1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy, các
quy định về lao động - trong đó có pháp luật lao động - có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong đời sống xã hội.
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và
của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng
và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, vì vậy có vị trí quan trọng
trong hệ thống pháp luật của quốc gia.
Hệ thống pháp luật lao động nước ta ngày càng đầy đủ và hoàn thiện,
tuy nhiên để đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống một cách sâu rộng địi
hỏi Thanh tra lao động phải đóng vai trị chủ chốt trong việc xây dựng ý
thức về công bằng và gắn kết xã hội. Trong quan hệ lao động giữa người lao
động và người sử dụng lao động sự yếu thế thuộc về người lao động; Người
sử dụng lao động vì lợi ích kinh tế, ln muốn tiết giảm chi phí, xâm phạm
đến quyền và lợi ích chính đáng của người lao động. Một thực tế hiện nay
khi quyền và nghĩa vụ của cả hai bên ngày càng được mở rộng thì những dấu
hiệu vi phạm lại có chiều hướng gia tăng dẫn đến tình trạng tranh chấp lao
động, đình cơng, ngừng việc tập thể, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có
diễn biến phức tạp.
Với nhiệm vụ thực hiện toàn bộ các hoạt động thanh tra trong cả nước;
với khoảng 365.000 doanh nghiệp đang hoạt động (Đề án nâng cao năng lực
thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2155/QĐ-TTg ngày
11/11/2013), năm 2016 toàn quốc xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 6.887
người bị nạn, số người chết là 672 người, 1.506 người bị thương nặng, gây
2
thiệt hại về vật chất là hơn 71 tỷ đồng, thiệt hại về tài sản là 6,27 tỷ đồng,
tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao động là 153.658 ngày; năm 2013 toàn quốc
cũng để xảy ra gần 2.700 vụ cháy nổ, làm chết trên 100 người, bị thương gần
200 người, thiệt hại tài sản gần 1.700 tỷ đồng là những con số biết nói làm bất
cứ ai trong chúng ta cũng phải xót xa, suy nghĩ.
Với chức năng giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý nhà nước về công
tác thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động. Thời gian qua, Thanh tra Sở
Lao động - Thương binh Xã hội tỉnh Yên Bái đã nỗ lực, tích cực tham mưu,
giúp Thủ trưởng cơ quan cùng cấp thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước.
Hàng năm, thanh tra đã phát hiện, kiến nghị hàng ngàn hành vi sai phạm, xử
lý hàng trăm hành vi vi phạm pháp luật thu về cho ngân sách nhà nước gần
trăm tỷ đồng, đề xuất sửa đổi, bổ sung nhiều quy phạm pháp luật liên quan
đến cơ chế, chính sách đảm bảo phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của ngành.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, song từ hoạt động thực tiễn
cho thấy công tác thanh tra pháp luật lao động của ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội Yên Bái đã và đang bộc lộ những hạn chế, bất cập trước xu thế
phát triển nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, đặc biệt là trước yêu cầu của nhiệm vụ chính trị được giao
trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài, mục đích và kết quả đạt được còn
hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay. Vì vậy câu hỏi đặt ra
cho chúng ta là "Tại sao?" và phải "Làm gì?"
