Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả trong công tác quản lý hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 64 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương I: Cơ sở lý luận chung về hệ thống công viên cây xanh 5
I. Quản lý Đô thị và cơ sở hạ tầng Đô thị 5
1. Quản lý đô thị 5
2. Cơ sở hạ tầng đô thị 16
II. Khái quát về hệ thống công viên cây xanh đô thị 20
1. Nhiệm vụ, chức năng của hệ thống công viên cây xanh 20
2. Bộ phận cấu thành của hệ thống công viên cây xanh 21
3. Loại hình công viên cây xanh 23
III. Quản lý hệ thống công viên cây xanh đô thị 24
1. Sự cần thiết khách quan quản lý hệ thống công viên cây xanh 24
2. Mục tiêu của quản lý đối với hệ thống công viên cây xanh 25
3. Nhiệm vụ của tổ chức quản lý hệ thống công viên cây xanh 26
IV. Một số chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả trong công tác
quản lý hệ thống công viên cây xanh 27
1. Chỉ tiêu đánh giá 27
2. Phương pháp đánh giá 28
Chương II: Thực trạng hệ thống công viên cây xanh và công tác quản lý
hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 30
I. Giới thiệu chung về thị xã Bắc Ninh 30
1. Đặc điểm tự nhiên 30
2. Đặc điểm kinh tế xã hội 32
II. Thực trạng hệ thống công viên cây xanh và công tác quản lý hệ thống
công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 34
1. Tình trạng của hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 34
2. Thực trạng công tác quản lý hệ thống công viên cây xanh ở thị
xã Bắc Ninh 40
III. Đánh giá hiệu quả công tác quản lý hệ thống công viên cây xanh 51
1. Đánh giá hiệu quả 51
2. Những nguyên nhân gây ra tồn tại 53


Chương III: Một số biện pháp nhằm phát huy hiệu quả công tác quản lý
hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 55
I. Cơ sở 55
1. Định hướng phát triển hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 55
2. Cơ sở thực tiễn 57
II. Một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả trong công tác quản lý hệ
thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh 57
1. Quản lý nhà nước 57
2. Quản lý của công ty 59
KẾT LUẬN 61
PHỤ LỤC 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
LỜI MỞ ĐẦU
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng, cấp bách và lâu dài
mang tính toàn cầu. Tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra không chỉ ảnh
hưởng đến một vùng, một quốc gia mà cả hành tinh. Do vậy nhất thiết công
tác bảo vệ môi trường là của toàn xã hội và của mỗi người dân.
Ô nhiễm môi trường không chỉ tác động đến trực tiếp đời sống hiện tại
mà còn tác động đến cả tương lai. Quá trình đô thị hóa và sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thị xã
Bắc Ninh đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường rất đáng báo động, xảy
ra ở cả môi trường nước, đất và không khí.
Thị xã Bắc Ninh với dân số gần 200.000 người, diện tích 2437,67ha
đang diễn ra quá trình CNH - HĐH mạnh mẽ. Với mong muốn hạn chế
những tác hại do môi trường gây nên cũng như hy vọng cho người dân thị xã
có được những nơi vui chơi giải trí lành mạnh, bổ ích tạo cho người dân có
được môi trường sống trong sạch và an toàn, em đã chọn đề tài nghiên cứu
“Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả trong công
tác quản lý hệ thống công viên cây xanh ở thị xã Bắc Ninh” trong thời
gian thực tập tại Công ty Môi trường và Công trình Đô thị Bắc Ninh.

Em mong sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô giáo. Em
xin chân thành cảm ơn các thầy cô.
Chuyên đề thực tập này có bố cục (ngoài lời mở đầu và kết luận) gồm
3 chương chính:
 Chương I: Cơ sở lý luận chung về hệ thống quản
lý hệ thống công viên cây xanh.
 Chương II: Thực trạng hệ thống công viên cây
xanh và công tác quản lý hệ thống công viên cây
xanh ở Thị xã Bắc Ninh.
 Chương III: Một số biện pháp nhằm phát huy hiệu
quả công tác quản lý hệ thống công viên cây xanh ở
thị xã Bắc Ninh.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HỆ THỐNG
CÔNG VIÊN CÂY XANH
I. Quản lý Đô thị và cơ sở hạ tầng Đô thị
1. Quản lý Đô thị
1.1 Đô thị
a. Khái niệm Đô thị:
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động
phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung
tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội
của cả nước, của một vùng miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hay
một vùng trong tỉnh, trong huyện.
Theo khái niệm này cần chú ý:
- Trung tâm tổng hợp: là những đô thị trung tâm tổng hợp, khi chúng
có vai trò và chức năng nhiều mặt về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…
- Trung tâm chuyên nghành: những đô thị là trung tâm chuyên ngành
khi chúng có vai trò và chức năng chủ yếu về một số mặt nào đó như: công
nghiệp, du lịch…

- Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng hay của một tỉnh
cũng có thể là trung tâm chuyên ngành của một vùng liên tỉnh hay cả nước.
Do đó việc xác định trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành còn phải căn cứ
vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định.
- Lãnh thổ đô thị gồm: nội thị và ngoại ô. Các đơn vị hành chính của
nội thị gồm: Quận và Phường, các đơn vị hành chính của ngoại ô bao gồm:
Huyện và Xã.
- Quy mô dân số: quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ
hơn 4000 người. Riêng ở vùng núi và vùng cao quy mô dân số tối thiểu của
một đô thị lớn hơn 2000 người. Quy mô dân số đô thị chỉ được tính trong
nội thị.
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp: tỷ lệ này chỉ được tính trong nội thị,
tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của một đô thị không nhỏ hơn 60%.
- Cơ sở hạ tầng đô thị: Cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm hạ tầng kỹ thuật
(giao thông, thông tin liên lạc, cấp thoát nước, xử lý rác thải vệ sinh môi
trường) và hạ tầng xã hội (nhà ở, các công trình thương nghiệp, dịch vụ, ăn
uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học,
công viên cây xanh mặt nước và các công trình phục vụ lợi ích công cộng
khác).
Cơ sở hạ tầng đô thị phản ánh trình độ phát triển, mức độ tiện nghi
sinh hoạt của người dân đô thị và được xác định theo các chỉ tiêu cơ bản sau:
- Cấp nước sinh hoạt: Lít/người/ngày.
- Cấp điện sinh hoạt: KWh/người.
- Mật độ Km đường: Km/Km
2
.
- Tỷ lệ tầng cao trung bình.
- Mật độ dân cư: người/Km
2
.

b. Đặc trưng của đô thị
Đô thị là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng và cả nước, có
vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế.
- Các vấn đề xã hội: Tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, thiên tai, sự
cố, hoả hoạn…
- Các vấn đề về kinh tế: cung cấp các dịch vụ công cộng, đảm bảo
công ăn việc làm, giao thông đi lại.
- Cơ sở hạ tầng đô thị hoàn chỉnh hoặc đã được quy hoạch và hoàn
chỉnh một phần, mật độ các công trình cao là đặc trưng cơ bản của đô thị. Cơ
sở hạ tầng, mật độ dân số cao và quy mô dân số là những yếu tố tạo ra
những lợi thế, hiệu quả kinh tế về tính tập trung của đô thị.
- Cơ cấu lao động, sự phân công lao động theo hướng chuyên môn
hoá cao là tiền đề cơ bản của việc nâng cao năng xuất lao động.
c. Mô hình cơ bản của đô thị
- Mô hình là sóng điện:
Mô hình này do nhà xã hội học Ernest Burgess (Chicago-Mỹ) đề xuất
năm 1925, theo mô hình này thành phố chỉ có một trung tâm và 5 vùng đồng
tâm (trừ trường hợp nó bị giới hạn các điều kiện địa lý).
Đặc điểm của mô hình đô thị là tất cả các khu vực đều có xu hướng
mở rộng (các khu vực không bị bó hẹp, đứng im). Dân cư thuộc các tầng lớp
có thu nhập cao và các khu công nghiệp có xu hướng chuyển ra khỏi thành
phố.
- Mô hình thành phố đa cực:
Mô hình này do 2 nhà địa lý Harris và Ullman đưa ra năm 1945, mô
hình chủ yếu tính đến các dạng đô thị mới phát sinh do sự phát triển của các
phương tiện giao thông.
Đặc điểm của mô hình này là linh hoạt và có tính đến vị trí địa hình.
Cơ sở xây dựng mô hình là thành phố có cơ cấu kiểu tế bào, cho phép xây
dựng nhiều trung tâm.
- Mô hình phát triển theo khu vực:

Mô hình này do chuyên gia địa chính Homer Hoyt đưa ra năm 1929
mô hình này có tính đến các dạng đô thị phát triển với sự hiện đại hoá của
các phương tiện giao thông và nhiều thành phố phát triển theo kiểu khu phố.
Đặc điểm của mô hình: từ trung tâm thành phố được mở rộng, thành
phố bao gồm nhiều khu vực, sự tăng trưởng hướng vào vùng còn trống, sự
phát triển nhanh theo các trục giao thông làm cho thành phố có hình sao.
Có thể nói đây là mô hình hoàn chỉnh nhất vì mô hình này có tính đến
các trục giao thông lớn.
d. Phân loại Đô thị:
* Căn cứ để phân loại đô thị:
- Vai trò chức năng đô thị trong hệ thống đô thị.
- Quy mô dân số, mật độ dân cư, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp.
- Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Trường hợp cá biệt: Khi đối chiếu các chỉ tiêu cụ thể của một đô thị
với các chỉ tiêu phân loại cần chú ý các trường hợp cá biệt sau:
-Trường hợp chỉ có một số chỉ tiêu đạt đúng tiêu chuẩn như quy định,
thì việc xếp loại đô thị có thể căn cứ ưu tiên vào ba chỉ tiêu cơ bản là: vai trò
chức năng, quy mô dân số và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của đô thị đó.
-Trường hợp chỉ tiêu quy mô dân số và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
hơi thấp so với chỉ tiêu quy định, thì việc xếp loại đô thị có thể căn cứ chủ
yếu vào chỉ tiêu chức năng của đô thị, nhưng phải xem xét triển vọng của đô
thị có điều kiện cần thiết để đạt được chỉ tiêu.
* Thực tế ở Việt Nam hiện nay đô thị được phân chia làm 5 loại.
- Đô thị loại đặc biệt :
Đô thị loại đặc biệt phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Thủ đô hoặc đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế văn
hoá, khoa học - kỹ thuật, đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao
lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 90%

trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng được xây dựng về cơ bản đồng bộ và hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 1,5 triệu người trở lên.
+ Mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/Km
2
trở lên.
- Đô thị loại I
Đô thị loại I cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và
quốc tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh
thổ liên tỉnh hoặc của cả nước.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 85%
trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng được xây dựng về cơ bản đồng bộ và hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 50 vạn người trở lên.
+ Mật độ dân số bình quân từ 12.000 người/Km
2
trở lên.
- Đô thị loại II
Đô thị loại II cần đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá, khoa
học kỹ thuật, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh
hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của một vùng
lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80%
trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng
bộ và hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên.

+ Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/Km
2
trở lên.
- Đô thị loại III
Đô thị loại III phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh hoặc vùng liên
tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một
số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 75%
trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng được xây dựng từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 10 vạn người trở lên.
+ Mật độ dân số bình quân từ 8.000 người/Km
2
trở lên.
- Đô thị loại IV
Đô thị loại IV phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông,
giao lưu trong tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một
tỉnh hoặc một vùng trong tỉnh.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 70%
trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng đã hoặc đang được xây dựng từng mặt đồng bộ và
hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 5 vạn người trở lên.
+ Mật độ dân số bình quân từ 6.000 người/Km
2
trở lên.

- Đô thị loại V
Đô thị loại V phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về
chính trị, kinh tế, văn hoá và dịch vụ, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội của một huyện hoặc một cụm xã.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 65%
trở lên.
+ Có cơ sở hạ tầng đã hoặc đang được xây dựng nhưng chưa đồng bộ
và hoàn chỉnh.
+ Quy mô dân số từ 4 nghìn người trở lên.
+ Mật độ dân số bình quân từ 2.000 người/Km
2
trở lên
1.2. Quản lý đô thị
a. Khái niệm quản lý đô thị
Quản lý đô thị đã trở thành một chủ đề rất quan trọng đối với các
Chính phủ và các tổ chức phát triển quốc tế trên thế giới. Quản lý theo nghĩa
rộng là làm cho các công việc được hoàn thành thông qua các nhân sự. Quản
lý liên quan đến việc ra quyết định hoặc lựa chon cách thức kế hoạch tổ
chức, bảo vệ và sử dụng các nguồn lực có được để sản xuất hàng hoá và dịch
vụ phục vụ cho việc tiêu thụ, thương mại hoặc để xây dựng vốn và tài sản
phát triển trong tương lai.
Quản lý đô thị là một khoa học tổng hợp được xây dựng của nhiều
khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống các chính sách, cơ chế, biện pháp
và phương tiện được chính quyền nhà nước các cấp sử dụng để tạo điều kiện
và kiểm soát quá trình tăng trưởng, phát triển đô thị, nhằm thực hiện một
cách có hiệu quả các mục tiêu dự kiến.
Quản lý đô thị bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là sản phẩm
kinh doanh, dịch vụ; quy hoạch kiến trúc đô thị; sử dụng đất đai; đầu tư vào
phát triển nhà; cơ sở hạ tầng công cộng; tài chính hành chính; Môi trường đô

thị, an ninh trật tự xã hội…
Trên góc độ quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước đối với đô thị là sự
can thiệp bằng quyền lực của mình( bằng pháp luật, thông qua pháp luật)
vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị nhằm phát triển đô thị
theo định hướng nhất định.
Nhà nước, đại diện là các chính quyền đô thị thông qua các tổ chức
dưới quyền như các cơ sở, ban ngành chức năng có vai trò quản lý tất cả các
lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị, truyền bá những tư tưởng hiện đại và lối
sống văn minh đô thị cho cộng đồng dân cư để giúp họ hướng tới một mục
đích chung của xã hội.
Quản lý đô thị liên quan đến việc quản lý khối Nhà nước và khối tư
nhân. Mục tiêu chung của quản lý đô thị là nâng cao hiệu quả và tính hợp lý
trong quá trình sử dụng các nguồn lực của đô thị (con người, kỹ thuật, vật
liệu, thông tin, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế của sản suất).
Cụ thể là:
- Xây dựng môi trường vật thể đô thị, gồm cơ sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng, cảnh quan đô thị, kế hoạch và pháp luật đáp ứng các nhu cầu
chức năng của đô thị và các cư dân sống và làm việc trong đô thị đó.
- Nâng cao chất lượng và sự hoạt động một cách tổng thể của đô thị,
đảm bảo cho các thị trường đô thị (nhà, đất, vốn, lao động…) hoạt động hiệu
quả.
b. Vai trò của Nhà nước trong quản lý đô thị
Vai trò của chính quyền đô thị trong việc quản lý và cung cấp các dịch
vụ và phát triển đô thị phục vụ các lợi ích cộng đồng, khuyến kích các hoạt
động mang lại lợi ích cho cộng đồng và tạo ra sự tăng trưởng đô thị, thông
tin nắm vững tình hình phát triển đô thị để đề ra những quyết định đúng đắn
trong quản lý và phát triển đô thị.
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của chính quyền đô thị ở các cấp
đều đã thay đổi, Nhà nước không còn là nguồn duy nhất sản xuất và cung
cấp các dịch vụ đô thị. Nhà nước đảm nhận những vai trò mới trong việc

