những tình huống trên, một mặt vừa
củng cố và khắc sâu kiến thức, vừa có cơ hội trải nghiệm trong thực tiễn.
- Bài tập tình huống phải có những tình huống có vấn đề để HS tư
duy và vận dụng kiến thức mà mình đã học để giải quyết.
- Bài tập tình huống hiện nay rất đa dạng và phong phú bởi tài liệu

nghiên cứu và các phương tiện truyền thông hiện nay đang thực hiện tuyên
truyền Pháp luật bằng những tình huống cụ thể như đài phát thanh truyền
hình Vĩnh Long với chuyên mục “Ai đúng? Ai sai?” là một ví dụ.
3.3. Định hướng biên soạn.
3.3.1. Yêu cầu của bài tập tình huống:
- Đảm bảo tính khoa học, phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng: Tình
huống phải thực sự có vấn đề, có mâu thuẫn nhận thức và phải tạo ra nhu
cầu nhận thức, gây được cho HS niềm tin (cảm thấy cần thiết có nhu cầu
giải quyết vấn đề) có thể nhận thức được. Tình huống phải đảm bảo phù
hợp với trình độ của HS, đảm bảo sự hoạt động tư duy, sáng tạo từ thấp đến
cao, từ dễ đến khó…
- Đảm bảo tính sư phạm: Đơi lúc có những tình huống ối oăm,
không phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong nhà trường chúng ta khơng
nên sử dụng. Những tình huống được lựa chọn phải mang tính sư phạm cao.
Ví dụ: Tình huống sau: Có một cơ gái tự tử ơn Sơn La. Được biết
nguyên nhân là do bố mẹ cô đã ép cô tảo hôn với người con trai ở bản khác.
Do mâu thuẩn với cha mẹ mình, cơ đã tự vẫn vì khơng muốn lập gia
đình sớm. Trong thư để lại cho người thân, cơ đã nói lên ước mơ và những
dự định trong tương lai của mình.
Trang 8

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục cơng dân 9

Em có suy nghĩ gì về cái chết thương tâm của cơ gái đó? Trách
nhiệm này thuộc về ai?
Tình huống trên khơng sai, thậm chí là thực tế nhưng đối với HS lớp
9 biết q sớm việc tự tử khi khơng hài lịng hay mâu thuẩn với gia đình là

một điều khơng tốt.
- Đảm bảo tính thực tiễn: Những tình huống đưa ra phải sát với thực
tiễn cuộc sống mang tính thời sự cao, như khi ở trường chúng tơi giảng dạy
có sự cố nhiều bạn nữ đánh hội đồng một bạn nữ khác, chúng tơi cho kiểm
tra tình huống sau đây:
Hơm đó, ở trường THCS thành phố H. xảy ra một sự việc đáng buồn.
Mấy bạn nữ lớp 9B đánh hội đồng bạn T chỉ vì lí do “trơng thấy ghét”.
Đáng buồn hơn nữa là một số bạn chứng kiến cảnh đó chỉ đứng xem, khơng
ai can ngăn hay có ý kiến gì.
- Em có tán thành những hành vi trên khơng ? Vì sao ? (1.0 điểm)
- Nếu chứng kiến sự việc đó, em sẽ có thái độ như thế nào và sẽ làm
gì? (1.0 điểm) (trích đề kiểm tra một tiết GDCD 9 HKI)
3.3.2. Cấu trúc bài tập tình huống:
- Tình huống có vấn đề:
+ Vấn đề mà tình huống đặt ra phải gắn với nội dung bài học, các em
giải quyết tình huống phải căn cứ vào những kiến thức được thể hiện trong
chuẩn kiến thức, kĩ năng hiện nay.
+ Vấn đề phải gắn với thực tiễn cuộc sống, có thể xảy ra, để từ đó các
em cảm thấy mình đang trải nghiệm một thực tế.
Ví dụ: Em là một lớp trưởng, có một người anh ruột lớn hơn một tuổi
học cùng lớp và học tương đối yếu nhưng được cái là tương đối hiền. Có
lần anh của em vi phạm làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp, điều đó chỉ có
mình em biết. Em sẽ sử dụng phẩm chất đạo đức nào để xử lí và xử lí như
thế nào để có lợi cho lớp mà khơng mất tình anh em?
Với tình huống trên vấn đề đặt ra phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ
năng cũng như có thể xảy ra trong cuộc sống của các em.
+ Tránh những vấn đề vượt chuẩn kiến thức, kĩ năng; cũng như
những vấn đề xa rời thực tế cuộc sống của các em.
Ví dụ: Thi học kỳ I sắp đến nhưng Long vẫn còn ham chơi, chưa
muốn học bài. Cũng phải thơi vì Long vốn là học sinh thơng minh và có