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trước sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trước địi hỏi của cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế, Thanh tra lao động Yên Bái nói riêng và
hệ thống cơ quan Thanh tra lao động tồn quốc nói chung cần phải được
nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống, trong đó việc hoàn thiện pháp
luật lao động và củng cố tổ chức làm công tác thanh tra pháp luật lao động là
vấn đề đặt ra cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
3
Vì vậy, nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực lao động, tôi xin chọn đề tài: "Thanh tra việc thực hiện pháp
luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên Bái" làm luận văn nghiên
cứu của mình, đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhưng có ý nghĩa kinh tế,
chính trị, xã hội sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
cơng trình nghiên cứu, đề tài khoa học và bài viết liên quan đến thanh tra ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội, trong đó đáng lưu ý là một số cơng trình sau:
"Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật
học của Nguyễn Thị Thương Huyền (2009); "Tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Lao động - Thương binh và Xã hội, thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc
sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hồng Diệp (2009); "Thanh tra lao động theo pháp
luật lao động Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thị Thu Hiền
(2011); "Các điều kiện và giải pháp để chuyển phương thức thanh tra theo đoàn
sang Thanh tra viên phụ trách vùng", Đề tài cấp Bộ của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội do TS. Bùi Sĩ Lợi chủ nhiệm (2003); "Nâng cao năng lực hệ
thống thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội", Đề án của Thanh tra
ngành Lao động-Thương binh và Xã hội (2005); "Vai trò của Thanh tra lao
động trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp", TS Bùi Sĩ Lợi
(2006), Tạp chí Lao động và Xã hội và đặc biệt là "Đề án nâng cao năng lực
thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đến năm 2020" của Thanh
tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 2155/QĐ-TTg ngày 11/11/2013… Ngoài ra cịn nhiều bài viết
trên các báo, tạp chí và trang website cũng phản ánh về vấn đề này…
Tính đến nay, có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam chưa có nhiều cơng
trình đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, tồn diện và có hệ thống về Thanh
tra việc thực hiện pháp luật lao động. Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những kết
quả đã đạt được của các cơng trình trước đó, luận văn này sẽ làm sâu sắc thêm
4
những lý luận cơ bản nhất về thanh tra, Thanh tra lao động, thương binh, xã hội
và thực trạng hoạt động của Thanh tra lao động tại tỉnh Yên Bái, từ đó đề xuất
các giải pháp hồn thiện pháp luật lao động, hoạt động Thanh tra lao động nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lao động trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là từ hoạt động thực tiễn trong công tác Thanh
tra lao động tại tỉnh Yên Bái để đánh giá, góp phần xây dựng những vấn đề lý
luận pháp lý về Thanh tra lao động, đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu lực hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với thanh tra
pháp luật lao động trong các doanh nghiệp.
Luận văn có nhiệm vụ tìm hiểu những quan điểm, quan niệm, quy định
của pháp luật Việt Nam về Thanh tra lao động, soi vào thực tiễn hoạt động của
Thanh tra lao động tại tỉnh Yên Bái; tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc; đề
xuất kiến nghị hồn thiện hệ thống Thanh tra lao động, về pháp luật lao động và
nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử mácxít; quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như
phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh đối chiếu và khảo sát thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thanh tra và Thanh tra lao động.
Chương 2: Thực trạng thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động tại
tỉnh Yên Bái;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra pháp luật lao động ở
tỉnh Yên Bái.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về thanh tra và thanh tra pháp luật lao động
1.1.1. Khái quát về thanh tra
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Theo Từ điển tiếng Việt: Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp)
với nghĩa này, thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm "xem xét và phát
hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định". Thanh tra thường đi kèm với một
chủ thể nhất định: "Người làm nhiệm vụ thanh tra", "Đoàn thanh tra" và "đặt
trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định" [22, tr. 504].
Hiện nay, cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện "thanh tra" với
mức độ khác nhau qua mơ hình các cơ quan nhà nước và các quy định của
Hiến pháp và pháp luật:
Thời kỳ sau 2/9/1945
Sau khi giành độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày
23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt, thuật ngữ "thanh tra" xuất hiện, quyền thanh tra được xác
định và chính thức giao cho Chính phủ.
Hiến pháp 1946 chưa sử dụng thuật ngữ "thanh tra", hoạt động thanh
tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chun trách nào, quyền kiểm
sốt đối với Chính phủ được giao cho Ban thường vụ của Nghị viện.
Hiến pháp 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi
hành các quyết định quản lý nhà nước.
Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ "thanh tra" với nội dung là một
chức năng của cơ quan quản lý nhà nước.
Hiến pháp 1992: Khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn
tại các điều 112, 115, 116 và 124; Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có
6
nhiệm vụ: "Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước,
công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ
máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân".
1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
- Thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, với tư cách là một chức
năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với
quản lý nhà nước; tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước đều
phải thông qua thanh tra, kiểm tra để có thơng tin đầy đủ, chính xác.
