Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận cao học_Phân tích quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác lênin về con người và ý nghĩa của nó trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.58 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Nhận thức đúng đắn về khái niệm con người là sự phát triển sáng tạo
quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý thức,
là chủ thể của lịch sử.
Trước hết có thể nói rằng xã hội lồi người tồn tại và phát triển dựa vào
hai nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn
tài nguyên con người là trí tuệ. Theo quan niêm cổ điển, mọi nguồn tài
nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai thác cạn kiệt. Song, sự
hiểu biết của con người đã, đang và sẽ không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là
nguồn tài ngun trí tuệ khơng có giới hạn. Tính vơ tận của nguồn tiềm năng
trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vơ tận của thế giới vật chất,
tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài ngun thiên nhiên cịn vơ tận nhưng
chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của những
dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài ngun mới
vốn khơng có sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội
trong những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực
vơ tận của sự phát triển xã hội.
Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả
cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm
nên lịch sử của chính mình bằng lao động được định hướng bởi trí tuệ đó. Ta
đã biết rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất nhiên phải
thông qua đầu óc của họ”, tức là phải thơng qua trí tuệ của họ. Trước tiên,
những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng
như bất kỳ một động vật nào khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định”. Sự khác biệt căn bản về mặt “tổ chức cơ thể” giữa con người và con
vật chính là bộ óc và đơi bàn tay. Bộ óc điều khiển đơi bàn tay, nghĩa là bằng
trí tuệ (bộ óc) và lao động (đơi bàn tay) con người đã tiến hành hoạt động biến
1



đổi tự nhiên làm nên lịch sử xã hội, đồng thời trong q trình đó đã biến đổi
cả bản thân mình.
Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh
khoa học, những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp
đảo. Những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo... dù rộng lớn đến đâu, dù dưới
hình thức hồn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất
tinh tế thế giới nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển
khoa học kinh tế, của hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hồn
thiện, dù thơng minh đến đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con
người. Do đó con người ln ln đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt
động trong xã hội.
Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của
Mác về vị trí vai trị khơng gì thay thế được của con người trong tiến trình
phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội lồi người. Bản thân sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước thực hiện với
những thành cơng bước đầu của nó cũng ngày càng địi hỏi mỗi chúng ta phải
nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố
con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng
thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và
văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia”. Bởi vậy để đẩy nhanh sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN và
đưa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó đến thành cơng ở một nước vẫn cịn
trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta không thể không phát triển con
người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm
cao chất lượng mới. Để hiểu rõ hơn về vấn đề đó em đã chọn đề tài “Phân
tích quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và ý nghĩa
của nó trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI.
1.1. Bản chất con người
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ
xã hội” Mác hồn tồn khơng có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc
điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn
thuần như một phần của giới tự nhiên cịn bỏ qua, khơng nói gì đến mặt xã
hội của con người. Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu
bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con
người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về
mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động
và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát triển của con người. Chính
Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho rằng mọ người đều ngang nhau
về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài năng
con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới bình đẳng thì đó ln ln là
sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chứ khơng phải là sự bình đẳng về
thể lực và trí lực của cá nhân”.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự
phát triển tồn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã
hội, Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy
định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và
những công cụ lao động do con người tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người
đã chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư
cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định

quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển
tính chất xã hội hố ngày cnàg tăng. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực
3


lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ
cần đến những con người hồn tồn mới. Những con người có năng lực phát
triển tồn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới,
sẽ làm nên những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn
diện năng lực phát triển của mình theo Mác "phát triển sản xuất vì sự phồn
vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng
xã hội và phát triển con người tồn diện là một q trình thống nhất để làm
tăng thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất ra những con người phát triển toàn
diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợ chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển
con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người là sinh vật có tính xã hội. Đối với Mác “con người không phải
là một tồn tại trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngồi thế giới”. Đó là những con
người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định, có
những quan hệ xã hội phong phú, phức tạp và ngày càng phong phú với sự
phát triển của văn minh.
Các Mác viết “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội”. Qua luận đề nổi tiếng đó, chúng ta thấy Mác
muốn nói bản chất con người, một sự trừu tượng khoa học, là sự khái quát từ
đời sống cụ thể, từ thuộc tính của con người hiện thực, thế hệ này qua thế hệ
khác, bản chất con người được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện thơng qua
tổng thể các quan hệ xã hội. Muốn tìm bản chất con người thì phải tìm ở bên
trong chứ khơng phải ở bên ngoài đời sống hiện thực của con người. Luận đề
của Mác khơng làm mất đi tính cá nhân, khẳng định sự kỳ diệu, sự phong phú
vơ hạn của tính cách con người. Nếu đứng trên quan điểm sinh vật học mà xét

