Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

BÀI TẬP LỚN ĐỀ TÀI: NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.94 KB, 21 trang )

Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….

TÊN ĐỀ TÀI: NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật Tố tụng hành chính
Mã phách:………………………………….(Để trống)

TP.Hồ Chí Minh – 2022


MỞ ĐẦU
Tranh tụng trong tố tụng hành chính là một quá trình xác định sự thật khách
quan về vụ án được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong q trình đó các chủ thể tham gia
tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án, theo những trình
tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tranh tụng trong tố tụng
hành chính là khâu đột phá của hoạt động tố tụng, tạo điều kiện cho các
đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã xác định tầm quan trọng
của tranh tụng trong hoạt động tố tụng. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội
khóa XIII thơng qua tại kì họp thứ 6 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta về
quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.”. Từ đó thể hiện
tầm quan trọng của vấn đề tranh tụng của hệ thống pháp luật nói chung, và
tranh tụng trong tố tụng hành chính nói riêng, trong hoạt động xây dựng pháp
luật và phù hợp với quá trình cải cách tư pháp của nước ta.


1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN VỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1 Khái niệm tranh tụng
Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao
hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng của nền văn minh nhân loại.
Trong xã hội hiện đại, ở các dù có tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là
hệ thống luật án lệ, hệ thống luật lục địa hay hệ thống luật xã hội chủ nghĩa,
thì ít hay nhiều và bằng các thể hiện khác nhau, trong hệ thống tố tụng đều có
yếu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả bảo đảm cho tòa án xác
định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự
công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố
tụng.
Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng, còn tranh luận được hiểu là “bàn cãi
tìm ra lẽ phải”, là một nguyên tắc cơ bản được pháp luật tố tụng hành chính
ghi nhận tại Điều 18 Luật tố tụng hành chính năm 2015 “Bảo đảm tranh tụng
trong xét xử”. Tương ứng với các loại tố tụng có tranh tụng trong tố tụng hình
sự, tranh tụng trong tố tụng dân sự và tranh tụng trong tố tụng hành chính.
Tương ứng với các loại phiên tịa có tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và tranh
luận tại phiên tòa phúc thẩm. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hành chính là
một loại tranh tụng trong tố tụng, bao hàm cả hoạt động tranh tụng trước khi
mở phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa và tranh tụng sau khi có quyết định giải
quyết vụ án hành chính. Vì tố tụng hành chính là q trình giải quyết vụ án
hành chính cho nên tranh tụng trong tố tụng hành chính là tranh tụng trong
q trình giải quyết vụ án hành chính có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết

thúc.
2


Có thể hiểu tranh tụng trong tố tụng hành chính theo nghĩa sau: là sự đối đáp,
đấu tranh giữa các bên đương sự với nhau về chứng cứ, yêu cầu và phản đối
yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án
rằng yêu cầu và phản đối u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Như
vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì q trình tranh tụng này sẽ bao gồm tồn bộ các
giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.2 Chủ thể tranh tụng trong tố tụng hành chính
Chủ thể tranh tụng trong tố tụng hành chính được hiểu là: Các bên trong vụ
án hành chính gồm người khởi kiện có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được coi
là đương sự thuộc bên khởi kiện hoặc bên bị kiện. Trong một số vụ án cụ thể
cịn có sự xuất hiện của người làm chứng, vai trị của họ được thể hiện qua lời
trình bày được xem là chứng cứ mà họ cung cấp để góp phần xác định sự thật
vụ án. Các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, quan điểm cá
nhân, căn cứ pháp lý để chứng minh, lập luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trước Tịa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
hành chính quy định.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương
sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 Luật Tố tụng
hành chính thì những người sau đây được Tòa án chấp nhận làm người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Luật sư tham gia tố tụng theo quy
định của pháp luật về trợ giúp pháp lý; Cơng dân Việt Nam có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích,
khơng thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục; không phải là cán bộ, công chức trong các

ngành Tịa án, Kiểm sát và cơng chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công
an.
3


Tịa án là trọng tài và có quyền áp dụng những quy định của pháp luật để
phân xử các khiếu kiện giữa các bên đương sự trong vụ án hành chính. Nhiệm
vụ của Tịa án tiếp nhận chứng cứ của vụ án do các bên đương sự cung cấp và
hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án, điều khiển
phiên tòa. Trên cơ sở việc xem xét, đánh giá chứng cứ, Tòa án thể hiện quyết
định về từng vấn đề phải giải quyết trong phần Quyết định của bản án và
công bố công khai tại phiên tòa.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, tham gia
phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát không phải là chủ thể tranh tụng trong tố
tụng hành chính chỉ là chủ thể thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp. Khi tham gia các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm, Kiểm sát viên chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án, các bên đương sự và những
người tham gia tố tụng khác.
1.3 Đặc điểm của tranh tụng trong tố tụng hành chính
Việc tranh tụng khơng chỉ có trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự mà có cả
trong tố tụng hành chính. Tuy nhiên, mỗi loại tố tụng, tranh tụng được thể
hiện ở những mức độ khác nhau, có những đặc điểm riêng biệt. Nếu như
trong tố tụng hình sự, chủ thể của tranh tụng là Viện kiểm sát và Luật sư thì
trong tố tụng hành chính chủ thể của tranh tụng là các bên trong vụ án gồm
người khởi kiện và người bị kiện. Bản chất của tranh luận trong tố tụng hành
chính là sự thể hiện chính kiến của từng bên, dựa trên những chứng cứ thu
thập được trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng
hành chính, cịn tranh luận tại phiên tịa chỉ là hình thức tố tụng, mà trong đó

Tịa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công

4


khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định
phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.
Tranh tụng trong tố tụng hành chính bao gồm những nội dung sau đây:
- Việc tranh tụng được bảo đảm thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án
cho đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh
tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm;
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng,
đặc biệt là quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
+ Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong các trường hợp xét thấy
cần thiết hoặc yêu cầu của đương sự theo quy định của Luật tố tụng hành
chính năm 2015 thì Tịa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.
+ Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có
quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án
hành chính; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá
chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Luật tố
tụng hành chính. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy
định của Luật tố tụng hành chính, nếu khơng thực hiện các nghĩa vụ đó thì
phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.
- Qua việc điều tra chính thức, cơng khai tại phiên tịa, mỗi bên tham gia

tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng
minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền
5


và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai
đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để
giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác nhau,
phản biện của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tịa án
khách quan hơn, tồn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán
quyết.
- Đưa ra ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do nhiều
lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật
chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà
pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Nội
dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm
việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm
của mình.

6


CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
2.1 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định.
Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền
thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tịa án thụ lý vụ án
hành chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao

nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ
và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định.
Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ,
khách quan, tồn diện, cơng khai, trừ trường hợp khơng được công khai theo
quy định (khoản 2 Điều 96 Luật Tố tụng hành chính 2015). Tịa án điều hầnh
việc tranh tụng để ra bản án, quyết định.
2.2 Nguyên tắc tranh tụng
“Tranh” là tranh luận, bàn cãi, đối đáp qua lại…giữa các bên để khẳng định
quan điểm của mình là đúng. “Tụng” là trong tố tụng. Theo cách hiểu nầy thì
“tranh tụng” là tranh cãi tại tòa án theo các nguyên tắc quy định trong luật tố
tụng để tòa án xác định sự thật và có cái nhìn khách quan về vụ việc để đưa ra
phán quyết cho chính xác.
Đáp ứng địi hỏi thực tiễn và thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 quy định vấn đề này tại Điều 18.
Thứ nhất, về chủ thể tranh tụng chỉ bao gồm đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Viện kiểm sát không phải là một bên tranh
tụng (không tham gia tranh tụng như trong tố tụng hình sự).
7


Thứ hai, về phạm vi tranh tụng: Tất cả các vấn đề nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Việc tranh tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án, các bên
đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ và nghĩa
vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Việc tranh tụng kết
thúc khi vụ án đã được giải quyết, Tịa án đình chỉ xét xử vụ án hoặc bản án
của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Đối với các vụ xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm, quyền tranh tụng vẫn được bảo đảm cho đến khi có
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ ba, nội dung và phương thức tranh tụng: Tranh tụng tại phiên tịa bao

gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập
luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, về quan hệ tranh chấp và pháp
luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự. Tranh tụng ngồi phiên tịa
thơng qua các hoạt động thu thập, giao nộp chứng cứ tài liệu, quyền yêu cầu
được tiếp cận tài liệu. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự
điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
Thứ tư, biểu hiện của tranh tụng: Tranh tụng trong tố tụng hành chính được
Luật Tố tụng hành chính năm 2015, quy định thành nguyên tắc nên thủ tục
“đối thoại” đã được quy định là bắt buộc và tuân theo các nguyên tắc được
quy định tại Điều 134 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 trừ những vụ án
trước khơng đối thoại được theo Điều 135 Luật Tố tụng hành chính năm
2015. Ngồi ra, Tịa án cịn phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại các điều: Điều 136, 137, 139
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và xử lý kết quả đối thoại tại Điều 140.
2.3 Quyền tranh tụng trong tố tụng hành chính
2.3.1 Tranh tụng phát sinh từ thời điểm thụ lý vụ án
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,
có trách nhiệm: Lập hồ sơ vụ án; Xác định tư cách đương sự, người tham gia
8


tố tụng khác; Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật
cần áp dụng; Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án; Xác minh, thu
thập chứng cứ theo quy định của Luật tố tụng hành chính; Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ và hịa giải theo quy định của Luật tố tụng hành chính, trừ
trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; Thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điểm mới cơ bản của Luật tố tụng hành chính năm 2015 ở giai đoạn chuẩn bị
xét xử là: Thẩm phán có trách nhiệm tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao

nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; đây là giai đoạn rất quan trọng
trong quá trình xây dựng hồ sơ, Thẩm phán có trách nhiệm xem xét các yêu
cầu của những người tham gia tố tụng: Yêu cầu khởi kiện; yêu cầu phản tố và
yêu cầu độc lập. Tương ứng với yêu cầu đó Thẩm phán có trách nhiệm yêu
cầu người tham gia tố tụng cung cấp tồn bộ các tài liệu mà họ có, những tài
liệu họ yêu cầu tòa án thu thập và những tài liệu khác có liên quan, hoặc xét
thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Thẩm phán tự mình thu thập tài
liệu, chứng cứ.
- Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ,
Thẩm phán chủ trì phiên họp có nhiệm vụ kiểm tra lại sự có mặt và căn
cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền
và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Một
trong các quyền cơ bản chủ tọa phải giải thích cho người tham gia tố
tụng biết là đương sự phải giao nộp những chứng cứ mà đương sự có
hoặc đương sự thu thập được, yêu cầu tòa án thu thập; nếu sau giai
đoạn này họ mới xuất trình chứng cứ mà tịa án đã u cầu đương sự
giao nộp tại phiên họp mà đương sự không chịu giao nộp thì chỉ được
xem xét, đánh giá chứng cứ đó trên cơ sở họ phải chứng minh lý do
giao nộp chậm.
9


- Sau khi lập biên bản giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán
tổ chức phiên đối thoại để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án. Trách nhiệm cũng như kỹ năng của Thẩm phán trong quá
trình đối thoại là rất quan trọng; Thẩm phán phải tạo niềm tin để người
tham gia tố tụng tin tưởng vào Tòa án; tạo điều kiện để những người
tham gia tố tụng trình bày tâm tư, nguyện vọng và u cầu chính đáng
của mình.
Có thể thấy, khác với tranh tụng tại phiên tòa, tranh tụng từ thời điểm thụ lý

vụ án cho đến trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử được thể hiện rõ qua các
hoạt động thu thập, giao nộp chứng cứ tài liệu, quyền yêu cầu được tiếp cận
tài liệu. Được thực hiện bởi ý chí của các bên trong vụ án, trên tinh thần tự
nguyện nhằm chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mình trong vụ
án.
2.3.2 Tranh tụng tại phiên tịa
Tranh tụng là hình thức tố tụng trong giải quyết các vụ án. Phạm vi và nội
dung tranh tụng có khác nhau trong các hệ thống pháp luật và các loại án.
Thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa và Tòa án ra phán quyết trên cơ sở kết
quả tranh tụng tại phiên tòa là đảm bảo quan trọng cho việc xác định sự thật
khách quan của vụ án, giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan. Tòa an điều
hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh
tụng để ra bản án, quyết định.
Nôi dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa thể hiện:
- Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp,
trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết
của vụ án hành chính, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp
dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án;

10


- Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ
tọa phiên tòa; Chủ tọa phiên tịa khơng được hạn chế thời gian tranh
tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý
kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến khơng có
liên quan đến vụ án. Bắt đầu vào thủ tục tranh tụng tại phiên tịa, Hội
đồng xét xử lần lượt nghe lời trình bày của Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày về yêu cầu và chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.

Người khởi kiện có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị kiện trình bày ý kiến của người bị kiện đối
với yêu cầu của người khởi kiện; yêu cầu phản tố, đề nghị của người bị
kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ
và hợp pháp. Người bị kiện có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đối với yêu cầu, đề nghị của người khởi kiện, người bị kiện; yêu cầu
độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Người bị kiện có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của
người khởi kiện, người bị kiện; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu,
đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có quyền bổ sung ý kiến.
- Về thứ tự hỏi là sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, theo sự điều hành của
chủ tọa phiên tòa, thứ tự hỏi của từng người được thực hiện như sau:
+ Người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện hỏi trước, tiếp đến người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi
11


ích hợp pháp của người bị kiện, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc,
không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh
dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng.
+ Người tham gia tố tụng khác;

+ Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;
+ Kiểm sát viên tham gia phiên tịa.
- Trong q trình hỏi, Hội đồng xét xử mà đặc biệt vai trò của Thẩm
phán chủ tọa là người chủ trì, điều khiển đảm bảo phiên tòa diễn ra một
cách trật tự. Hội đồng xét xử phải khách quan tập trung lắng nghe lời
trình bày của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
- Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận
tại phiên tịa, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ kiện
hành chính, thơng qua phần tranh luận giúp Hội đồng xét xử có những
đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn
cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy
định của Luật Tố tụng hành chính 2015, dưới sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tịa, Chủ tọa phiên tịa khơng được hạn chế thời gian tranh
luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Chủ
tọa phiên tòa là người điều khiển việc tranh luận, để việc tranh luận có
chất lượng thì chủ tọa phải xác định những vấn đề mà các bên cần
tranh luận với nhau, hướng việc tranh luận vào trọng tâm, vào những
điều cần phải làm rõ để xác định sự thật, xác định được quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên. Nếu qua tranh luận thấy việc thu thập tài
liệu, đánh giá chứng cứ vụ án chưa tồn diện hoặc vì lý do sức khỏe,
trở ngại khách quan của những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng thì chủ tọa có thể tạm ngưng phiên tịa để bổ sung, nếu cần thấy
12


phải xem xét thêm vật chứng, xét hỏi hỏi thêm thì Hội đồng xét xử có
thể quyết định trở lại phần thủ tục hỏi và sau đó lại tiếp tục tranh luận
bổ sung.
Việc quy định Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ và

lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử vụ án
hành chính đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia tranh tụng. Quy định này thực sự đảm bảo cho đương sự quyền và
nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa
án, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét xử nhằm xây dựng nền tư
pháp vững mạnh, trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền
con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, cá nhân, tổ chức.

13


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CỦA TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH
3.1 Thực trạng của việc tranh tụng trong tố tụng hành chính
Thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua cho thấy, khi chưa có quy định cụ
thể trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ
được hiểu là việc tranh luận tại phiên tòa và chỉ thể hiện trong những vụ án có
Luật sư tham gia hoặc trong những vụ án mà đương sự có trình độ hiểu biết
pháp luật nhất định, hoặc bên bị kiện cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự
việc liên quan đến khiếu kiện tham gia phiên tòa. Những vụ án mà người khởi
kiện có điều kiện kinh tế khó khăn, khơng th Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho mình hoặc những vụ án mà bên bị kiện ủy quyền cho người
không phải là người quản lý, điều hành lĩnh vực liên quan đến khiếu kiện thì
việc tranh tụng tại phiên tịa chưa bảo đảm.
Mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tịa là nhằm làm sáng tỏ
những tình tiết khách quan của vụ kiện hành chính, nhất là các tình tiết mà
những người tham gia tranh luận cịn có ý kiến khác nhau. Đồng thời, thông
qua phần tranh luận để giúp Hội đồng xét xử sẽ có những đánh giá, nhận định
đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án

hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục.
Tuy nhiên, về vị trí xã hội thì người tham gia tố tụng cũng khác nhau, trong
đó người khởi kiện “yếu thế” hơn so với người bị kiện, vì người bị kiện là
người có thẩm quyền ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cịn
người khởi kiện là người là người phục tùng, chấp hành quyết định hoặc hành
vi hành chính. Đây cũng là nội dung khác biệt so với tố tụng dân sự, vì
nguyên đơn và bị đơn khi tham gia quan hệ dân sự là bình đẳng, tự nguyện.
Xuất phát từ sự khác biệt nêu trên, nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hành
chính, phần tranh luận thường đưa ra rất ngắn, trong trường hợp có luật sư
14


tham gia thì chủ yếu là phát biểu của luật sư, nên chất lượng của phần tranh
luận rất hạn chế, khơng đạt được ý nghĩa làm sáng tỏ các tình tiết khách qaun
của vụ án, dẫn đến việc chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng xét xử.
Tại phiên tòa, trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ
do các bên xuất trình, Tịa sẽ phải chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự
thật khách quan. Có quan điểm cho rằng, đây là điểm tích cực trong tố tụng tư
pháp. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng nó có thể tạo ra sự thiếu khách
quan, vơ tư của Tịa. Mặt khác, nó cũng sẽ tạo cảm giác rằng trách nhiệm
chứng minh thuộc về Tịa án chứ khơng thuộc các đương sự.
Nếu trong tố tụng hình sự, chủ thể của tranh tụng là Viện kiểm sát và Luật sư
thì trong tố tụng hành chính, chủ thể của tranh tụng là các bên trong vụ án
gồm người khởi kiện và người bị kiện. Điểm chung của các loại tố tụng nói
trên là vai trị trọng tài của Hội đồng xét xử. Trong quá trình tranh tụng, Hội
đồng xét xử cầm cân nảy mực, phân định để đưa ra phán xét cuối cùng sau
khi đã nghe tranh luận của các bên. Sự công tâm của Hội đồng xét xử phụ
thuộc vào Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán và Hội thẩm phải là những
người có trình độ, năng lực nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, thường
xuyên được bồi dưỡng về pháp luật và kĩ năng nghiệp vụ mới đảm bảo tốt

công tác xét xử và điều khiển tranh tụng.
3.2 Những hạn chế, bất cập
Thông qua những nội dung đã được đề cập về lý luận và thực trạng đối với
quy định về tranh tụng của Luật tố tụng hành chính hiện hành, cho thấy đối
với vấn đề tranh tụng cả về lý luận và thực trạng đều thể hiện một số điểm
hạn chế bất cập sau đây:
Thứ nhất, Luật Tố tụng hành chính 2015 tại Điều 10 có ghi nhận “cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có nghĩa vụ cung
cấp đầy đủ và đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý
15


cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân đân theo quy định của Luật này
khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó; trường hợp khơng cung cấp được thì phải thơng báo bằng
văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết”. Quy định
trên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tranh tụng giữa các chủ thể
tham gia tố tụng, tuy nhiên thực tế áp dụng còn nhiều bất cập, vì việc thu thập
chứng cứ cịn phụ thuộc nhiều vào thiện chí của cơ qaun tổ chức đang lưu
giữ tài liệu chứng cứ, bởi Luật Tố tụng hành chính 2015 chưa có cơ chế, chế
tài hữu hiệu để thực hiện quyền của đương sự cũng như của Tòa án, Viện
kiểm sát.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật tổ tung Hành chính năm
2015, "trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày đương sự giao nộp tài liệu,
chứng cứ cho Tòa án thi họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc họ
đã giao nộp tài liệu, chứng cử". Tuy nhiên, do không quy định chế tài đối với
việc không thực hiện nghĩa vụ thông báo, nên trong trưởng hợp đương sự
không thông báo cho đương sự khác biết, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn
cho dương sự là họ có nghĩa vụ thông báo cho các đương sự và yêu cầu
đương sự thực hiện nghĩa vụ đó để đương sự khác liên hệ với Tòa án thực

hiện quyền tiếp cận tài liệu, chúng cứ. Trường hợp có tài liệu, chứng cứ vẫn
chưa được thơng báo cho đương sự thì Tịa ăn là chủ thể thực hiện việc thông
báo cho bên kia biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ đó.
Thứ ba, số vụ án hành chính có sự tham gia của Luật sự với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chiếm tỷ lệ không cao nên
chất lượng tranh tụng không cao. Hầu như rất ít trường hợp có người tham gia
tố tung tham dự phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tịa tái thẩm xét xử vụ an
hành chính. Nhiều trường hợp, đường sự chỉ phát biểu tranh luận đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân của tình trạng này. là
số lượng Luật sư của nước ta cịn ít lại tập trung chủ yếu ở các đô thị, phi dịch
16