- Thanh tra ln mang tính quyền lực nhà nước, là một chức năng của
quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Thanh tra
là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành
thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra luôn ln áp dụng quyền
năng của Nhà nước trong q trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân
danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó.
- Thanh tra có tính độc lập tương đối, đây là đặc điểm vốn có, xuất
phát từ bản chất của thanh tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại
hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước.
1.1.1.3. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Gồm: Cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành.
Tại Điều 3 Luật thanh tra 2010, quy định:
- Thanh tra nhà nước.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành.
7
- Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
Là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh
vực, bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành.
Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chỉ thực hiện hoạt động
thanh tra hành chính, cịn các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực thì vừa
thực hiện thanh tra hành chính, vừa thực hiện thanh tra chuyên ngành.
Như vậy, bộ máy thanh tra là hệ thống các cơ quan thanh tra từ trung
ương đến địa phương, có mối liên hệ với nhau trong công tác thanh tra, chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp, đồng thời chịu
sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Tổng Thanh tra về tổ chức và hoạt động
thanh tra.
1.1.1.4. Vị trí, vai trị của thanh tra
Nói tới vai trị của thanh tra là nói tới những tác động, ảnh hưởng của
thanh tra đối với quản lý nhà nước, đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động của mình; đối với xã hội thông qua việc thực hiện chức năng thanh
tra. Vai trò của thanh tra thể hiện trên những điểm sau:
Thứ nhất, thanh tra có vai trị trong việc hồn thiện cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật.
Hoạt động thanh tra, theo quy định của Luật Thanh tra, nhằm phòng
ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các
thông tin cung cấp cho chủ thể quản lý qua hoạt động thanh tra càng chính
xác, đúng đắn thì các chủ thể quản lý nhà nước càng sửa chữa các khuyết
điểm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong tổ chức thực
hiện pháp luật chính xác và có chất lượng. Chính vì vậy, thanh tra cũng làm
8
cho chu trình quản lý nhà nước khép kín, từ hoạt động ban hành, tổ chức thực
hiện đến kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý và phục vụ cho yêu
cầu quản lý nhà nước.
Thứ hai, thanh tra là phương thức đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
và kỷ luật nhà nước
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc quản lý nhà nước rất quan
trọng, thiếu nó quản lý nhà nước sẽ rơi vào tình trạng rối loạn. Pháp chế còn
được hiểu là chế độ hoạt động của Nhà nước mà trong đó mọi quy định của
pháp luật đều được mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân thực hiện
nghiêm túc. Việc bảo đảm pháp chế sẽ khơng có ý nghĩa nếu kỷ luật nhà nước
không được tuân thủ một cách nghiêm minh. Thông qua công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, cơ quan thanh tra kịp
thời phát hiện, kết luận và kiến nghị xử lý cơ quan hành chính, hành vi hành
chính trái pháp luật. Qua đó tạo ra cơ chế kiểm sốt thực hiện quyền lực nhà
nước trong hoạt động hành chính, khắc phục tình trạng thiếu trật tự, kỷ cương
nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi trái pháp luật của cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức.
Thứ ba, thanh tra góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân là một chức năng
quan trọng của Nhà nước pháp quyền, một trong những tiêu chí đánh giá mức
độ dân chủ. Trong sự nghiệp đổi mới, Nhà nước đảm bảo duy trì trật tự kỷ
cương trong quản lý nhà nước, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện đầy đủ
quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp ghi nhận thông qua hoạt
động thanh tra thực hiện quyền lực nhà nước, trong hệ thống hành chính của
cơ quan, cán bộ, cơng chức, viên chức; thông qua hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo và thanh tra việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hoạt động thanh tra góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
doanh nghiệp làm ăn chân chính trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
9
trường với sự bùng nổ về số lượng doanh nghiệp và quy luật cạnh tranh gay
gắt của cơ chế thị trường. Luật Thanh tra đã quy định nguyên tắc "không làm
cản trở hoạt động bình thường, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật".