thói quen trước khi thi Long thức trắng đêm để học thuộc lòng bài học và
thi thường đạt kết quả khả quan. Sau khi thi mặc dù hơi mệt thậm chí ngã
bệnh nhưng chỉ bồi bổ vài ngày là khỏe. Em suy nghĩ gì về việc làm của
Long.

Trang 9

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

Với vấn đề được đặt ra trong tình huống trên, ta thấy học sinh sẽ
không biết vận dụng chuẩn kiến thức, kĩ năng nào để giải quyết; hoặc trong
cuộc sống có ai làm như thế không?
- Yêu cầu giải quyết:
+ Yêu cầu cũng phải đảm bảo tính khoa học: rõ ràng, dễ hiểu; khơng
dài dòng, tránh tối nghĩa.
+ Yêu cầu cũng cần đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng, bởi học sinh
hiện nay vẫn thường học theo những gì GV hướng dẫn (trong chuẩn kiến
thức, kĩ năng)
+ Yêu cầu buộc học sinh phải tư duy, phân tích những khả năng có
thể xảy ra, tránh dễ dãi, đọc là nhận ra liền.
Ví dụ: Chị Hà là người hàng xóm của gia đình em. Chị có người yêu
học trên chị một lớp. Anh chị hẹn nhau sau khi tốt nghiệp đại học thì sẽ làm
lễ cưới. Nhưng ở nhà mẹ chị đã nhận trầu cau và ép chị lấy con nhà giàu.
Chị khơng đồng ý thì mẹ chị dọa tự tử:
- Việc làm của mẹ chị Hà là đúng hay sai?
- Chị Hà nên phải làm gì để có thể kết hơn được với người mình yêu
thương?

Chúng ta thấy với tình huống trên học sinh phải giải quyết hai yêu
cầu:
+ Yêu cầu thứ nhất học sinh phải dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng
để giải quyết.
+ Yêu cầu thứ hai học sinh phải tư duy, phân tích vấn đề như hiện
nay là hơn nhân tự nguyện, không ai được cưỡng ép, nhưng cha mẹ là
người sinh ra ta nếu ta khơng nghe lời cha mẹ thì sẽ ra sao? Hay nếu ta
không nghe lời cha mẹ thì mình phải làm gì để có cuộc sống hạnh phúc sao
này...
3.4. Tiến hành trên lớp:
3.4.1. Dùng để giới thiệu bài.
- Đây là thời điểm người dạy phải thu hút sự chú ý của HS, người
GV phải kích thích được sự tị mị, khám phá, muốn tìm hiểu của người
học.
- Cho nên, ta nên chọn những tình huống, như:
+ Có thật, xảy ra ngay trong trường học hay ở địa phương hoặc tình
huống nổi tiếng nhiều người quan tâm trên các phương tiện thơng tin đại
chúng.
+ Tình huống phải thật sự có vấn đề, gây mâu thuẩn trong suy nghĩ
của HS.