phát triển cộng đồng, kinh tế và xã hội bền vững.
c. Đặc trưng của quản lý đô thị.
Quản lý đô thị là khoa học về quản lý: Những cơ sở khoa học của
quản lý đô thị được xây dựng trên cơ sở khoa học quản lý. Công tác quản lý
đô thị là khâu quyết định cho việc thực hiện định hướng phát triển đô thị.
Quản lý đô thị không tách rời quản lý kinh tế quốc dân: Đô thị là một
bộ phận của nền kinh tế, các chính sách phát triển đô thị là một bộ phận của
chính sách phát triển kinh tế quốc dân.
Quản lý đô thị là một nghề: Để quản lý đô thị có hiệu quả, cán bộ
quản lý đô thị cần được đào tạo và hiểu biết về đô thị nói chung, đô thị mình
đang tham gia quản lý, muốn vậy cán bộ quản lý cần có kinh nghiệm trong
công việc, coi đó là nghề nghiệp của mình.
d. Các chức năng của quản lý đô thị
Chức năng quản lý đô thị theo quá trình quản lý:
- Chức năng kế hoạch
- Chức năng tổ chức
- Chức năng chỉ đạo phối hợp
- Chức năng kỉêm soát
Chức năng quản lý đô thị theo các lĩnh vực quản lý:
- Quản lý kinh tế đô thị
- Quản lý xây dựng đô thị
- Quản lý đất đai và nhà ở đô thị
- Quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
- Quản lý kết cấu hạ tầng xã hội đô thị
- Quản lý dân số, lao động và việc làm đô thị
- Quản lý môi trường đô thị
Kết hợp quản lý đô thị theo quá trình và lĩnh vực
e. Các mô hình quản lý đô thị
- Mô hình quản lý đô thị lấy quản lý xã hội làm chủ đạo: Mô hình này
quan tâm đến quản lý môi trường pháp lý và các vấn đề đối ngoại: chính

quyền đô thị tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt
động, tăng khả năng cạnh tranh của các đô thị, thu hút các nguồn lực từ bên
ngoài như vốn đầu tư, công nghệ, lao động kỹ thuật.
Điều kiện vận dụng mô hình: hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trình độ
dân trí cao, hệ thống tín dụng hoàn thiện, hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh,
hệ thống thông tin, giao thông hiện đại. Mô hình này thường được áp dụng
cho các đô thị ở các nước phát triển, có tiềm lực mạnh.
Ưu điểm của mô hình này: các chủ thể kinh tế trong đô thị tự chủ sản
xuất kinh doanh, bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả cao, trật tự xã hội tốt.
Nhược điểm của mô hình: các chủ thể kinh tế tự do cạnh tranh do vậy
nguy cơ khủng hoảng và thất nghiệp cao.
- Mô hình quản lý đô thị lấy quản lý kinh tế làm chủ đạo: Chính quyền
đô thị trực tiếp quản lý kinh tế thông qua các ban ngành chức năng. Mô hình
này mang nặng tính hành chính, quản lý theo kế hoạch và chủ trương của
chính quyền cấp trên.
Điều kiện vận dụng: các nước quản lý theo kiểu nền kinh tế theo kiểu
tập trung theo kế hoạch của Chính phủ. Các nước đang phát triển có trình độ
đô thị hoá thấp, hành lang pháp lý chưa hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng thấp kém
không đồng bộ.
Ưu điểm của mô hình: tạo điều kiện phát triển của đô thị có trọng tâm
trong điều kiện tài chính hạn chế, tránh phân tán nguồn vốn.
Nhược điểm của mô hình: môi trường pháp lý bị xem nhẹ, quản lý bị
chồng chéo, cồng kềnh kém hiệu quả, thông tin bị sai lệch không đầy đủ do
qua nhiều lớp trung gian.
- Mô hình quản lý hỗn hợp: chính quyền đô thị quản lý kinh tế, xã hội
thông qua các Sở, Ban chuyên ngành thực hiện kế hoạch kết hợp thị trường,
tạo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Điều kiện vận dụng: hệ thống đô thị có cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh,
nền kinh tế chưa phát triển.
Ưu điểm mô hình: ổn định kinh tế xã hội, không gây xáo chộn lớn, có

khả năng tập trung vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng có trọng điểm.
Nhược điểm mô hình: quản lý bị chồng chéo, pháp luật lỏng lẻo.
f. Phân cấp quản lý Đô thị.
Đô thị Việt Nam bao gồm thành phố, thị xã và thị trấn, tương đương
với 3 cấp lãnh thổ là : Tỉnh, huyện và xã, cụ thể như sau :
- Các thành phố trực thuộc Trung ương.
- Các thành phố, thị xã, quận thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, bao gồm các đơn vị hành chính có cấp tương đương huyện.
- Các thị trấn, phường, bao gồm nhiều đơn vị hành chính tương
đương cấp thị xã.
2. Cơ sở hạ tầng Đô thị
2.1 Khái niệm cơ sở hạ tầng đô thị
Toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện thông tin liên lạc,
dịch vụ xã hội như: đương xá, kênh mương dẫn nước, sân bay, nhà ga xe
lửa, ô tô, cảng biển, cơ sở năng lượng, hệ thống mạng điện, đường ống dẫn
xăng, dầu, dẫn khí ga, hơi đốt, kho tàng, giao thông vận tải, giáo dục phổ
thông và chuyên nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi du lịch,
vui chơi giải trí v.v…
Như vậy, cơ sở hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt
động hạ tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội của
cộng đồng dân cư đô thị.
Trên thực tế, cơ sở hạ tầng đô thị là cơ sở nền tảng đảm bảo sự phát
triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc gia nói chung và sự phát
triển bền vững của một quốc gia nói chung.
2.2 Vai trò của cơ sở hạ tầng đô thị
Sự phát triển các ngành của kết cấu hạ tầng đô thị có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và nâng cao
hiệu quả của nó. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, vai trò của
kết cấu hạ tầng không ngừng tăng lên. Các hình thức mới về giao thông vận
tải và thông tin liên lạc xuất hiện và phát triển không những trong khuôn khổ

trong nước, mà còn trên phạm vi quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá. Do đó
hình thành kết cấu hạ tầng vật chất của sự hợp tác quốc tế mới, đó là toàn bộ
các bộ phận của các hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong
nước và nước ngoài, nhằm phục vụ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại,
cũng như các công trình và đối tượng phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc
bảo vệ môi trường xung quanh, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, đảm
bảo thông tin liên lạc của các cơ quan khí tượng thuỷ văn, các cơ quan phục
vụ xã hội và an ninh quốc phòng… nhằm mục đích phát triển dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.3 Ý nghĩa của cơ sở hạ tầng đô thị
Việc quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị một cách khoa học và
hợp lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì cơ sở hạ tầng đô thị là nền
tảng cho sự phát triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc gia. Một
quốc gia giàu mạnh, hiện đại và văn minh thì phải có một cơ sở hạ tầng
vững mạnh, hiện đại và đầy đủ.
2.4 Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị
Tuỳ theo các căn cứ, có thể phân loại cơ sở hạ tầng đô thị thành nhiều loại:
- Về tính chất ngành cơ bản có thể phân thành:
+ Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị
+Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội đô thị
+ Cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội đô thị
- Về tính chất phục vụ có thể phân :
+ Cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ sản xuất vật chất
+ Cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ về nhu cầu văn hoá tinh thần
- Về trình độ phát triển :
+ Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển cao
+ Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển trung bình
+ Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển thấp
- Về quy mô đô thị có thể phân thành:
+ Cơ sở hạ tầng siêu đô thị

+ Cơ sở hạ tầng đô thị cực lớn
+ Cơ sở hạ tầng đô thị lớn
+ Cơ sở hạ tầng đô thị trung bình
+ Cơ sở hạ tầng đô thị nhỏ
2.5 Nguyên tắc quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
a. Tập trung dân chủ và phân cấp quản lý
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và điều chỉnh để đảm bảo cung cấp
các dịch vụ cơ sở hạ tầng đô thị, bảo đảm nhu cầu của người dân và làm dịch
vụ của các doanh nghiệp, bảo đảm cho dịch vụ đó có được một cách kịp
thời, đầy đủ và chất lượng cần thiết với chi phí thích hợp. Đây là vai trò của
Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu quản lý để điều tiết nền kinh tế trong
sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Nhà nước cũng cần phải có khả năng hạn chế trong quản
lý và nguồn tài chính phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Do đó Nhà nước cũng
cần tạo điều kiện và mở rộng khả năng thích ứng cho các cơ sở tư nhân và
cộng đồng tham gia thực hiện các quyền dân chủ quản lý, thực hiện nghĩa vụ
đóng góp và thu hút mọi nguồn vốn, tăng thêm hiệu quả quản lý và phát
triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị của quốc gia.
Phân cấp quản lý là sự phân định và xếp hạng các đô thị theo quy mô,
vị trí hay tầm quan trọng của từng đô thị trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, của vùng hay của địa phương để từ đó xác định các chính sách
quản lý, đầu tư thích hợp. Giữa phân loại và phân cấp quản lý có mối quan
hệ chặt chẽ. Nguyên tắc chung là dựa vào phân loại để phân cấp quản lý.
Đây là một trong những giải pháp nhằm phân định chức năng và quyền hạn
quản lý của từng chính quyền các cấp cho thích hợp, tránh sự trùng chéo
hoặc bỏ sót.
b. Tiết kiệm và hiệu quả
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tiễn tăng trưởng kinh tế phát sinh
nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng đô thị với một quy mô lớn nhất là trong xu
hướng đô thị hoá toàn cầu với một tốc độ nhanh chóng. Do vậy đã gây hậu