1.1.1.5. Mục đích thanh tra, nguyên tắc hoạt động thanh tra
- Mục đích thanh tra
Mục đích thanh tra là nội dung quan trọng đã được pháp luật thanh tra
trước đây đề cập, song từ yêu cầu công tác quản lý cho nên trong mỗi giai
đoạn cụ thể mục đích của thanh tra có sự thay đổi nhất định. Nếu như Luật
thanh tra năm 2004 đề cao mục đích thanh tra là phịng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật thì Luật thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ
hơn mục đích thanh tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thanh tra
là tai mắt của trên, là bạn của dưới". Hơn nữa, với vai trị là cơng cụ của quản
lý nhà nước, mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra là giúp chủ thể quản lý
nhà nước kiểm soát và bảo đảm cho các đối tượng quản lý chấp hành đúng
chính sách, pháp luật, chứ khơng chỉ là tìm ra vi phạm để xử lý, cho nên Luật
thanh tra năm 2010 đã xác định hoạt động thanh tra ngoài việc phát hiện, xử lý
những sai phạm; kiến nghị việc khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật cịn có mục đích là giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
đúng các quy định của pháp luật, nhất là các doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Đây cũng là xu hướng chung của hoạt động thanh tra trên thế giới hiện nay.
- Nguyên tắc hoạt động thanh tra
Nguyên tắc hoạt động thanh tra là cơ sở và tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt trong quá trình thực hiện hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng
thanh tra nhà nước. Chính vì vậy pháp Luật thanh tra đã quy định nguyên tắc
hoạt động thanh tra là: Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan
trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lắp về phạm vi, đối
tượng nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng
10
thanh tra; khơng làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra.
1.1.2. Khái quát về thanh tra pháp luật lao động
1.1.2.1. Khái niệm Thanh tra lao động
Thanh tra lao động đóng vai trò thiết yếu trong quản lý nhà nước về
lao động. Với mục đích của Thanh tra lao động là phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật lao động; phát hiện những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách pháp luật để kiến nghị nhà nước biện pháp khắc phục,
phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước về lao động.
1.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thanh tra lao động
Tìm hiểu đặc điểm của hệ thống văn bản pháp luật về Thanh tra lao
động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hồn thiện pháp luật về thanh tra
nói chung và pháp luật lao động nói riêng. Những đặc điểm này không chỉ
giúp chúng ta nhận diện đúng đắn về vị trí của Thanh tra lao động mà cịn là
cơ sở lý luận khoa học để đánh giá thực trạng pháp luật, từ đó có định hướng rõ
ràng cho những giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thanh tra lao động, góp phần
hồn thiện hệ thống pháp luật lao động nói riêng, pháp luật quốc gia nói chung.
Thứ nhất: Pháp luật lao động là pháp luật chuyên ngành, do đó các
quy định về Thanh tra lao động vừa đảm bảo tính chuyên môn vừa phải phù
hợp với các quy định của pháp luật về thanh tra.
Thanh tra lao động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra trong
phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Đối tượng
Thanh tra lao động cũng là đối tượng quản lý, nội dung thanh tra phụ thuộc
vào nội dung quản lý của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Tổ chức và hoạt động của
Thanh tra lao động vừa đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật
thanh tra, vừa đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành.
11
Thứ hai: Nội dung thanh tra chính là các nội dung được quy định
trong Bộ luật Lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ
luật Lao động (các quy định về tuyển dụng, đào tạo, hợp đồng lao động, tiền
công, tiền lương, thời giờ làm việc nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ
sinh lao động...).
Thứ ba: Pháp luật về Thanh tra lao động mang tính thủ tục chặt chẽ.
Thanh tra nói chung và Thanh tra lao động nói riêng là hoạt động
được thực hiện theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả của
hoạt động một cách chính xác, khách quan. Để tiến hành một cuộc Thanh tra
lao động, pháp luật lao động quy định thủ tục hết sức chặt chẽ từ khâu ra
quyết định thanh tra đến việc chỉ đạo, báo cáo ra kết luận và xử lý kết luận
thanh tra.
