CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
XÃ NGHĨA BÌNH, HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH
PHƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đà Lạt, năm 2022
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
NỘI DUNG
CCHC
Cải cách hành chính
HĐND
Hội đồng nhân dân
TTHC
Thủ tục hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của chuyên đề ..................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu ................................................... 5
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của chuyên đề .............................. 5
7. Bố cục của chuyên đề tốt nghiệp ................................................................ 6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH ............................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của cải cách hành chính .................................. 7
1.2. Nguyên nhân, mục tiêu và ý nghĩa cải cách hành chính ..................... 15
1.3. Nội dung cải cách hành chính ............................................................... 21
Tiểu kết Chương 1......................................................................................... 38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN XÃ NGHĨA BÌNH, HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH
PHƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY – KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI
PHÁP .............................................................................................................. 41
2.1. Thành tựu trong cải cách hành chính của Ủy ban nhân dân xã Nghĩa
Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong những năm qua ............... 41
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân khó khăn, hạn chế trong cải cách
hành chính của Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước trong những năm qua ....................................................................... 52
2.3. Kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính của Ủy
ban nhân dân xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong giai
đoạn hiện nay ................................................................................................. 56
Tiểu kết Chương 2......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Hệ thống hành chính nhà nước ln trong q trình động, vừa bảo đảm sự quản
lý nhà nước trên các lĩnh vực xã hội, vừa tìm cách thích ứng với những thay đổi của
xã hội, của nền kinh tế, nếu các yếu tố của nền hành chính nếu khơng có những thay
đổi, cải cách sẽ trở thành lực cản, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà nước;
do đó, nền hành chính cần phải được cải cách một cách tổng thể hoặc cải cách những
yếu tố bất cập. Ở nước ta, CCHC được xác định là một bộ phận quan trọng của cơng
cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình cải cách nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta đã đề ra định hướng phát triển
đất nước đến năm 2030, đó là “Xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân
phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”1. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 02/9/2021 về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình
tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, nêu rõ “CCHC là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước, là một trong những giải pháp đột phá góp phần phát triển kinh tế - xã hội”.
CCHC ở nước ta hiện nay diễn ra trong khuôn khổ của cải cách nhà nước theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề quan trọng để thực
hiện thành cơng q trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. CCHC là nhiệm vụ của
cả hệ thống chính trị - xã hội, nhằm sửa đổi tồn diện hệ thống hành chính nhà nước,
giúp cơ quan nhà nước hoạt động hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong tình hình mới. Hơn thế, CCHC có ý nghĩa to
lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện quan hệ giữa các cơ quan hành
chính Nhà nước với người dân, doanh nghiệp, bảo đảm tính cơng khai minh bạch
trong giải quyết cơng việc của nhân dân, phịng chống tham nhũng hiệu quả. Chính
phủ đặc biệt quan tâm đến công tác CCHC và đã có sự chỉ đạo xuyên suốt, linh hoạt,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Tập 1, tr. 118.
2
tồn diện nhằm đẩy nhanh tiến trình cải cách, hồn thành các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế - xã hội, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
Nhận thấy được, CCHC là nội dung quan trọng của nền hành chính nhà nước,
góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước,
duy trì sự phát triển chung của cả nước, trong những năm qua, công tác CCHC ln
được lãnh đạo tỉnh Bình Phước xác định là một trong những nhiệm vụ đột phá để đưa
Bình Phước trở thành tỉnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Thời gian qua, công tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước nhìn chung được chủ động, thường xuyên thực hiện trên tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước, đảm bảo tiến độ và chất lượng theo quy định và đã đạt được
những kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy, công tác
CCHC ở một số lĩnh vực tại địa phương còn chậm, kết quả chưa cao, chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển của huyện và của tỉnh. Trước yêu cầu phát triển của xã Nghĩa Bình
nói riêng và cả nước nói chung, trong giai đoạn mới địi hỏi cần phải đẩy mạnh hơn
nữa, quyết liệt và hiệu quả hơn nữa cơng tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, góp
phần xây dựng xã Nghĩa Bình phát triển nhanh và bền vững; đặc biệt là điều chỉnh
chức năng, nhiệm vụ của UBND xã trong việc thực hiện chức năng quản lí nhà nước.