Trang 10

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục cơng dân 9

Ví dụ: Khi dạy bài “Chí cơng vơ tư”, ta có thể vào bài bằng tình
huống sau: Có ý kiến cho rằng chỉ người lớn, nhất là những người có chức

có quyền mới phải rèn luyện phẩm chất chí cơng vơ tư, học sinh cịn nhỏ
khơng có điều kiện để rèn luyện phẩm chất đó.
Em có tán thành ý kiến đó khơng? Vì sao?
Ta thấy tình huống trên chắc chắn sẽ làm cho học sinh bức xúc, bởi
vấn đề được đặt ra có ý xem nhẹ học sinh. Các em nhận thấy mình có thể
thực hiện chí cơng vơ tư như: tích cực tham gia các hoạt động của tập thể,
không bao che cho những việc làm sai trái, bảo vệ lẽ phải, công bằng khi
nhận xét, đánh giá người khác ....Từ đó, các em sẽ có phản ứng và chú ý
đến bài mà các em chuẩn bị học.
Ví dụ: Hoặc khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí”,
ta có thể lấy tình huống: Một thanh niên khơng đội mũ bảo hiểm khi đi xe
máy, bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe và phạt 200.000đ. Theo em, vì
sao anh thanh niên lại bị xử phạt như vậy?
Đây là tình huống mà các em, người thân trong gia đình khi tham gia
giao thông thường gặp và bị xử phạt nhưng hình như ngun nhân bị phạt ít
ai quan tâm đến. Chắc chắn các em sẽ chú ý đến bài học này. Từ đó GV
chốt ý đề vào bài mới, như: Anh thanh niên do không đội mũ bảo hiểm khi
đi xe máy nên đã vi phạm pháp luật hành chính vì đã vi phạm quy định của
pháp luật giao thông đường bộ. Khi bị cảnh sát giao thông phạt tiền, anh
thanh niên đã phải chịu trách nhiệm hành chính về hành vi vi phạm hành
chính của mình.
3.4.2. Dùng để minh hoạ cho nội dung bài học.
- Bước này mặc dù GV phải khai thác phần đặt vấn đề để HS hiểu
được nội dung bài học, nhưng có những vấn đề khơng phù hợp với tình
hình lớp học, trường học hay ở địa phương. Cho nên, GV phải linh hoạt
thay đổi một phần đặt vấn đề khác phù hợp hơn,
Ví dụ: khi dạy bài “Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ta có thể đổi phần đặt vấn đề như sau:
Hiện nay trách nhiệm của em là học tập cho tốt, rèn luyện đạo đức, lối sống
theo gương những thanh niên tiên tiến và theo lời dạy của Bác Hồ để sau

này thành người cơng dân có ích cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Em tự kiểm tra mình đã làm được điều gì, như thế nào, cần
sửa chữa những nhược điểm, khuyết điểm của mình?
Với tình huống trên GV có thể khảo sát được suy nghĩ của rất nhiều
HS trong lớp học của mình.
- Phần nội dung bài học rất cần những dẫn chứng xác thực để minh
họa, đặc biệt là phần pháp luật lớp 9 rất “khơ khan”, địi hỏi người GV phải
có vốn sống, phải chuẩn bị những tình huống mang tính thực tế cao để minh
họa cho HS hiểu bài.

Trang 11

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục cơng dân 9

Ví dụ: khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí của
cơng dân”, GV dù có kinh nghiệm đến đâu khi giúp HS hiểu rõ thế nào là
một hành vi vi phạm pháp luật cũng mất rất nhiều thời gian, nhưng với hệ
thống bài tập tình huống sau đây thì HS dễ dàng nhận biết:

Tình huống

Có chủ ý
thực hiện


Lỗi


Khơng

Hậu
quả

Vi phạm
PL


Khơng

1/ Ơng Ân xây
nhà
cao
tầng
không giấy phép
và đem đổ phế thải
xây dựng xuống
cống thốt nước.

x

Xây
nhà trái
phép,
đổ phế
thải
xuống
cống
thốt

nước

Tắc cống,
ngập
nước, ơ
nhiễm
mơi
trường

x

2/ Lê cùng bạn
tham gia đua xe
máy, vượt đèn đỏ,
gây tai nạn giao
thông.

x

Đua xe,
vượt
đèn đỏ

Gây
tai
nạn, thiệt
hại
về
người và
của


x

Đập
phá

Thiệt hại
nhiều tài
sản quý

3/ A là bệnh nhân
tâm thần, khi lên
cơn đã đập phá
nhiều tài sản quý
của bệnh viện.

x

4/ Thiếu tiền tiêu
xài, N cướp giật
dây chuyền, túi
xách của người đi
dường.

x

Cướp
tài sản

Gây tổn

thất
tài
sản cho
người
khác

x

5/ Bà Tư vay tiền
của Chị Ba đã quá
hạn,
dây
dưa
không chịu trả nợ.

x

Vay
tiền dây
dưa
không
trả

Xâm
phạm tài
sản của
người
khác.

x


Trang 12

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

6/ Anh Sa là công
nhân công ti Môi
trường đô thị. Khi
chặt cây, anh đã
không đặt biển báo
nguy hiểm theo
quy định. Hậu quả
là một người đi
đường
đã
bị
thương do cành
cây rơi xuống.

x

Chặt
cây, tỉa
cành
không
đặt biển
báo


Người đi
đường bị
thương

x

Sau khi giúp học sinh điền vào ơ trống, GV có thể đặt câu hỏi:
- Vì sao các hành vi 1,2,4,5,6 là hành vi vi phạm pháp luật?
- Vì sao hành vi 3 không vi phạm pháp luật?
Sau khi HS trả lời: Vì các hành vi 1, 2, 4, 5, 6 là hành vi trái Pháp
luật, có lỗi và do người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của
mình thực hiện gây hậu quả xấu cho xã hội. Hành vi 3 không vi phạm pháp
luật mặc dầu hành vi của anh A là có lỗi vì anh A mắc bệnh tâm thần và
không cố ý, không ý thức được hành vi của mình.
GV giảng giải: Người có khả năng nhận thức, điều khiển được việc
làm của mình, được tự do lựa chọn cách ứng xử và chịu trách nhiệm về
hành vi của mình được gọi là người có năng lực trách nhiệm pháp lí.
Năng lực trách nhiệm pháp lí gồm hai yếu tố :
+ Khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và độ tuổi của một người.
Ví dụ: Một em bé lên 5 tuổi nghịch lửa làm cháy gian bếp của nhà hàng
xóm. Vì em bé mới 5 tuổi nên em bé chưa có năng lực trách nhiệm pháp lí
vì vậy hành vi làm cháy gian bếp của nhà hàng xóm là khơng vi phạm Pháp
luật.
+ Độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí trong các lĩnh vực khác nhau được
qui định khác nhau.
Sau đó GV có thể bổ sung thêm tình huống sau để nhấn mạnh và
khắc sâu kiến thức cho các em: Khôi và Phương bàn nhau về việc lấy trộm
xe đạp của một người trong xóm. Quân theo dõi, nghe được câu chuyện này
đã khẳng định Khôi và Phương vi phạm Pháp luật và gọi điện cho công an

đến bắt họ ngay lập tức. Em hãy cho biết ý kiến của mình về trường hợp
này?
Đáp án tình huống: Hành vi của Qn là sai vì Khơi và Phương
khơng vi phạm pháp luật vì chưa thực hiện hành vi lấy trộm.
GV nhấn mạnh: Hành vi có thể là một hành động cụ thể (ví dụ: đi ăn
trộm) hoặc khơng hành động (ví dụ: thấy người bị tai nạn nhưng không làm
Trang 13

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục cơng dân 9

gì để cứu giúp). Nếu chỉ là ý định, ý tưởng nào đó thì không thể bị coi là vi
phạm pháp luật.
GV giảng giải thêm: Ý định, ý tưởng phạm tội trong suy nghĩ không
phải là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng nếu đem ý định đó ra đe dọa
người khác thì bị coi là hành vi vi phạm pháp luật vì sự đe dọa là ý định
được thể hiện bằng lời nói và hành động được coi là hành vi đe dọa.
3.4.3. Dùng để luyện tập, củng cố bài học, kiểm tra đánh giá.
- Hiện nay bài tập tình huống có ở SGK rất đa dạng và phong phú đủ
để GV có những tình huống để giúp HS khắc sâu kiến thức. Cái khó là ta
nên chọn những tình huống nào thật sự cần thiết cho HS.
- Tình huống nhiều, nhưng khơng đồng nghĩa là người GV không
biên soạn thêm để làm phong phú cho tiết dạy. Đó là những tình huống vui,
gắn với trường với lớp, đó là những tình huống có trên phương tiện thơng
tin đại chúng như chương trình “Ai đúng? Ai sai?” của đài truyền hình Vĩnh
Long (ta có thể tải trên trang web của đài) để làm phong phú tiết dạy.
Ví dụ: khi dạy bài “Quyền và nghĩa vụ lao động của cơng dân” GV
có thể giúp HS nhận thấy việc làm sai trái khi sử dụng lao động là trẻ em,

cũng như giúp các em biết phải làm gì khi gặp sự việc như trên: Thấy một
số trẻ em lang thang đến khu vực bến phà gần nhà mình, bà Tư tìm cách rủ
các em về nhà bà. Mấy ngày đầu, bà đối xử với các em có vẻ tử tế. Nhưng
sau đó bà sai các em hằng ngày đứa thì đi nhặt rác, đứa thì đi đánh giày,
đứa thì đi bán vé số, tối về phải nộp tiền cho bà, em nào khơng có tiền nộp
thì bị phạt, bị bỏ đói. Bà cịn quy định mỗi em phải nộp bao nhiêu tiền cho
bà sau mỗi ngày. Bọn trẻ sau một thời gian ở với bà Tư đều gầy yếu, xanh
xao.
- Theo em, bà Tư có vi phạm pháp luật về lao động không?
Hoặc khi dạy bài “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân”,
để khắc sâu kiến thức vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi
mặt ta có thể chọn tình huống: Vợ chồng anh Tân đã có hai đứa con. Anh
Tân thường xuyên đi làm ăn xa, chị ở nhà làm lụng và chăm sóc con. Đột
nhiên anh Tân nhận một đứa bé trai làm con nuôi và đem về nhà. Chị Thảo
vợ anh khơng đồng ý, vì vậy khơng khí gia đình khơng được vui vẻ như
trước.
Hỏi: Việc anh Tân tự ý nhận con ni như vậy có đúng khơng?
Vì sao?

Trang 14

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

Chương III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.
Trong quá trình giảng dạy và vận dụng bài tập tình huống trong các
tiết dạy GDCD 9, tơi nhận thấy:
 Bài tập tình huống ln đem đến cho HS hứng thú học tập, đặc

biệt là trong trong các tiết học về pháp luật.
 Qua các tình huống sát với thực tế đời sống, các em cảm thấy tự
tin hơn trong cuộc sống cũng như không vi pháp các chuẩn mực đạo đức và
pháp luật.
 Kết quả khảo sát hứng thú học tập môn GDCD của học sinh khi
được giáo viên thường xuyên sử dụng bài tập tình huống.