Thứ tư: Pháp luật về Thanh tra lao động gắn liền với pháp luật khiếu
nại, tố cáo và pháp luật phịng chống tham nhũng.
Ngồi nhiệm vụ thanh tra, Thanh tra lao động có nhiệm vụ rất quan
trọng là giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động.
1.1.2.3. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động
Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động được khái quát như sau:
Thứ nhất, Thanh tra lao động trước năm 2004 (1945 - 2004).
- Giai đoạn 1945 - 1954:
Nhận thức sâu sắc vai trị của cơng tác thanh tra đối với hoạt động
quản lý nhà nước, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban thanh tra
đặc biệt. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động đã thành lập Ban Thanh tra lao động
(Nha Thanh tra lao động), có nhiệm vụ giúp Bộ Lao động nghiên cứu xây
dựng chính sách, hướng dẫn chỉ đạo thực hiện đồng thời tổ chức thanh tra,
kiểm tra việc thi hành các chính sách, luật lệ lao động, việc sử dụng lao động
và chính sách người lao động.
Ngày 12/3/1947, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 29-SL trong đó có quy định
về thành lập ngạch thanh tra và kiểm soát lao động trong Bộ luật Lao động,
12
Sắc lệnh số 95-SL ngày 13/8/1949 chính thức đặt hai ngạch thanh tra và kiểm
sốt lao động, Sắc lệnh cịn quy định rõ quyền và trách nhiệm của Thanh tra
lao động, kiểm soát lao động.
- Giai đoạn 1955 - 1975:
Thanh tra được tổ chức thành các phòng thanh tra, pháp chế, bảo hộ
lao động và phòng lao tư. Năm 1964, Thanh tra kỹ thuật an tồn chính thức
được thành lập với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực an toàn lao động theo Nghị định số 187-CP ngày 18/12/1964.
- Giai đoạn 1976 - 2004:
Bộ Lao động và Bộ Thương binh - Xã hội sáp nhập thành Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội. Ban Thanh tra lao động và Xã hội được thành
lập trên cơ sở sáp nhập Ban Thanh tra lao động và Ban thanh tra Thương binh
và Xã hội của Bộ Lao động và Bộ Thương binh - Xã hội. Ngày 01/4/1991,
Pháp lệnh thanh tra ra đời quy định rõ thanh tra của các Bộ, ngành nằm trong
hệ thống Thanh tra nhà nước, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Thanh tra Bộ, ngành. Đây là văn bản mở đầu một giai đoạn phát triển mới
của ngành thanh tra. Giai đoạn này Thanh tra Bộ tách thành hai đơn vị độc lập
là Thanh tra chính sách lao động - xã hội và Thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo
hộ lao động. Đến năm 2003, khi Nghị định số 29/CP ngày 31/3/2003 được
ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội thì Thanh tra Bộ mới trở thành một tổ
chức thanh tra duy nhất gọi là Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội với chức năng do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tại
Quyết định số 1118/2003/QĐ-BLĐTBXH ngày 10/9/2003 của Bộ trưởng Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ.
Thứ hai, Thanh tra lao động từ năm 2004 đến 2010.
Luật Thanh tra 2004 được ban hành với tinh thần nhằm đổi mới tổ
chức và hoạt động thanh tra, là cơng cụ pháp lý để kiện tồn tổ chức và nâng
13
cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, góp phần quan trọng vào
việc đảm bảo thực thi pháp luật trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt là
cơng cuộc phịng chống tham nhũng. Các quy định cơ bản về mục đích thanh
tra, nguyên tắc thanh tra, hình thức thanh tra, phương thức thanh tra, trình tự,
thủ tục thanh tra, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, Thanh tra viên,
cộng tác viên… đã được ghi nhận, là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
thanh tra. Trên cơ sở Luật Thanh tra 2004, Nghị định số 31/2006/NĐ-CP
ngày 29/3/2006 của Chính phủ quy định về tổ chức hoạt động của Thanh tra
lao động - Thương binh và Xã hội được ban hành. Đây được coi là Nghị định
về thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; Quyết định số
148/2008/QĐ-LĐTBXH ngày 22/01/2008 về việc quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ; Quyết định số 599/QĐBLĐTBXH ngày 29/4/2008 của Bộ trưởng về việc bổ nhiệm Chánh Thanh tra
Bộ, Quyết định số 02/2006 ngày 16/02/2006 ban hành quy chế hoạt động
Thanh tra Nhà nước về lao động theo phương thức Thanh tra viên phụ trách
vùng; Quyết định số 01/2006 ngày 16/02/2006 ban hành quy chế sử dụng
phiếu tự kiểm tra thực hiện pháp luật lao động…
Thứ ba, Thanh tra lao động từ năm 2010 đến nay.