quả phát sinh ngày càng gay gắt, trực tiếp ảnh hưởng về lâu dài là toàn bộ hệ
thống giao thông trong và xuyên các trung tâm kinh tế đô thị hoá, hệ thống
điện, cấp thoát nước, hệ thống thu gom và vận chuyển chất thải rắn và lỏng,
kho tàng, bến bãi đều bị sử dụng quá tải nhưng không được đầu tư nâng cấp
và mở rộng thỏa đáng đáp ứng sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị không chỉ phụ thuộc vào trình độ quy
mô phát triển sản xuất, dịch vụ, mật độ dân cư mà còn phụ thuộc vào các
phương tiện đi lại, các thiết bị sinh hoạt của dân cư. Đây là nguyên tắc hệ
thống để làm sao các đặc trưng và mục tiêu của hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị
được thực hiện một cách tốt đẹp.
Hiện nay, mạng lưới đô thị Việt Nam được mở rộng với 703 đô thị,
trong đó 2 đô thị (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) có quy mô dân số lớn nhất cả
nước (trên 3 triệu người). Cả nước cũng đã và đang thành lập 150 khu công
nghiệp tập trung, 10 khu đô thị mới, 18 khu kinh tế cửa khẩu. Tuy nhiên, tồn
tại lớn nhất của các đô thị ở Việt Nam chính là : Cơ sở kinh tế, kỹ thuật còn
yếu, tăng trưởng kinh tế chưa theo kịp tăng trưởng dân số, nguy cơ mất cân
bằng an toàn lương thực, sinh thái do sử dụng đất nông, lâm nghiệp vào mục
đích xây dựng đô thị, cơ cấu tổ chức không gian và phân bổ dân cư còn mất
cân đối, cơ sở hạ tầng còn yếu, ô nhiễm môi trường và vệ sinh môi trường
kém, khả năng tài chính hạn chế, quản lý chưa làm chủ được tình hình phát
triển đô thị, tình trạng di dân tự do gây sức ép lớn đối với đô thị trong vấn đề
giao thông, nhà ở, môi trường…Tất cả các yếu tố trên đã tác động rất lớn
đến chính quyền các cấp quản lý đô thị, do vậy cải thiện cơ sở hạ tầng và
phát triển đô thị trong một thời gian ngắn sẽ thực sự là có ích cho các đô thị
đang có quá trình đô thị hoá mạnh.
II. Khái quát về hệ thống công viên cây xanh đô thị
1. Nhiệm vụ, chức năng của hệ thống công viên cây xanh đô thị
1.1. Nhiệm vụ
Song song với tốc độ phát triển đô thị thì nhu cầu được nghỉ ngơi, có
chỗ vui chơi, luyện tập thể thao ngoài trời của người dân đô thị ngày càng

tăng lên.
Do vậy hệ thống công viên cây xanh đô thị không những tạo cho
nguời dân có chỗ thư giãn, tập luyện mà còn tạo cho đô thị có một không
gian xanh điều hoà không khí, và đặc biệt trong điều kiện các thành phố
ngày càng bị ô nhiễm bởi khói bụi, của các phương tiện giao thông dày đặc
thì tăng diện tích cây xanh và nước mặt sẽ góp phần bình ổn khí hậu, giữ cho
mặt đất không bị mất nước, giảm bụi và tiếng ồn trong đô thị. Cây xanh sẽ
có tác dụng rất tốt đối với đô thị khi các khu cây xanh được liên kết với nhau
thành một hệ thống liên hoàn từ trung tâm đến ngoại ô, từ trung tâm đến các
đơn vị ở.
1.2. Chức năng của hệ thống công viên cây xanh đô thị
Cây xanh có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người, nó có
tác dụng lớn trong việc cải tạo khí hậu, điều hoà nhiệt độ, ngăn bão lụt và
bảo vệ môi trường sống ở đô thị. Cây xanh còn có tác dụng đặc biệt đối với
các công trình kiến trúc đô thị và là một trong những yếu tố của nghệ thuật
bố cục không gian và cảnh quan đô thị.
Những chức năng chủ yếu của hệ thống công viên cây xanh là:
- Làm nơi nghỉ ngơi, giải trí cho nhân dân, làm phong phú thêm đời
sống văn hoá tinh thần cho người dân đô thị.
- Cải tạo vi khí hậu, điều kiện vệ sinh và bảo vệ môi trường.
- Làm các dãy phòng hộ cách ly và bảo vệ cho đô thị trước gió bão,
hạn chế thiên tai…
- Tạo cho đô thị có được một không gian đô thị với cảnh quan kiến
trúc, mỹ quan đô thị đẹp đẽ.
2. Bộ phận cấu thành của hệ thống công viên cây xanh đô thị
2.1 Hệ thống cây xanh
- Cây xanh đô thị là một hệ sinh thái thiên nhiên đặc biệt có tác dụng
rất nhiều đối với việc cải tạo vi khí hậu và bảo vệ môi trường sống đô thị, hệ
thống cây xanh sẽ rất hiệu quả đối với đô thị khi được liên kết với nhau
thành hệ thống liên hoàn nối các khu với nhau.

- Cây xanh và mặt nước : Trong quan hệ đô thị yếu tố cây xanh
thường được gắn liền với mặt nước tạo nên những phong cảnh gần gũi với
thiên nhiên đặc sắc. Vì vậy cây xanh và mặt nước tạo thành với nhau một dải
có hệ thống. Chỉ tiêu cây xanh được tính cho đô thị khi có các mặt nước
rộng được tính bằng một nửa diện tích mặt nước. Như vậy đối với những đô
thị có mặt nước lớn diện tích cây xanh được trồng sẽ giảm đi rất nhiều. Cây
xanh trong đô thị thường có được bố cục sau :
+ Cây đứng độc lập : Thường là các cây có hình dáng, màu sắc đẹp
cần được bố trí ở vị trí tập trung sự chú ý quan sát của nhiều người, đặc biệt
trong trường hợp cần phối hợp với các công trình nhỏ. Bên cạnh đó nếu có
thể bố trí thêm hệ thống ánh sáng để làm tăng thêm giá trị tạo hình của cây
đứng độc lập.
+ Nhóm cây : Là tập hợp từ 3 – 10 cây cùng loại hoặc khác loại, trồng
thành một khối. Nhóm cây trong công viên thường được tổ chức thành các
điểm nhấn (trọng điểm cây xanh) của phong cảnh hoặc làm nền cho công
trình trong khuôn viên.
+ Mảng cây : Là tập hợp nhiều cây (thường cùng loại) được trồng trên
diện tích lớn, mảng cây có tác dụng tạo bóng mát lớn trong công viên.
+ Rừng nhỏ : Là khu vực trồng cây diện tích lớn rộng khoảng 1-2 ha
trong đó chú trọng các hình thức phối kết cây khác nhau. Rừng nhỏ tổ chức
trong công viên để gợi cho cảm giác là rừng thiên nhiên, vườn thú kết hợp
và những loại cây đặc biệt.
2.2 Đường trong công viên : Đuờng trong công viên chủ yếu là mạng
lưới đường phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên cho phép và cơ cấu
chức năng sử dụng đất đai trong công viên.
Đường trong công viên bao gồm:
- Đường trục chính là đường nối từ cổng công viên đến khu vực trung
tâm và đến các khu vực chức năng khác quan trọng.
- Đường phân khu chức năng và liên hệ giữa các khu chức năng với
nhau. Đây là những con đường chính trong công viên, cùng với các trục

đường chính hình thành các dạng sơ đồ giao thông rất đa dạng trong công
viên.
- Đường dạo chơi là loại đường đi dạo
2.3 Khu công viên
- Khu trung tâm công viên là nơi tập trung các công trình văn hoá và
biểu diễn, có quảng trường và trục đường lớn nối thẳng với hệ thống giao
thông chính của đô thị.
- Khu thể dục thể thao là khu vực riêng có tổ chức các sân bãi, tập
luyện và thi đấu.
- Khu nghỉ ngơi yên tĩnh là khu vực khá rộng trong khu vực công
viên, ở đây chủ yếu là cây xanh và các lối đi bộ, chỗ dừng chân ngắm
cảnh…
- Khu dành cho thiếu nhi là khu vực dành cho trẻ em bao gồm các trò
chơi giải trí quanh co trong công viên tạo nên một hệ thống riêng, tuỳ theo
địa hình và bố cục quan hệ.
3. Loại hình công viên cây xanh đô thị
3.1. Cây xanh sử dụng công cộng
Là các khu cây xanh phục vụ trực tiếp cho đô thị theo nhu cầu vui
chơi giải trí, sinh hoạt văn hoá, rèn luyện thân thể và mỹ quan đô thị, bao
gồm :
a. Các loại công viên thành phố : Là loại hình cây xanh chiếm vị trí
quan trọng trong hệ thống cây xanh thành phố. Tuỳ theo điều kiện
địa hình cho phép, công viên thường được bố trí đều trong khu dơn
vị ở và ở những nơi có địa hình tự nhiên. Trong công viên tổ chức
các hoạt động văn hoá giải trí nghỉ ngơi , các hoạt động thể dục thể
thao rèn luyện …
b. Các vườn hoa : Là những khuôn viên nhỏ kết hợp với các quảng
trường công cộng của thành phố và các công trình kiến trúc nhỏ,
làm tăng vẻ đẹp của các tổng thể kiến trúc đô thị. Đây cũng là chỗ
vui dừng chân vui chơi của người dân đô thị.

c. Các dải cây xanh đường phố : Các dải cây xanh trồng dọc theo các
phố lớn ở hai bên hoặc ở khoảng cách giữa hai tuyến đường. Hình
thức này còn được tổ chức trên các tuyến đi bộ chính ở trong khu
ở, trên các trung tâm đi bộ có xen kẽ các kiến trúc ghế đá nghỉ
chân.
3.2 Cây xanh sử dụng hạn chế :
Đây là những khu cây xanh công cộng nhưng chỉ phục vụ hạn chế cho
một số đối tượng mang tính chuyên dùng như cây xanh trong các trường
học, bệnh viện, các trung tâm hành chính, các khu công nhiệp …
3.3 Cây xanh có chức năng đặc biệt :
Là các khu cây xanh tổ chức theo nhu cầu riêng của quy hoạch. Nó
bao gồm các khu cây xanh mang tính nghiên cứu khoa học, vườn thực vật,
vườn thú, vườn ươm, các khu cây xanh cách ly bảo vệ, chống gió, bụi cát,
tiếng ồn …
III. Quản lý hệ thống công viên cây xanh đô thị
1. Sự cần thiết khách quan phải quản lý hệ thống công viên cây xanh
Trong quá trình đô thị thị hoá và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
kinh tế với tốc độ cao như hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường rất đáng
báo động : xảy ra ở cả môi trường nước, đất và không khí với nhiều chỉ tiêu
vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải có những
biện pháp bảo vệ môi trường tích cực và hiệu quả.
Song song với tốc độ phát triển đô thị thì nhu cầu được nghỉ ngơi, có
chỗ vui chơi giải trí của người dân đô thị cũng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên
hầu hết các đô thị hiện nay dường như chưa quan tâm nhiều đến nhu cầu này
từ người dân cho dù cây xanh đô thị có được tầm quan trọng rất lớn trong
việc cải tạo môi trường sống, giữ cho đất có được độ ẩm, điều hoà không
khí, giảm thải khí bụi, phòng chống thiên tai như bão lụt và nhất là tạo cho
người dân như được sống cùng với thiên nhiên hơn thế nữa hệ thống công
viên cây xanh đô thị còn mang ý nghĩa văn hoá, tạo cảnh quan đẹp cho đô
thị.

Hiện nay hệ thống các công viên cây xanh tại Việt Nam đang ở trong
tình trạng xuống cấp và không được quan tâm quản lý và nếu có sự quản lý
thì lại là sự chồng chéo quản lý tạo nên nhiều vấn đề như không có sự liên
kết, hỗ trợ chặt chẽ nên những sự cố xảy ra không được giải quyết đúng mức
cần thiết. Tình trạng lấn chiếm lòng hồ, đổ đất, phế liệu xây dựng, đổ rác
thải trong các công viên đã trở thành phổ biến. Mặc dù các cơ quan quản lý
vẫn đều đặn định kỳ tiến hành duy tu, bảo dưỡng, làm vệ sinh nhưng vẫn
không xuể so với tốc độ đổ rác của người dân và các cơ sở sản xuất kinh
doanh ven các công viên.
Trước hiện trạng đáng báo động như vậy chúng ta cần có một cơ chế
về quản lý hệ thống các công viên cây xanh trong đô thị, theo đó các chính
quyền đô thị phải có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với hệ thống công
viên cây xanh trong địa bàn mình quản lý. Đặc biệt cần phải xây dựng một
chế tài xử lý vi phạm đối với các công viên cây xanh trong đô thị. Cùng với
sự phối hợp của các cơ quan quản lý với một chế tài xử lý rõ ràng thì công
tác quản lý hệ thống công viên cây xanh đô thị mới đáp ứng các bước phát
triển được trong điều kiện hiện nay.
2. Mục tiêu của quản lý Nhà nước đối với hệ thống công viên cây xanh
Mục tiêu của quản lý Nhà nước đối với hệ thống công viên cây xanh
là nhằm đưa hệ thống các công viên cây xanh của các đô thị phát triển một
cách bền vững đi cùng với sự phát triển chung của đô thị. Mục tiêu của quản
lý Nhà nước đối với hệ thống công viên cây xanh :
- Cây xanh đô thị có được phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên
và ý đồ quy hoạch phát triển đô thị. Nguyên tắc cơ bản về thiết kế quy hoạch
khu đất cây xanh đô thị là phải đảm bảo được sử dụng, vệ sinh môi trường
và mỹ quan đô thị. Do vậy quản lý Nhà nước về hệ thống công viên cây
xanh là phải lập kế hoạch phát triển hệ thống trong thời gian từ 20 - 30 năm
trên cơ sở quy hoạch phát triển đô thị.

×