Khảo sát hiệu quả giờ dạy:

- Trước khi áp dụng: Chất lượng bộ môn lớp 9a1, 9a2, 9a3, 9a4 năm
học 2011-2012, HKI, như sau:
Lớp

Sĩ số

Trên TB/ Tỉ lệ

Dưới TB/Tỉ lệ

9a1

38

35/92.1%

3/7.9%

9a2


39

37/94.9%

2/5.1%

9a3

39

36/92.3%

3/7.7%

9a4

39

34/87.2%

5/12.8

TC

155

142/91.6%

13/8.4%


Ghi chú

- Sau khi áp dụng: Chất lượng bộ môn lớp 9a1, 9a2, 9a3, 9a4 năm
học 2012-2013, HKI, như sau:
Lớp

Sĩ số

Trên TB/ Tỉ lệ

Dưới TB/Tỉ lệ

9a1

32

31/96.9%

1/3.1%

9a2

31

28/90.3%

3/9.7%

9a3


33

31/93.9%

2/6.1%

9a4

33

33/100%

0/0%

TC

129

123/95.3%

6/4.7%

Trang 15

Ghi chú

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9


Chương IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Giáo viên phải hiểu rõ yêu cầu, cấu trúc cũng như cách sử dụng
bài tập tình huống trong giờ dạy của mình.
2. GV phải dành nhiều thời gian chuẩn bị bài (biên soạn bài tập
tình huống) trước khi đến lớp.
3. Bài tập tình huống phải tập trung vào trọng tâm bài học, phải
phù hợp với điều kiện trường lớp.
4. GV kịp thời quan sát lắng nghe, phát hiện những lúng túng của
HS để hỗ trợ và điều chỉnh kịp thời những sai sót của các em.
5. Đặc biệt, GV phải nắm rõ ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa giáo dục
của bài tập tình huống đối với từng cá nhân HS, đồng thời người GV cũng
có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình trong cơng tác và tâm huyết với
nghề.

Trang 16

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN.
I. Kết luận:
- Sử dụng bài tập tình huống trong các tiết dạy GDCD 9 là cần
thiết đối với người dạy lẫn người học. Đặc biệt trong tình hình xã hội hiện
nay, các tình huống sẽ giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống.
- Tình huống phải thật sự có vấn đề để kích thích tư duy của HS
cũng như phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
- Giáo viên dạy GDCD nên linh động trong việc sử dụng bài tập

tình huống để bài tập tình huống phát huy hết vai trị của mình trong tiết
dạy.
II. Đề xuất ý kiến:
- Giáo viên dạy GDCD nên thường xuyên biên soạn và sử dụng bài
tập tình huống trong giờ dạy để tăng tính hiệu quả cho giờ dạy.
- Trong kiểm tra đánh giá HS nên có ít nhất một câu hỏi là bài tập
tình huống để học sinh vận dụng kiến thức mà mình đã học.

Trang 17

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn


Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa môn Giáo dục công dân 6, 7, 8, 9 – NXB Giáo dục
– Hà Nhật Thăng tổng chủ biên.
2. Sách giáo viên Giáo dục công dân 6, 7, 8, 9 – NXB Giáo dục.
3. Thực hành Giáo dục công dân – Tạ Đức Hiền – NXB Hà Nội –
2007.
4. Câu chuyện tình huống pháp luật – Đặng Thuý Anh – NXB Giáo
dục – 2003.
5. Bài tập tình huống Giáo dục công dân 6, 7, 8, 9 – Vũ Xuân Vinh –
NXB TP HCM – 2007.
6. Tư liệu Giáo dục công dân – Trần Văn Thắng – NXB Giáo dục 2005

Trang 18

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn



Biên soạn và sử dụng bài tập tình huống trong giảng dạy Giáo dục công dân 9

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Phần mở đầu

1

Phần nội dung

5

Chương I: Những vấn đề chung

5

Chương II: Biện pháp thực hiện

7

Chương III: Kết quả thực hiện

15

Chương IV: Bài học kinh nghiệm


16

Phần kết luận và đề xuất ý kiến

17

Tài liệu tham khảo

18

Mục lục

19

Trang 19

Giáo viên: Tăng Anh Tuấn



×