Luật thanh tra năm 2004 đã góp một phần rất quan trọng trong công
tác quản lý nhà nước, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số
nhược điểm như chưa luật hóa chức năng đấu tranh phòng chống tham nhũng,
tổ chức bộ máy chưa khoa học, còn chồng chéo; mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước trong hoạt động thanh tra chưa được quy định rõ... Để đáp ứng
tốt nhiệm vụ thanh tra trong thời kỳ mới, ngày 15/11/2010 tại kỳ họp thứ 8
Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật Thanh tra 2010 trong đó có quy định:
về thanh tra viên, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành; người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; hai khái
niệm cơ bản là "thanh tra hành chính" và "thanh tra chuyên ngành" cũng được
sửa đổi, bổ sung nhằm phân biệt rõ hai loại hoạt động này. Hoạt động thanh
14
tra chuyên ngành có những đặc điểm đó là do các cơ quan có chức năng quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực tiến hành (như Bộ, Sở, Thanh tra bộ, Thanh
tra sở), cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Tổng
cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở); Đối tượng thanh tra chuyên ngành là
mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành;
Nội dung của thanh tra chuyên ngành là xem xét, đánh giá việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn, kỹ thuật, qui tắc quản lý
của ngành. Khi xem xét, các cơ quan tiến hành có quyền xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm.
Trên cơ sở Luật Thanh tra 2010, Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thanh tra; Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20/12/2012 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 của
Chính phủ quy định về tổ chức hoạt động của Thanh tra ngành Lao động Thương binh và Xã hội được ban hành.
Thanh tra lao động là một loại của thanh tra ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội, một nội dung thanh tra chuyên sâu vào lĩnh vực lao động, bao
gồm thanh tra về lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an tồn lao
động, vệ sinh lao động. Do đó, Thanh tra lao động hoạt động khơng nằm
ngồi mục đích thanh tra của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội,
không vượt quá chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Lao động Thương binh và Xã hội và hoạt động nhằm phát huy vai trò của thanh tra nói
chung và Thanh tra lao động nói riêng.
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về Thanh tra lao động
1.2.1. Các quy định cơ bản của pháp luật Thanh tra lao động
Thanh tra lao động là thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
15
các quy định pháp luật về lao động; điều tra tai nạn lao động và những vi
phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động; tham gia hướng dẫn áp dụng hệ
thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện lao động, an toàn lao động,
vệ sinh lao động; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về
lao động theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện quản lý nhà nước về lao động, bảo vệ kịp thời quyền và
lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ lao động, Bộ luật Lao
động 1994 dành một chương (Chương XVI) quy định về Thanh tra nhà nước
về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động với 07 điều quy định về
Thanh tra lao động. Một số quy định về Thanh tra lao động được sửa đổi, bổ
sung trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 2002,
các quy định này bao gồm: quy định chức năng của Thanh tra nhà nước về lao
động (Điều 186), nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra nhà nước về lao động
(Điều 187), quyền của Thanh tra viên (Điều 187), những việc Thanh tra viên
không được làm (Điều 188 Bộ luật Lao động), cơ chế phối hợp thanh tra,…
Bộ luật Lao động 2012 cũng dành một chương (Chương XVI) quy
định về nhiệm vụ thanh tra nhà nước về lao động (Điều 237 Bộ luật Lao
động); Xử lý vi phạm trong lĩnh vực lao động (Điều 239 Bộ luật Lao động)
Tóm lại, pháp luật lao động đã trao cho Thanh tra viên lao động những
quyền năng rất lớn trong hoạt động thanh tra nhằm thực thi pháp luật lao động
có hiệu quả (như: quyền thanh tra không phải báo trước, quy định quyết định
của thanh tra viên lao động có hiệu lực bắt buộc thi hành…);
Nghị định 39/2013/NĐ-CP là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật về
Thanh tra lao động, trong đó quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thực hiện chức năng Thanh tra lao động; thanh tra viên, công chức thanh
tra, cộng tác viên Thanh tra lao động; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động Thanh tra lao động.