Vì lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân
xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay” để
làm chuyên đề tốt nghiệp của mình tại Khoa Luật học, Trường Đại học Đà Lạt.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu
với nền kinh tế thế giới, CCHC là một tất yếu nhằm xây dựng một nền hành chính
nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả nên công tác CCHC là việc tất yếu phải thực
hiện. Theo đó, nhiều cơng trình nghiên cứu, luận văn Thạc sĩ, tạp chí, báo in,… có
nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài của chuyên đề tốt nghiệp, cụ thể như:
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Cải cách hành chính tại UBND phường thuộc thành
phố Hà Nội (qua thực tiễn tại UBND phường Thổ Quan, quận Đống Đa – thành phố
Hà Nội)” của tác giả Đinh Nguyên Mạnh bảo vệ tại trường Đại học quốc gia Hà Nội
3
vào năm 2013, đã thực hiện nghiên cứu cơ sở lý luận của CCHC tạo tiền để đổi mới,
nâng cao hiệu quả cải cách ở nước ta; đánh giá thực trạng CCHC ở phường thuộc
thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó nêu lên những hạn chế, yếu kém và những vấn đề
đặt ra cần tiếp tục giải quyết; đồng thời, đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả CCHC tại UBND phường.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “CCHC cấp xã từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai” của tác giả Hà Viết Thắng bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội thuộc Viện hàn
lâm khoa học xã hội Việt Nam vào năm 2016 đã làm rõ những vấn đề lý luận về
CCHC và khảo sát, đánh giá thực trạng CCHC cấp xã ở huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai,
từ đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CCHC góp phần xây dựng một nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật “CCHC ở
cấp huyện tại thành phố Hà Nội” của tác giả Duy Hoàng Dương bảo vệ tại Khoa Luật
– Đại học quốc gia Hà Nội đã hệ thống hóa về CCHC; đánh giá thực trạng của công
tác CCHC của các quận, huyện và thị xã cho đến nay; đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị chung để từng bước tăng cường, hồn thiện trong cơng tác CCHC cấp huyện tại
thành phố Hà Nội.
Bài viết “Thực trạng và giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam” của tác giả
Lưu Phước Vẹn, Trần Công Vũ đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 Tháng 3/2020 đã
giới thiệu khái quát về CCHC, nội dung CCHC, tổng kết thành tựu đạt được trong
CCCH cùng những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó, đúc
kết ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng CCHC trong thời gian tới.
Bài viết “Kinh nghiệm CCHC tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Chế Viết
Sơn đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước, Số 236(9/2015) đã tổng kết những kết quả
tích cực, khả quan, có sức lan tỏa sâu rộng, tác động mạnh mẽ và thúc đẩy phát triến
kinh tế - xã hội của Đà Nẵng do hiệu quả của công tác CCHC mang lại; chỉ ra một số
cách làm và kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn chỉ đạo, điều hành, theo dõi, tổng
kết và đánh giả công tác CCHC tại thành phố Đà Nẵng để đạt được kết quả nêu trên.
4
Bài viết “Thúc đẩy q trình cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Vũ Việt Hà đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia,
Số 285, năm 2019 đã nêu rõ các nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình CCHC ở Việt
Nam và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác CCHC ở
nước ta trong thời gian tới.
Bài viết “Giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2015 –
2020” của tác giả Phạm Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước, Số 234
(7/2015) đã trình bày chủ trương CCHC nhà nước của Đảng trong tiến trình đổi mới
và đề ra một số giải pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy CCHC giai đoạn 2015 – 2020.
Ngoài ra, cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng tác CCHC
trong phạm vi cả nước, nhìn chung các cơng trình nghiên cứu có nhiều phương diện
tiếp cận vấn đề khác nhau, làm rõ các vấn đề vấn đề khác nhau; mỗi tác giả, nhà bình
luận, nhà nghiên cứu sinh đi sâu vào từng vấn đề mà họ cần làm rõ, đáp ứng thực tiễn
tại đơn vị công tác, ở một địa phương nhất định. Các cơng trình nghiên cứu nêu trên
tuy không trực tiếp nghiên cứu về CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước những đã gợi mở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn có ý nghĩa cho
chuyên đề của tác giả. Trên cơ sở những cơng trình nghiên cứu này, tác giả tiếp tục
kế thừa, nghiên cứu và phát triển sâu hơn, tập trung khai thác trọng tâm việc CCHC
tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của chuyên đề tốt nghiệp là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
trạng công tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, từ
đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp để hồn thiện hơn nữa cơng tác cải cách hành
chính, do đó để thực hiện mục tiêu này, đề tài sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ
như là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân, mục tiêu của CCHC, nội dung của
CCHC, ý nghĩa của việc CCHC; đánh giá thực trạng của công tác CCHC của UBND
xã Nghĩa Bình bao gồm thành tựu và khó khăn, hạn chế, đồng thời tìm ra những lý
do, nguyên nhân của khó khăn, hạn chế đó; từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp
cụ thể để từng bước tăng cường, hồn thiện trong cơng tác CCHC tại xã Nghĩa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chuyên đề công tác CCHC, cụ thể là một số
vấn đề về lý luận về CCHC và thực trạng công tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình,
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, trong đó chủ yếu là khai thác nội dung của Nghị
quyết số 76/NQ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình
tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 – 2030 và Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 02
tháng 9 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình
tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 – 2030. Phạm vi nghiên cứu trọng tâm của
chuyên đề là thực trạng công tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước trong những năm qua và hướng tới đề xuất kiến nghị, giải pháp nâng
cao hiệu quả CCHC trong giai đoạn hiện nay qua Báo cáo tình hình thực hiện cơng
tác CCHC của UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước năm 2021 và
06 tháng đầu năm 2022.
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đối với phương pháp chung, chuyên đề tốt nghiệp được nghiên cứu trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; dựa trên tư duy,
quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về CCHC và chương
trình CCHC do Chính phủ ban hành. Song song đó, tác giả sử dụng các phương pháp
cụ thể khác nhau để hoàn thành chuyên đề như: phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp quy nạp và phương pháp so sánh được sử dụng xuyên suốt trong hai
chương của chuyên đề; phương pháp thống kê, thu thập dữ liệu, sưu tầm tài liệu, được
sử dụng chủ yếu tại chương 2 của chuyên đề.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của chun đề
Cơng trình nghiên cứu về CCHC tại UBND các cấp trên cả nước đã tồn tại khá
phong phú và đa dạng, chuyên đề tốt nghiệp của tác giả là cơng trình nghiên cứu
chun biệt về cơng tác CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước trong giai đoạn hiện nay, đóng góp giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả CCHC tại UBND xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước, đáp ứng địi hỏi khách quan về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Ngồi ra, chun đề này còn là tài
6
liệu tham khảo cho việc thực hiện CCHC tại xã Nghĩa Bình và các xã khác tại huyện
Bù Đăng; có giá trị tham khảo đối với các nhà nghiên cứu sau này liên quan đến đề
tài và là cơ sở để tác giả phát triển các cơng trình nghiên cứu sau này của mình.
7. Bố cục của chuyên đề tốt nghiệp
Ngồi Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề tốt
nghiệp bao gồm 02 chương được kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính.
Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Bình,
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay – Kiến nghị và giải pháp.
7
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm và đặc điểm của cải cách hành chính
Hành chính nhà nước là một khái niệm dùng để chỉ một hệ thống các yếu tố
hợp thành về tổ chức (bộ máy, con người, nguồn lực công) và cơ chế hoạt động để
thực thi quyền hành pháp của nhà nước theo quy định pháp luật. Xét cả về lý luận và
thực tiễn thì nền hành chính nhà nước được kết cấu bao gồm các yếu tố hợp thành
như sau: hệ thống thể chế hành chính gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định của
Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thơng tư, Thơng tư liên tịch của
các Bộ, ngành và các văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp,…;
cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, các
ngành phù hợp với yêu cầu thực thi quyền hành pháp; đội ngũ cán bộ, cơng chức hành
chính được đảm bảo về số lượng và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của hành chính nhà nước; nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu
cầu thực thi cơng vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Nền hành chính nhà nước
có thể hiểu là một hệ thống tổ chức và thể chế thực hiện chức năng quản lý và phục
vụ xã hội và trong mọi trường hợp đều nhằm tổ chức và quản lý đời sống xã hội một
cách hợp lý, hợp pháp.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội2. Như vậy,
hoạt động của nền hành chính nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành thống nhất
của Chính phủ nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định, phát triển kinh tế xã hội theo định hướng. Trong q trình đó, các chủ thể hành chính cần thực hiện sự
phân cơng, phân cấp cho các cơ quan trong hệ thống nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo và thế mạnh riêng có của từng ngành, từng địa phương vào việc thực hiện
mục tiêu chung của cả nền hành chính. Để thực thi nhiệm vụ hiệu quả, Chính phủ
phải tiến hành các giải pháp để cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước. Trong đó, CCHC là một trong
những nhiệm vụ cấp thiết để thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân
2
Điều 94 Hiến pháp năm 2013.
8
chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiêp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy, CCHC là vấn đề diễn ra ở tất cả các quốc gia và được coi là yếu
tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, là trọng tâm của công việc cải cách bộ máy
nhà nước nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, thống nhất, có đủ quyền lực,
năng lực để thực hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, phục vụ đắc
lực cho nhân dân. Việc hoàn thiện và thay đổi những điều khơng hợp lý và khơng cịn
phù hợp là yêu cầu tất yếu mà bất kỳ một q trình nào cũng cần thiết để có sự hiệu
quả nên nước ta đang từng bước thực hiện CCHC và coi đó là khâu đột phá trong phát
triển đất nước.
CCHC ở nước ta diễn ra trong khuôn khổ của cải cách nhà nước theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề quan trọng để thực hiện
thành cơng q trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc hình thành quan niệm
và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc CCHC cũng như việc đề ra những nội
dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá
trình tìm tịi sáng tạo khơng ngừng, là một q trình nhận thức liên tục, thống nhất
trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, cụ thể là “để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần
thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức, bộ máy của các cơ quan”. Đến Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, chủ trương về CCCH của Đảng mới được
đề ra và thể hiện rõ ràng trong Nghị quyết Đại hội, theo đó, mục tiêu CCHC là “xây
dựng một nền hành chính dân chủ, vững mạnh, chun nghiệp, hiện đại hố, hoạt
động có hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức có phẩm chất năng lực đáp
ứng được công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”. Nhìn lại qua những năm thực
hiện CCHC, với những con số, sản phẩm và hiệu lực, hiệu quả đem lại từ CCHC nhà
nước, nước ta có thêm động lực, sức sáng tạo và kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh
CCHC và xây dựng nền hành chính nhà nước góp phần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo,
phát triển nhanh và bền vững đất nước trong chặng đường đi tới.Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tại Báo cáo chính trị đã xác định: “Xây dựng nền hành chính nhà
9
nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch,
vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”3 và chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị trong những năm tới là phải: “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phịng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong CCHC”4.
Trước tiên, để nắm được đặc điểm, nguyên nhân, mục tiêu, nội dung và ý nghĩa
của CCHC, cần hiểu được khái niệm cải cách và CCHC, cụ thể, cải cách được xem
“là một biện pháp giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương
trình cụ thể và u cầu phải hồn tất trong một thời gian nhất định”5. Như vậy theo
cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích
nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn, điều này làm phân biệt với những hoạt
động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi,…
Từ khái niệm về cải cách, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra khái niệm về CCHC,
trong đó, một nghiên cứu thì cho rằng CCHC “như là một quá trình cải tiến bộ phận,
cải cách từng phần, từng bước hệ thống hành pháp của bộ máy nhà nước nhằm nâng
cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp
hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong nền hành chính
nhà nước, có liên quan đến cải cách các lĩnh vực quản lý khác nhau của bộ máy nhà
nước”6. Từ điển Hành chính năm 2003 thì định nghĩa “CCHC là hệ thống những chủ
trương, biện pháp tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang tính cơ bản và có hệ thống
nền hành chính nhà nước (hay cịn gọi là nền hành chính cơng, nền hành chính quốc
gia) về các mặt: thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, chế độ công vụ, quy chế
cơng chức, năng lực, trình độ, phẩm chất phục vụ của đội ngũ cơng chức làm việc
trong bộ máy đó”7. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc năm 1971 thì CCHC là “những
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, Tập I, tr.176.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, Tập I, tr. 284.
5
Hồng Chí Bảo (2008), “Cải cách thể chế ở Việt Nam trước thách thức của tồn cầu hóa”, Tạp chí Cộng sản, Số 9, tr.
26 – 29.
6
Đồn Trọng Truyến (2000), Hành chính và cải cách hành chính, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội, tr. 50.
7
Tô Tử Hạ (2003), Từ điển hành chính, Nxb. Lao động - Xã hội, tr. 31.
10
nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành chính
nhà nước thơng qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các phương thức để cải
tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà nước: thể chế, cơ cấu
tổ chức, nhân sự, tài chính cơng và tiến trình quản lý”8. Cịn theo Bộ Nội vụ thì “Cải
cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được
xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền”9. Tóm lại, CCHC nhà nước là tạo ra
những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ
quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục
vụ xã hội tốt hơn.
Từ các khái niệm và cách nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, theo tác giả,
CCHC có thể được khái niệm như sau: CCHC là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể
để đạt mục tiêu hồn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính nhà nước từ
thể chế, cơ cấu tổ chức, đến cơ chế vận hành, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức,…
nhằm xây dựng nền hành chính cơng đáp ứng u cầu của một nền hành chính hiệu
lực, hiệu quả và hiện đại. Như vây, có thể thấy, bản chất của CCHC là q trình cải
biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền
hành chính nhằm xây dựng nền hành chính cơng đáp ứng u cầu của một hành chính
hiệu lực, hiệu quả và hiện đại. CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành
chính mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt
hơn so với trước; mọi hoạt động CCHC nhà nước đều hướng tới việc nâng cao hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý
cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển.
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận khơng tách rời khỏi bộ máy nhà
nước nói riêng và hệ thống chính trị của một quốc gia nói chung, chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của các yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế - xã hội, cho nên CCHC cũng mang
những đặc trưng chung của cải cách bộ máy nhà nước và cải cách hệ thống chính trị,
song CCHC vẫn có những đặc điểm riêng biệt, cụ thể như sau:
8
9
Bộ Nội vụ (2013), Chương trình bồi dưỡng cơng chức chun trách cải cách hành chính, Hà Nội, tr. 7.
Bộ Nội vụ (2017), Tài liệu bồi dưỡng công chức thực hiện cơng tác cải cách hành chính cấp bộ, Hà Nội, tr. 8.
11
Thứ nhất, CCHC không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Xuất phát từ
thực tiễn vai trò của Đảng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, Đảng lãnh đạo
trong quản lý hành chính Nhà nước được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội”10. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo chi phối nhiều vấn đề, trong đó có CCHC
được ghi nhận tại khoản 1 Mục I Điều 1 Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021
của Chính phủ, theo đó, cơng cuộc CCHC ở nước ta được tiến hành dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Đảng vạch ra đường lối và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới
do Đảng ta đề ra, cụ thể là CCHC muốn tiến hành được, muốn duy trì và đẩy mạnh,
trước hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng. Vai trị lãnh đạo của Đảng
chính là ở chỗ sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các Đảng viên đang giữ các
chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở;
các thành viên này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về CCHC thơng qua
các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
Đặc biệt, các cấp ủy Đảng có vai trò to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chức
năng kiểm sốt TTHC, cải cách TTHC hành chính và tham mưu xây dựng Chính phủ
điện tử,… cụ thể là trên cơ sở định hướng chiến lược của Đảng về những vấn đề liên
quan đến nhiệm vụ chính trị của cơ quan, nhấn mạnh những chủ trương, phương
hướng, những chỉ đạo về nguyên tắc; từ đó, triển khai phổ biến, tuyên truyền, quán
triệt cho đảng viên, công chức trong Đảng ủy các văn bản của Trung ương và đảng
ủy cấp trên, hướng dẫn đảng viên xây dựng kế hoạch, chương trình để cụ thể hóa
thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cá nhân để thực hiện, góp phần đưa các định
hướng trong cơng tác CCHC, kiểm sốt TTHC, xây dựng chính phủ điện tử đi vào
thực tiễn.
Thứ hai, CCHC phải bảo đảm đặt dưới sự chỉ đạo nhất quán của Chính
phủ. Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai trị quan
10
Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
12
trọng trong chỉ đạo triển khai CCHC của đất nước, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể
hố chủ trương, đường lối của Đảng thành các chương trình, kế hoạch CCHC, trên cơ
sở đó các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình, kế hoạch CCHC nhằm bảo đảm mục tiêu chung của
cải cách là xây dựng được một nền hành chính mạnh, hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục
vụ. Cơng tác chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với cơng cuộc CCHC
có ý nghĩa trên các phương diện như bảo đảm rõ định hướng, mục tiêu CCHC; xác
định rõ các nhiệm vụ cải cách; xác định các trọng tâm, ưu tiên cải cách theo từng thời
kỳ; xác định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính, trước hết là Bộ
trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong triển khai CCHC; tổng kết từ thực tiễn cải
cách để hoạch định thể chế, cơ chế mới, có tính chất áp dụng chung trong cả nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo CCHC – là tổ chức phối hợp liên
ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm
tra các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện cơng tác CCHC theo chương trình,
kế hoạch CCHC của Chính phủ.
Thứ ba, CCHC là xu thế tất yếu của nước ta trong quá trình phát triển.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, CCHC được xem là một yếu tố hết sức quan trọng,
một mũi đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, phát huy dân chủ và góp phần nâng cao chất lượng đời
sống của người dân. Ở nước ta, CCHC là xu thế tất yếu của cả nước nói chung và của
từng địa phương nói riêng trong q trình phát triển, CCHC nhà nước đặt ra như một
tất yếu khách quan và ngày càng trở nên cấp thiết, đặt trong tổng thể cải cách bộ máy
nhà nước theo hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bởi việc nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả của nền hành chính nhà nước là một yêu cầu tất yếu và cấp bách trong điều
kiện nước ta hiện nay. Hơn thế, CCHC công trở thành một trong các biện pháp được
ưu tiên hàng đầu nhằm thúc đẩy công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và phát
triển đất nước. Như vậy, CCHC là một đòi hỏi tất yếu ở Việt Nam trong những năm
qua và trong tương lai theo hướng xây dựng một bộ máy hành chính gọn nhẹ hơn,
hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn, hướng tới phục vụ tốt hơn các nhu cầu và lợi ích
13
hợp pháp của mỗi công dân và cả xã hội góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ tư, CCHC phải được thực hiện toàn diện và đồng bộ. Đây cũng là quan
điểm được Chính phủ nêu ra tại khoản 3 Mục I Điều 1 Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày
15/7/2021. CCHC nhằm mục đích phục vụ, thúc đẩy sự phát triển ổn định và năng
động của toàn xã hội, do đó, CCHC phải được thực hiện tồn diện trên mọi mặt của
đời sống xã hội như kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,… tất cả mọi lĩnh vực đều
liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể của một xã hội, cho nên CCHC
là cải cách tồn diện, khơng chỉ CCHC ở một lĩnh vực nhất định. Bênh cạnh, CCHC
toàn diện trong từng lĩnh vực, cần phải thúc đẩy CCHC trong tất cả các bộ, ngành,
lĩnh vực, địa phương,… có như vậy mới có thể thúc đẩy, hỗ trợ, tạo điều kiện, tiền đề
cho cải cách tồn diện nền hành chính quốc gia. Ở nước ta, CCHC được triển khai
trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính, trên nhiều lĩnh vực cải cách, mỗi lĩnh vực
lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của cải
cách hành chính ở Việt Nam, cụ thể: CCHC giai đoạn 2001 – 2010 được thực hiện
trên các lĩnh vực bao gồm cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức; cải cách tài chính cơng11; giai
đoạn 2011 – 2020 thực hiện trên các lĩnh vực như cải cách thể chế; cải cách TTHC;
cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính cơng và hiện đại hóa nền hành
chính12; CCHC nhà nước giai đoạn 2021-2030 tập trung vào các lĩnh vực, đó là cải
cách thể chế; cải cách TTHC; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; cải cách
chế độ cơng vụ; cải cách tài chính cơng và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử,
Chính phủ số13. Mỗi lĩnh vực nêu trên sẽ bao gồm nhiều lĩnh vực thành phần và hoạt
động cụ thể được thể hiện chi tiết tại Chương trình tổng thể CCHC nhà nước qua từng
giai đoạn cụ thể.
11
Mục III Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban hành kèm theo Quyết định
số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
12
Điều 3 Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ.
13
Điều 1 Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ.
14
CCHC diễn ra cùng một lúc với việc tiến hành một loạt cải cách trên nhiều lĩnh
vực nêu trên, mỗi lĩnh vực cải cách theo đuổi các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên
có rất nhiều vấn đề đan xen giữa các lĩnh vực cải cách, thậm chí có vấn đề không chỉ
thuộc một lĩnh vực cải cách riêng biệt, địi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung
nhằm bảo đảm mục tiêu chung của phát triển. Chính vì vậy, CCHC phải được thực
hiện đồng bộ giữa các lĩnh vực với nhau, việc này có ý nghĩa quan trọng, tạo ra sự
thống nhất đối với hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm cơng cuộc
cải cách được triển khai thông suốt, đạt hiệu quả tốt hơn và hạn chế gặp trở ngại.
Thứ năm, CCHC phải được thực hiện lâu dài, liên tục. CCHC là công việc
có tính chất thường xun, lâu dài, liên tục theo sự phát triển của mỗi địa phương,
đơn vị cơ sở, của từng ngành, từng lĩnh vực và được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ
thể chế, TTHC, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước chế độ cơng vụ, tài chính cơng,
hiện đại hóa nền hành chính,… đó là các yếu tố quan trọng cấu thành nền hành chính
quốc gia; do đó, việc triển khai CCHC trên thực tế khơng đơn giản và cũng không thể
sớm đạt kết quả nên đòi hỏi phải được thực hiện lâu dài, trước hết là công tác xây
dựng kế hoạch CCHC của các bộ, ngành và địa phương đến công tác triển khai, kiểm
tra việc thực hiện trong thực tiễn. Công tác CCHC tạo ra những thay đổi được thiết
kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản và liên tục các khâu trong hoạt động
quản lý của bộ máy nhà nước từ việc lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức, cơng tác cán
bộ, tài chính, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, thơng tin và đánh giá. Ngồi ra, trong điều
kiện nguồn lực ở nước ta cịn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc thực hiện
được nhiều nội dung cải cách nên việc cải cách sẽ được thực hiện lâu dài, từng khâu
một nhưng đảm bảo sự liên tục mang lại hiệu quả thiết thực nhất.
Thứ sáu, CCHC đòi hỏi phải đổi mới tư duy trong quá trình thực hiện.
Đây cũng là quan điểm được Chính phủ nêu ra tại khoản 4 Mục I Điều 1 Nghị quyết
số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021. Trong q trình thực hiện CCHC, địi hỏi phải có
những nghiên cứu, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm của từng cấp, từng
ngành, từng địa phương, đơn vị cơ sở, đối với từng giai đoạn phát triển của từng đối
tượng quản lý; từ đó, tổ chức thực hiện những bài học đã đem lại hiệu quả và nghiên
cứu, chọn lọc những kinh nghiệm, bài học tốt của các địa phương, các ngành, các cơ
15
sở khác kể cả những bài học của các nước có nền hành chính quốc gia có q trình
cải cách lâu dài và có những thành cơng nhất định. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát
triển của đất nước, của từng địa phương, từng ngành phải xác định được trọng tâm
CCHC của từng lĩnh vực, phải lựa chọn phương pháp cải cách phù hợp với trình độ
và yêu cầu phát triển đơn vị, phải xác định được và nhằm vào khắc phục khâu yếu
nhất của từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị cơ sở, đặc biệt phải tránh dập
khuôn, máy móc, tức là phải đổi mới tư duy liên tục theo sự vận động, phát triển của
đối tượng quản lý kết hợp với tính chủ động, sáng tạo trong cải cách. Có thể nói,
khơng có đổi mới, tư duy mới, cách làm mới thì khơng thể có hiệu quả trong công tác
CCHC. Vấn đề tư duy cần đổi mới ở đây là đổi mới phương pháp nhìn nhận, đánh giá
đối tượng, trình độ phát triển và hồn cảnh mà đối tượng quản lý đang vận động,…
làm cho phương pháp và nội dung cụ thể trong quản lý phải luôn linh hoạt theo từng
giai đoạn phát triển của đối tượng quản lý. Ngồi ra, đổi mới tư duy cịn phải tránh
bệnh thành tích, áp đặt ý trí chủ quan mà phải thật sự cầu thị trong nghiên cứu, chọn
lọc những bài học có tính khả thi và bảo đảm đạt được mục đích vì lợi ích của nhân
dân, đúng đường lối của Đảng.
1.2. Nguyên nhân, mục tiêu và ý nghĩa cải cách hành chính
CCHC là một q trình liên tục mang tính định nhằm làm cho hoạt động thực
thi quyền hành pháp ngày càng thích ứng hơn với yêu cầu của sự vận động và phát
triển nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Hiên nay, công cuộc CCHC trở thành hoạt
động phổ biến không chỉ diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới mà còn được đẩy mạnh
thực hiện tại Việt Nam, những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc thực hiện CCHC ở
nước ta cụ thể như sau:
Một là, cần CCHC để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước thơng qua nền hành chính của mình, định hướng phát triển, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi và điều tiết có hiệu quả nền kinh tế quốc dân, để làm
được điều đó, một mặt, Nhà nước phải tự điều chỉnh tổ chức và phương thức quản lý
thích ứng với nền kinh tế thị trường, mặt khác Nhà nước phải cải cách nền hành chính
cho phù hợp với cơ cấu và cơ chế kinh tế mới. Kinh tế thị trường là một mơ hình mới
đối với nước ta nên phải học hỏi thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại và đúc kết
16
kinh nghiệm đổi mới trong nước, thực tiễn cho thấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đi
trước một bước và đặt ra yêu cầu cho CCHC. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đòi hỏi đẩy mạnh CCHC hướng tới việc xây dựng bộ máy hành chính năng
động, cởi mở, hiệu quả, nhạy bén với yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhằm nâng
cao khả năng hoạt động của bộ máy hành chính giúp cho q trình quản lí xã hội của
Nhà nước được tốt hơn, trước hết là quản lý nền kinh tế, định hướng cho nền kinh tế
phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Trong đó, sự phát triển nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, đặc biệt là khu vực phi chính phủ
và kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, tạo cơ hội tham gia nhiều hơn vào các lĩnh
vực hoạt động vốn do nhà nước độc quyền đòi hỏi Nhà nước, mà trực tiếp là nền hành
chính phải hồn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực pháp ly theo cơ chế mới để đảm
bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như
vậy, đẩy mạnh CCHC để hồn thiện nền hành chính nhằm thích ứng sự phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, cần CCHC để khắc phục những hạn chế, bất cập còn tồn tại của
nền hành chính. Nền hành chính Nhà nước là nơi biểu hiện trực tiếp, rõ nhất, tập
trung nhất những ưu việt cũng như những nhược điểm, hạn chế của bộ máy Nhà nước.
Nhờ công tác CCHC ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những kết quả tích
cực, tiếp tục đóng góp quan trọng vào những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đặc biệt là từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính dân
chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
phục vụ Nhân dân theo chủ trương, đường lối của Đảng. Tuy nhiên, từ kết quả thực
tiễn triển khai cho thấy, nền hành chính Nhà nước vẫn cịn tồn tại nhiều bất cập, hạn
chế như thể chế hành chính cịn chưa đồng bộ, TTHC cịn rườm rà, tổ chức bộ máy
hành chính Nhà nước còn cồng kềnh, đội ngũ cán bộ còn yếu kém, việc sử dụng và
quản lí nguồn tài chính cơng chưa chặt chẽ, lãng phí và kém hiệu quả,… đặt ra yêu
cầu cần tiếp tục đẩy mạnh công tác CCHC hơn nữa ở một số ngành, lĩnh vực, địa
phương. Như vậy, Chính phủ phải tiến hành CCHC xuất phát từ ngun nhân nền
hành chính cịn bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong quản lý cũng như phục vụ xã
hội nhằm khắc phục những tồn tại đó và tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ,
17
chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển,
liêm chính, phục vụ nhân dân.
Ba là, cần CCHC để đáp ứng yêu cầu của q trình tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế. Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang là xu thế chung của các
nước trên thế giới hiện nay, trong những năm qua, Việt Nam đã và đang ngày càng
hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới với rất nhiều nỗ lực để bắt kịp xu thế đó.
Xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế đã địi hỏi hoạt động hành chính nhà nước
phải thay đổi cả về hình thức, nội dung, phải tuân theo nhiều thơng lệ quốc tế trong
hoạt động hành chính nhà nước. Theo đó, cơng cuộc đổi mới trong bối cảnh nước ta
ngày càng hội nhập sâu, rộng vào toàn cầu đòi hỏi phải cải cách cơ cấu tổ chức và cơ
chế hoạt động của bộ máy hành chính. Đồng thời, sự thay đổi của mơi trường chính
trị, kinh tế, xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế yêu cầu nền hành chính nhà nước phải
biến đổi theo cho phù hợp, yêu cầu ở đây không chỉ đơn thuần là tinh giản bộ máy
Nhà nước mà làm sao cho Nhà nước và nền hành chính tác động có hiệu quả vào các
mặt của đời sống – xã hội. Hiện nay, Việt Nam ta đã gia nhập một số tổ chức lớn như
ASEAN, WTO nên nền hành chính nhà nước cũng cần phải có sự biến đổi để phù hợp
với quốc tế, khu vực. Hơn nữa, khi thế giới đang ở trong thời kỳ hội nhập, kết nối,
thách thức lớn đối với Việt Nam là cơng nghệ cịn lạc hậu, thiếu đồng bộ khó có thể
vận hành tốt và nhịp nhàng với những liên kết mang tính tồn cầu. Do đó, hiện nay,
cần đặt ra yêu cầu CCHC trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tạo lập nền hành chính
năng động, dân chủ, hiện đại, thích ứng với pháp luật và thông lệ quốc tế, song vẫn
phải phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta.
Bốn là, cần CHCC để đảm bảo nền hành chính nhà nước theo kịp sự phát
triển của khoa học – công nghệ. Khoa học – công nghệ là một lĩnh vực quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
khơng chỉ là nền tảng, mà còn là kết quả, minh chứng hiện thân của một đất nước phát
triển, của một đất nước công nghệ hiện đại. Khoa học – công nghệ phát triển mở ra
nhiều cơ hội trong đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực sản xuất, sức cạnh tranh, rút
ngắn khoảng cách phát triển. Trong cuộc sống hiện đại, việc nghiên cứu, ứng dụng
khoa học – công nghệ vào mọi lĩnh vực đời sống là hết sức cần thiết, trong đó hoạt