vụ thuê luật sư quả cao. Nhà nước chua có cơ chế hữu hiệu kiểm sốt sự
khơng tương xứng giữa giá trị và chất lượng dịch vụ. giá cả dịch vụ pháp lý
của luật sư.
Thứ tư, với trình tự xét hỏi như quy định của Luật tổ tung hành chính hiện
hành, thi quyền chủ động xét hỏi thuộc về Tòa án. Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa để kiểm sát sự tuân theo pháp huất của Tòa án và những người tham
gia tố tụng nhưng vẫn có quyền xét hỏi (Luật tố tung hành chính chỉ quy định
trường hợp Kiểm sát viên hỏi đương sự khi tham gia phiên tòa nhưng không
quy định là không được hỏi về nội dung vụ kiên). Do vậy, không loại trừ
trường hợp Thẩm phân, Hội thẩm và Kiểm sát viên đặt những câu hỏi nhằm
tìm câu trả lời của đương sự phục vụ cho việc giải quyết vụ án theo sự thiên
vị của mình.
Những quy định về thủ tục xét hồi tại phiên tòa cho thấy sau khi xét hỏi, nội
dung vụ án đã được làm sáng tỏ. Ví dụ Điều 176 quy định về nghe lời trình
bày của đương sự theo trình tự các bên trình bày yêu cầu, đề nghị của mình
và chứng cử để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp
pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc cơng bố các tài liệu của vụ

án, nghe băng, đĩa ghi hình, xem xét vật chứng, hỏi người giám đnh. Đằng
quy định này, quá trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội dung vụ án
không những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đường sự cũng đã có dịp
đối đáp với những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của
Luật tổ tung hành chính, thị qua phần xét hỏi. nội dung vụ án đã đầy đủ nên
phần tranh luận khơng cịn nội dung và chỉ là sự lập lại những nội dung đã
trình bày ở phân xét hội. Mặt khác, như đã trình bày, việc tranh luận tại phiên
tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi. Có những vụ án hành chính, việc
xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài (một buổi, một hoặc vài ngày)
đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại quên mất những nội

17


dung và kết quả xét hỏi tùng vấn đề vì họ không phải là những người am hiểu
về luật.

18


KẾT LUẬN
Quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài "Nguyên tắc tranh tụng trong tố tung
hành chính cho phép tác giả rút ra một số kết luận sau đây.
Thứ nhất, khái niệm nguyên tác tranh tung trong tổ tung hành chính trong đề
tài tiểu hn góp phần làm sáng tỏ bản chất, phạm vi và nội dung thủ tục tranh
tung trong tố tung hành chính và phân biết sự khác nhau giữa hai khái niệm
tranh tung và tranh luận.
Thứ hai, hoạt động của Hội đồng xét xử và các bên trong thủ tục tranh tụng
tại phiên tòa được tiến hành với sự tuân thủ các nguyên tắc, trình tư và thủ tục
được Luật TTHC năm 2015 quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm sự binh đẳng

giữa các bên tham gia tranh tụng
Thứ ba, tiểu luận đã đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Với tư cách là trong tài. Hội đồng xét
xử phải bảo đảm sự bình đẳng của các bên và hướng cho hoạt động của thủ
tục tranh tụng của các bên tiến hành theo đảng trình tự, thủ tục mà pháp luật
quy định.
Thứ tư, tiểu luận đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tranh
tụng trong nô tục (các quy định của pháp luật, trình độ chun mơn, kỹ năng
nghề nghiệp của các chủ thể (Thẩm phán. Hội thẩm nhân dân, Người báo
chùa) trong thủ tục tranh tụng và các yếu tố khác đạo đức nghề nghiệp, tinh
thần trách nhiệm của họ.
Thứ năm, mặc dù các quy định trong Bộ luật tổ tung hành chính năm 2015 đã
có nhiều tiến bỏ hơn, tuy nhiên khi áp dụng văn thức tiến vẫn còn nhiều
vương mất

19



×