16
- Tổ chức của Thanh tra lao động, gồm có các cơ quan thanh tra nhà
nước từ trung ương đến địa phương: Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội các tỉnh, tỉnh; các cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành là Tổng cục Dạy nghề, Cục Quản lý Lao động
ngoài nước.
- Các nhiệm vụ của Thanh tra nhà nước về lao động được giao cho
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Thanh tra Sở Lao động Thương binh và xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ
quan được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về lao động.
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, giúp Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng; thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra
chuyên ngành; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc
lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội trong phạm vi cả nước.
- Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Chánh thanh
tra, Phó chánh thanh tra, Thanh tra viện và các công chức khác.
Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; thanh
tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập;
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật lao động, quy định về chuyên
môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách;
+ Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao;
+ Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết
định xử lý sau thanh tra của thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức
17
năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối
với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ khi cần thiết.
- Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội, giúp Giám đốc Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra chun ngành;
phịng, chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của
pháp luật. Thanh tra Sở Lao Động - Thương binh và Xã hội có Chánh thanh
tra, Phó chánh thanh tra, Thanh tra viên và các công chức khác. Trong hoạt
động thanh tra, Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và xã hội có những
nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên
môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc phạm vi quản lý của sở; Thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở giao;
+ Hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc sở thực hiện quy định
của pháp luật về thanh tra;
+ Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành thuộc sở báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo
kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý của sở;
+ Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết
định xử lý về thanh tra của Giám đốc sở, Thanh tra sở;
+ Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết
định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực
quản lý nhà nước của sở khi cần thiết.
Việc thanh tra an toàn lao động, vệ sinh lao động trong các lĩnh vực:
phóng xạ, thăm dị, khai thác dầu khí, các phương tiện vận tải đường sắt,
đường thủy, đường bộ, đường hàng không và các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang do các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó thực hiện sự phối hợp
của thanh tra chuyên ngành về lao động.
18
Nghị định 39/2013/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh
tra Bộ, Thanh tra Sở, Cục Dạy nghề, Cục quản lý lao động ngoài nước và
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các Chánh thanh tra, Tổng cục trưởng (tại các
điều từ 8 đến 16).
- Quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành, cộng
tác viên thanh tra:
Về cơ bản, các quy định trong Nghị định này tuân thủ quy định của
Luật thanh tra, tuy vậy cũng có những quy định mang tính chất đặc thù của
ngành (từ Điều 16 đến Điều 19);
- Quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành lao động: là việc thực
hiện các quy định pháp luật lao động về báo cáo định kỳ; tuyển dụng và đào
tạo lao động; hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; thời giờ làm việc
và nghỉ ngơi; tiền công và trả công lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao
động; việc thực hiện các quy định đối với lao động nữ, lao động là người cao
tuổi, lao động là người tàn tật, lao động chưa thành niên; việc thực hiện các
quy định đối với lao động là người nước ngoài; kỷ luật lao động, trách nhiệm
vật chất; việc thực hiện các quy định khác của pháp luật lao động;
Các hoạt động trên được thực hiện dưới hình thức thanh tra theo
chương trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất.