thì khơng thể hiểu được chẳng những thực chất của con người, mà ngay cả ý
nghĩa của cơ thể con người, từ khi q trình nguồn gốc lồi người kết thúc thì
những biến đổi trong cơ thể đều được hướng dẫn bởi ảnh hưởng quyết định
của văn hoá: khả năng đối xử có tính người đối với thế giới và đối với những
4


người khác, khả năng lao động, giao tiếp với những người chung quanh, khả
năng tư duy, có những tình cảm đạo đức và những xúc cảm thẩm mỹ, tất cả
những cái đó đều khơng phải là đặc tính của cơ thể mà là những nét đã hình
thành trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội, tiêu biểu cho thực chất của con
người trong cách biểu hiện và bộc lộ cá thể của nó. Những nét ấy được hình
thành nhờ chỗ con người tham gia vào hệ thống các quan hệ xã hội, vào quá
trình hoạt động lao động, đi liền với sự tham gia của con người vào quá trình
nắm vững và tái tạo nền văn hố xã hội (lao động, hoạt động). Chính trong
q trình này con người đã tự sáng tạo ra bản thân mình một cách lịch sử và
khơng ngừng tái hiện bản thân mình, tự giáo dục bản thân với tư cách là con
người. Tiêu chuẩn lịch sử cho phép người ta phân biệt con người- đó là sản
xuất ra cơng cụ lao động cũng bằng chính cơng cụ. Đồng thời tiền đề tuyệt
đối và điều kiện của văn hoá con người là giới tự nhiên mà con người dùng để
xây dựng nền văn hóa của mình bằng cách chinh phục tự nhiên một cách sáng
tạo. Con người xã hội là kẻ sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra bản thân mình.
Chính vì vậy, con người hồn tồn mang tính xã hội.
1.2. Vai trị của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong quá trình
sản xuất xã hội
Hơn một trăm năm trước, khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của
xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, Các
Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo
chung cho sự phát triển xã hội. Các Mác cho rằng, xu hướng chung của tiến
trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất

bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua
việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với
tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt đoọng sống của chính con người. Chúng ta
biết rằng sản xuất là quá trình hoạt động thực tiễn cơ bản của con người nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mình. Sản xuất quyết định nhu cầu nhưng khơng
5


có nhu cầu thì cũng khơng có sản xuất. Nhu cầu của con người tăng lên khơng
ngừng, do đó mà con người ln ln phát triển sản xuất vì muốn nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất, giảm nhẹ lao động. Vì vậy có
thể nói, trong q trình hoạt động, trước hết và quan trọng hơn cả là hoạt động
lao động sản xuất, bộ óc và bàn tay con người khơng ngừng hồn thiện. Sự
hồn thiện của bộ óc là cơ sở, là nguồn vật chất vơ tận cho những hoạt động
ngày càng phức tạp, tinh vi, đa dạng, phong phú của con người, đưa đến sự
thay đổi liên tục cơ sở vật chất và kỹ thuật của xã hội. Sự phát triển hồn
thiện khơng ngừng của trí tuệ con người đã được thể hiện bằng việc truyền
đạt, tàng trữ những tri thức lý luận và kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ
khác và được ghi nhận nhân cách cụ thể, trước hết ở sự biến đổi của cơng cụ
sản xuất. Hay nói cách khác, sức mạnh trí tuệ con người khơng ngừng được
vật thể hố trong cơng cụ sản xuất, trong lực lượng sản xuất nói chung. Tính
vơ tận của trí tuệ con người được biểu hiện ở sự biến đổi không ngừng ở tính
đa dạng, phong phú vơ cùng tận của cơng cụ sản xuất trong quá trình phát
triển của xã hội. Những cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã và đang diễn
ra trong lịch sử xã hội loài người là những nấc thang đánh dấu sự phát triển
ngày càng cao hơn của công cụ sản xuất: từ lửa đến công cụ sản xuất thủ
cơng, rồi cơng cụ cơ khí máy móc và cơng nghệ trí tuệ ngày nay.. Tất cả
những điều đó chứng tỏ rằng con người với bàn tay và khối óc của mình là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Nhưng bên cạnh vai trò con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là
yếu tố hàng đầu đóng vai trị quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội,
con người còn là chủ thể hoạt động của q trình lịch sử. Thơng qua hoạt
động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sáng tạo
ra lịch sử của xã hội loài người. Kết quả là xã hội loài người đã bước từ thời
đại văn minh này sang thời đại văn minh khác cao hơn, trong quá trình lịch sử
tự nhiên.
Mặt khác khi sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản
6


xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của
toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần
đến những con người hoàn toàn mới. Các Mác đã khẳng định: sự phát triển
của lực lượng sản xuất xã hội trước hết có ý nghĩa là “sự phát triển phong phú
của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân”. Bởi vậy theo Các
Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển
con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của con người, giải
phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hoá để con
người sống với cuộc sống đích thực của mình.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát
triển lịch sử xã hội lồi người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn cho con người, phát triển con người tồn diện và giải phóng con người,
nói theo Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc
của tự do, con người cuối cùng cũng là người tôn tại của xã hội của chính
mình, đồng thời cũng trở thành người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân
mình. Đó là q trình mà nhân loại đã tự tạo ra cho mình những điều kiện,
những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do
và hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng nhân loại tạo cho con người
năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.

Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử
của xã hội loài người. Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế
đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa
dạng trong các hình thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử
cho đến nay bao giờ cũng là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng là một
hệ thống hết sức phức tạp và chính vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính khơng
đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực khác
nhau. Đến lượt mình, tính khơng đồng đều của sự phát triển này lại hình thành
nên một bức tranh nhiều màu sắc về định hướng nào, thì mọi định hướng phát

7


triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai cấp
đó có phục tùng được lịng dân hay không. Trải qua thời kỳ phát triển của xã
hội loại người chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi quy luật
của cuộc sống và đó chính là lý do tại sao mác lại lấy giai cấp vơ sản để
nghiên cứu trong đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu.
Theo Mác, người vô sản là ngừơi sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội
hiện đại, nhưng lao động của họ lại bị tha hoá, lao động từ chỗ gắn bó với họ
nay trở nên xa lạ nghiêm trọng hơn nữa chính nó đã thống trị họ, tình trạng
bất hợp lý này cần phải được giải quyết. Với Mác, người vô sản là người tiêu
biểu cho phương thức sản xuất mới, có sứ mệnh và hồn tồn có khả năng
giải phóng mình, giải phóng xã hội để xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Theo
Mác "đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người khơng cịn thất nghiệp,
khơng cịn bị ràng buộc vào một nghề nghiệp nhất định họ có thể làm bất kỳ một
nghề nào nếu có khả năng và thích thú, họ có quyền làm theo năng lực, hướng
theo nhu cầu tuy nhiên những ý muốn đó khơng xảy ra bởi vì cách mạng cộng

sản chủ nghĩa khơng diễn ra theo ý của họ. Nó không diễn ra đồng loạt tren tất cả
các nước tư bản, ít ra là ở các nước tư bản tiên tiến, trái lại nó lại diễn ra ở những
nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là nước Nga (Liên Xô cũ)... Một nước công
nghiệp chưa phát triển, nông dân chiếm số đơng trong dân số. Vì vậy quan niệm
của ơng về con người khó có điều kiện được chứng minh.
Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ có con
người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mới là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại.
Nhưng con người cũng là mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, sự đổi mới
này. Hay nói cách khác, cơng cuộc đổi mới đất nước mà cụ thể là cơng nghiệp
hố, hiện đại hố là do con người, phụ thuộc vào con người và vì con người.
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
8


của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục...
cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và
bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật,
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm
ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác

động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.
Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú
thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính bản thân con người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không
phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Mặc dù là “tổng hồ các quan hệ xã hội”, con người có vai trị tích cực trong
tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động
và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với
sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
9


CHƯƠNG II. VẤN ĐỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, VÀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC.
2.1. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa .
Trong điều kiện hiện nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO xu hướng toàn cầu hoá đang dần chiếm ưu thế, cạnh tranh
ngày càng diễn ra gay gắt, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có
chất lượng ngày càng cao để có thể đáp ứng q trình hội nhập quốc tế và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội đang là yêu cầu bức thiết đối vớI nước ta.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy và sử dụng nhân tố con người với

tư cách là động lực chính của sự phát triển kinh tế xã hội.Thành công của các
nước công nghiệp mới (NIC) ở châu Á cho thấy dù tài nguyên không nhiều,
dân số lại đông để giảm sức ép giành lợi thế cạnh tranh. Khai thác tốt nguồn
lực nội sinh thúc đẩy cho giáo dục và khoa học cơng nghệ nên đã tạo ra cho
mình động lực phát triển toàn diện đất nước họ đặc biệt quan tâm đầu tư cho
giáo dục và khoa học công nghệ nên đã tạo cho mình động lực phát triển.
Điều này chứng tỏ nhân tố con ngườI ln có một vai trò to lớn trong sự phát
triển bền vững của mọi quốc gia. Đối với một số nước mà tốc độ phát triển
còn chậm như nước ta muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hộI thì phải
phát huy tiềm năng trí tuệ con người Việt Nam xây dựng nguồn nhân lực Việt
Nam ngày càng nâng cao về chất lượng. Muốn thực hiện được điều đó cần có
sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo trong quá trình sử dụng và phân
công lao động xã hội.
Từ những quan điểm về con người và xây dựng con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh ln được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình
xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Chính vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) đã đặt vấn đề con
người là một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
10


xây dựng đó là “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân”.
Việc xây dựng con người được Đảng ta xem xét từ nhiều khía cạnh
khác nhau, trước hết là quan tâm tới việc “Phát triển con người tồn diện, có
đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong Luật Giáo dục đã được Quốc hội
thông qua ngày 11/12/1998.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã bổ sung quan điểm xây dựng
con người là “ Đề cao quyền con người và quyền làm chủ của nhân dân”. Đến
Đại hội X (tháng 4-2006), Đảng ta đã đưa việc xây dựng con người vào
“Chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam,
tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”. Để nâng cao thể lực và chăm
sóc sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới, Đảng ta đã nhấn mạnh “ Sức
khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội, là nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để
mọi người được quan tâm chăm sóc sức khoẻ”.
Với những nhận định trên, Đảng ta đã ngày càng nhận thức đầy đủ hơn,
rõ ràng và sâu sắc hơn về nhân tố con người và đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát tiển kinh tế - xã hội, coi con người vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì nói cho cùng mục tiêu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước là phải hướng tới phục vụ con người, giải
phóng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo
cơ hội và điều kiện để nhân dân tham gia làm chủ vào quá trình trình sáng tạo,
sản suất, truyền bá và hưởng thụ các thành quả chung của xã hội.
Trong báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Đảng ta đã nhận định:
“Cịn có biểu hiện xem nhẹ yếu tố con người và nguồn nhân lực trong đầu tư
và phát triển, vi phạm quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của cá nhân, chưa
11


thấy hết trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội đối với việc xây dựng
con người. Có biểu hiện tuyệt đối hố cá nhân, lợi ích cá nhân, tự do cá nhân.
Chậm cụ thể hố xây dựng tiêu chí con người cho phù hợp với từng giai tầng
xã hội. Cịn lúng túng trong cơng tác giáo dục, xây dựng con người về tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Điều kiện chăm lo nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người (học hành, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí,…) cịn nhiều

hạn chế…”. Vì vậy, việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam trong thời
kỳ mới là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người tại Đại hội XI
(tháng 1-2011) được khẳng định rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và
quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư
trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý
thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống
có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản
xuất, cơng tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách
làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình
bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá
Việt Nam".
2.2. Mục tiêu trong chiến lược xây dựng con người và phát huy nhân tố
con người ở Việt Nam hiện nay.
- Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng cơng tác chăm
sóc sức khoẻ nhân dân.
Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khoẻ và nâng cao chất
lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư đồng thời đẩy mạnh xã hội
12


hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế cơng lập và ngồi cơng lập; hồn chỉnh
mơ hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng lực của trạm
y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện
tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Xây dựng thêm một số bệnh viện chun

khoa có trình độ cao tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng.
Xây dựng một số cơ sở khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực. Khuyến
khích các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở y tế
chuyên khoa có chất lượng cao. Khắc phục tình trạng q tải ở các bệnh viện,
đặc biệt là bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Đổi mới cơ chế hoạt
động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ,
công khai, minh bạch. Chuẩn hoá chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh
viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn
thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh và viện phí phù
hợp; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế tồn dân. Thực hiện tốt chính sách
khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em và người
dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Tăng cường đào tạo và
nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ y tế. Phấn đấu đến năm 2020 tất cả các xã, phường có bác sĩ. Phát triển
mạnh y tế dự phịng, khơng để xảy ra dịch bệnh lớn. Tiếp tục kiềm chế và
giảm mạnh lây nhiễm HIV. Tiếp tục giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Nâng
cao chất lượng và bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Phát triển nhanh công
nghiệp dược và thiết bị y tế. Phát triển mạnh y học dân tộc kết hợp với y học
hiện đại. Quản lý chặt chẽ việc sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm
vóc con người Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần chúng và
thể thao thành tích cao. Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình, duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng giới tính hợp lý, nâng
cao chất lượng dân số. Đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực y tế, dân số kế hoạch hố gia đình và thể dục thể thao.
13


- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân

lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi,
lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của cơng nghệ và trình độ phát
triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển
nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào
tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn.
Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát
triển kinh tế tri thức.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài
chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các
bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với gia đình và xã hội.
Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng
cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chun
nghiệp. Rà sốt, hồn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới
14


trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải

pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với
nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư
xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở
tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện
chương trình giáo dục phổ thơng mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào
tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao
chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập;
mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập
cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ
hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
2.3.

Vai trò của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước
Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người trong quá
trình CNH – HĐH đất nước. Con người không chỉ là trung tâm của sự phát triển
kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đảm
cho quá trình CNH – HĐH đất nước thành cơng.
Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trị của nguồn lực con
người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức…của con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khoá VIII đã chỉ rõ điều đó: “Đẩy mạnh CNH –
HĐH”. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì “dân
giàu, nước mạnh, cơng bằng, văn minh là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của
nhân dân ta. Đồng thời là một quá trình cải biến của xã hội sâu sắc, địi hỏi phát huy
khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam".
Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã
Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và cơng nghệ;

nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động…. Trong

15


các nguồn lực trên đều có vai trị của con người, con người với tư cách là nhân tố
liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người tham gia vào q trình
phát triển và đóng vai trị chủ đạo trong q trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí
quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, cơng nghệ, tin học, con người tiến lên
không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao
động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng lực thích ứngvới sự phát
triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của nền kinh tế thị trường thì
mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Nó sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với
tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế tri
thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ
yếu sử dung nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định
đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình CNH – HĐH gắn với việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thì vấn đề vai trị của tri thức, kỹ năng
của người lao động được đặt ra. Chẳng hạn, trong nông nghiệp muốn chuyển đổi vật
nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải dùng đến tri thức. Vai trị con người trong q
trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật.
Nguồn lực con người trong hoạt động kinh tế được thể hiện ở khả năng tổ chức.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện qua ý
chí, tình cảm, đạo đức….CNH – HĐH là quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta
địi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn…Cho nên, nó địi hỏi con người Việt

Nam phải quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu
để xây dựng đất nước thành công.
Do vậy, khi đề cập quan điểm về vai trò của con người trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và bền vững” ở nước ta.

KẾT LUẬN
16


Vấn đề con người và chiến lược phát huy nhân tố con người ở Việt
Nam là vấn đề phong phú là đề tài có tính cấp thiết cho các nhà tư tưởng và
các học giả nghiên cứu. Đặc biệt với sự phát triển không ngừng của kinh tế,
đời sống vật chất của người dân khơng ngừng được nâng cao thì vấn đề này
càng trở nên có ý nghĩa quan trọng. Các nhà Macxit, các nhà CNXHKH cần
quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề con người XHCN trong tình hình
mới. Việc nghiên cứu vấn đề cần đặt trên lập trường cơ bản của chủ nghĩa
Mác Lênin.
Việc nghiên cứu vấn con người và chiến lược xây phát huy nhân tố con
người ở nước ta hiện nay là rất cần thiết, góp phần bổ sung cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, thêm hồn thiện, để cho chủ nghĩa Mác-Lênin, ln ln phù hợp
với tình hình và giữ nguyên được những giá trị cách mạng và khoa học của
nó. Hơn nữa sẽ giúp chúng ta vận dụng một cách đúng đắn để xây dựng và
phát triển con người, xã hội hơn nữa.
Đối với Việt Nam thì đây ln là u cầu cấp bách cần được nghiên
cứu. Chiến lược xây dựng con người phát huy nhân tố con người ở Việt Nam
hiện nay phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có như vậy nguồn lực con người mới phát huy được mức tối đa, phục
vụ cho sự phát triển kinh tế.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về

con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII,
Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt
Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn
diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
17


1.

Bộ giáo dục và đào tạo [2006]: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB
Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.

2.

Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh [2008]: giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh, NXB Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.

3.

Khoa CNXH [2007]: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, (Lưu hành nội bộ).

4.

Văn kiện đại hội Đảng XI [2011] NXB Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.


18



×