- Ngoài ra quy định về trang phục, phù hiệu, cấp hiệu, biển hiệu, phương
tiện và kinh phí hoạt động: quy định tại Thơng tư số 18/2011/TT-LĐTBXH
hướng dẫn về chất liệu, màu sắc, kiểu dáng, quản lý, sử dụng trang phục, cấp
hiệu và biển hiệu của thanh tra viên, cán bộ các cơ quan, đơn vị thanh tra
thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Quy định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm trong lĩnh vực
lao động:
Nghị định số 47/2004/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi vi phạm pháp luật lao động qua nhiều năm đã bộc lộ nhiều hạn
chế, ngày 22/8/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/2013/NĐ-CP thay
19
thế nghị định trên và đã từng bước khắc phục những hạn chế như mức xử
phạt, các hành vi vi phạm trước đây chưa đưa vào nghị định xử phạt…
1.2.2. Một số nhận xét pháp luật về Thanh tra lao động
Pháp luật về Thanh tra lao động được xây dựng xuất phát từ yêu cầu
quản lý nhà nước về lao động, đồng thời được xây dựng trên nền tảng cơ bản
là pháp luật về thanh tra nói chung. Nội dung hoạt động của Thanh tra lao
động là những nội dung được quy định trong pháp luật lao động mà đặc trưng
là Bộ luật Lao động, vì thế khi nhìn nhận, đánh giá những ưu, nhược điểm của
pháp luật về Thanh tra lao động phải đặt nó trong mối liên hệ với pháp luật
thanh tra nói chung và pháp luật lao động. Cũng như thanh tra các ngành, lĩnh
vực khác, Thanh tra lao động là thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực lao
động. Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các quy định của pháp luật lao
động về Thanh tra lao động, các văn bản pháp luật có liên quan, có thể nhận
thấy pháp luật về Thanh tra lao động của Việt Nam có những ưu điểm và hạn
chế sau đây.
1.2.2.1. Những ưu điểm của pháp luật về Thanh tra lao động hiện nay
Một là, quy định của pháp luật về Thanh tra lao động đã điều chỉnh
tương đối toàn diện các lĩnh vực của quản lý nhà nước về lao động.
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về lao động; giải quyết tranh chấp lao động là một trong những nội dung
của quản lý nhà nước về lao động theo quy định tại Khoản 5 Điều 235 Bộ luật
Lao động năm 2012. Sau khi Luật Thanh tra được ban hành, các văn bản pháp
luật quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động - Thương binh và
Xã hội cũng được ban hành, mặc dù với số lượng không nhiều nhưng các văn
bản này là sự cụ thể hóa các quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về lao động và phần nào phản
ánh được sự đầy đủ của pháp luật lao động về Thanh tra lao động, phục vụ
kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
20
Hai là, pháp luật lao động đã phân định rõ hoạt động thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy hành
chính hiện nay là kết hợp quản lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn nhằm tăng cường công tác thanh tra trong phạm vi quản lý
nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân các
cấp. Pháp luật lao động quy định rõ chức năng của Thanh tra nhà nước về lao
động; nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra nhà nước về lao động; tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn của Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội; nhiệm vụ,
quyền hạn của Chánh Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội, quyền,
nghĩa vụ của Thanh tra viên, cộng tác viên, quy định về trang phục, phù hiệu,
cấp hiệu, biển hiệu, phương tiện và kinh phí hoạt động, nhằm tránh lạm
quyền, gây khó khăn, phiền hà và làm cản trở hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra.
Ba là, pháp luật lao động quy định bổ sung các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn trong cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phịng ngừa, chống
tham nhũng của cơ quan Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội nhằm
đảm bảo sự thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật về khiếu
nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng.
Bốn là, pháp luật về Thanh tra lao động đã đáp ứng yêu cầu cơ bản
của hội nhập quốc tế
Việt Nam đã phê chuẩn nhiều Điều ước quốc tế về lao động, trong đó
có Cơng ước số 81 về Thanh tra lao động trong công nghiệp và thương mại và
đã phần nào nội luật hóa các quy định của Cơng ước trên thơng qua các quy
định về Thanh tra nói chung và Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội
nói riêng.
Năm là, đã kịp thời bổ sung các văn bản đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
như Nghị định số 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc