Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

QUAN điểm của ĂNGGHEN về tư DUY lý LUẬN và ý NGHĨA của nó đối với VIỆC đổi mới tư DUY lý LUẬN của ĐẢNG TA TRONG THỜI kỳ đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.59 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học Mác tuy được ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, gắn với
những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và lý luận của thế giới trong những
năm nửa đầu của thế kỷ XIX nhưng cho đến nay nó vẫn là một thứ vũ khí lý
luận sắc bén, mang tính khoa học và cách mạng đối với nhiều nước trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, triết học Mác đã từng là ngọn cờ tư
tưởng của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và hiện nay vẫn
tiếp tục là nền tảng lý luận của Đảng ta và nhân dân ta trong cuộc cuộc đổi mới
đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có rất nhiều quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đã cung cấp cho
chúng ta phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức và trong hoạt động thực
tiễn. Trong tiểu luận này, tôi lựa chọn phân tích để làm rõ những quan điểm cơ
bản của Ph. Ăngghen về tư duy lý luận, những điều kiện hình thành tư duy lý
luận và vai trị của tư duy lý luận trong hoạt động thực tiễn đồng thời lấy đó làm
cơ sở để phân tích q trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội. Đó là cách vận dụng những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác để xem xét
những vấn đề của thực tiễn để tìm ra sự vận dụng, kế thừa; sự sáng tạo của Đảng
ta trong cơng cuộc đổi mới đất nước, trong đó vấn đề đổi mới tư duy lý luận
được coi là một trong những khâu đột phá đầu tiên.

1


NỘI DUNG
1. Quan điểm của Ph. Ăngghen về tư duy lý luận
Tư duy nói chung và tư duy lý luận nói riêng vốn là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học. Tùy theo mục đích và phạm vi nghiên cứu mà mỗi
ngành khoa học nghiên cứu tư duy và tư duy lý luận ở các góc độ khác nhau.
Trong lịch sử triết học, vấn đề tư duy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó được
đặt ra từ rất sớm trong cuộc đấu tranh về lý luận nhận thức. Ở góc độ triết học,
tư duy được xem xét trong mối tương quan với tồn tại, với thế giới khách quan.


Vì vậy, khi tổng kết tồn bộ tiến trình phát triển của lịch sử triết học, trong tác
phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.
Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” 1. Với nhận định này,
Ăngghen không chỉ chỉ ra hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học mà còn cho
thấy cùng với vấn đề tồn tại, tư duy là một vấn đề xuyên suốt trong lịch sử triết
học của mọi thời đại. Khơng chỉ có vậy, trong một số tác phẩm khác, đặc biệt là
Chống Đuyrinh và Biện chứng của tự nhiên, Ăngghen còn bàn nhiều đến tư duy
lý luận ở các góc độ khác nhau như bản chất của tư duy lý luận, những điều kiện
hình thành tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận… Những chỉ dẫn đúng đắn
của Ăngghen về tư duy lý luận không chỉ đấu tranh chống lại những quan điểm
sai lầm, chiết trung về khả năng nhận thức của con người mà cịn có ý nghĩa to
lớn đối với Đảng ta trong việc nhận thức vai trò của tư duy lý luận và tiến hành
đổi mới tư duy lý luận trong công cuộc đổi mới đất nước.
Vấn đề tư duy đã được Ăngghen bàn đến trong rất nhiều tác phẩm. Trong
tác phẩm Chống Đuyrinh, ở Phần thứ nhất với tên gọi Triết học, khi tranh luận
với Đuyrinh về vấn đề những nguyên lý, Ăngghen viết: “…nếu người ta đặt câu
hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta thấy rằng chúng là
sản vật của bộ óc con người và bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên,
1

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Tồn tập, t. 21, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 403.

2


một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với mơi
trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những sản vật của bộ óc con người , - quy đến
cùng cũng là những sản vật của giới tự nhiên – không mâu thuẫn mà lại còn phù
hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên” 2. Từ những luận giải trên, chúng

ta nhận thấy Ăngghen đã khẳng định ý thức, tư duy của con người chính là chức
năng của bộ não. Đây là một dạng vật chất có tính tổ chức cao, có khả năng sản
sinh ra tư duy, ý thức. Quan điểm này không chỉ là sự bác bỏ những luận điểm
duy tâm của Đuyrinh khi cho rằng những nguyên lý được rút ra từ tư duy chứ
không phải từ thế giới bên ngồi mà cịn khẳng định rõ lập trường duy vật triệt
để của Ăngghen khi bàn về vấn đề tư duy nói riêng và q trình nhận thức của
con người nói chung.
Khơng chỉ dừng lại ở vấn đề tư duy, Ăngghen còn bàn nhiều đến vấn đề tư
duy lý luận với tính cách là một nấc thang trong tiến trình nhận thức thế giới của
con người. Vấn đề này được bàn đến trực tiếp trong tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên, nhất là ở “Bài tựa cũ của cuốn Chống Đuyrinh. Về phép biện chứng”.
Trong tác phẩm này, tuy Ăngghen không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tư
duy lý luận nhưng bằng việc lược khảo tiến trình phát triển của tư duy nhận loại
từ thời cổ đại đến bấy giờ, Ăngghen khẳng định tư duy lý luận là trình độ phát
triển cao của năng lực tư duy con người. Nó mang tính lịch sử, là sản phẩm của
lịch sử và ở mỗi thời đại khác nhau là khác nhau: “Tư duy lý luận của mỗi một
thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang
những hình thức rất khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” 3. Điều
đó cũng đồng nghĩa với việc Ăngghen khẳng định dù là một hình thức phát triển
cao của tư duy nhưng tư duy lý luận không phải là một chân lý vĩnh viễn, khơng
thay đổi được. Vì vậy, Ăngghen đã đồng nhất khoa học về tư duy với khoa học
lịch sử theo nghĩa việc nghiên cứu về tư duy nói chung và tư duy lý luận nói
riêng cũng phải mang tính lịch sử, cũng có sự thay đổi gắn với điều kiện của mỗi
thời đại khác nhau: “Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học
2
3

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 55.
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 487.


3


về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy
con người”4.
Cũng trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ăngghen cịn bàn đến
những điều kiện hình thành tư duy lý luận:
Một là, tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm. Điểm
xuất phát của tư duy lý luận chính là những kinh nghiệm được con người tích
lũy trong cuộc sống hàng ngày. Khơng có kinh nghiệm thì khơng có sẽ khơng có
sự khám phá của con người về những quy luật vận động nội tại, tất yếu của các
sự vật, hiện tượng. Những kinh nghiệm được tích lũy đã địi hỏi phải có sự hệ
thống hóa và phải tìm ra một sự liên hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện
được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển qua được giai đoạn kinh
nghiệm lên giai đoạn mới cao hơn – giai đoạn tư duy lý luận. Ăngghen đã mơ tả
q trình đó như sau: “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã tích lũy được một
khối lượng tài liệu chính diện đến ngày nay tuyệt đối bức thiết phải sắp xếp
những tài liệu ấy một cách có hệ thống và dựa vào mối liên hệ từ nội tại của
chúng trong lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt. Người ta cũng thấy không kém cần
thiết phải sắp xếp những lĩnh vực khác nhau của tri thức theo một liên hệ đúng
đắn giữa lĩnh vực nọ với lĩnh vực kia. Nhưng làm thế thì khoa học tự nhiên đã
chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này, những phương pháp kinh
nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” 5. Những
mơ tả khá cụ thể đó của Ăngghen đồng nghĩa với việc khẳng định tư duy lý luận
khơng phải tự nhiên mà có, nó chính là một giai đoạn phát triển cao của tư duy
con người dựa trên việc tích lũy kinh nghiệm và bắt nguồn từ nhu cầu phải khái
quát những kinh nghiệm đó thành hệ thống và tìm ra mối liên hệ của tri thức ở
các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
Hai là, tư duy lý luận phải gắn liền với khoa học, nhất là khoa học tự nhiên.
Theo Ăngghen, việc gắn với sự phát triển khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được

những quy luật và các mối liên hệ bên trong giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy,
4
5

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 487.
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 487.

4


thật dễ hiểu tại sao trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề triết học,
Ăngghen và C.Mác đều nghiên cứu những vấn đề của khoa học, đặc biệt là khoa
học tự nhiên. Ăngghen đã chỉ rõ: “Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện
đại đã chẳng bắt buộc một người nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng phải thừa
nhận chúng, bắt buộc một sức mạnh khiến các nhà khoa học tự nhiên hiện đại dù
họ muốn hay khơng phải tiến tới những kết luận chung, đó sao?” 6. Điều đó đồng
nghĩa với việc khẳng định khoa học tự nhiên đưa lại những cơ sở khách quan
cho tư duy lý luận. Trên cơ sở đó, Ăngghen phê phán những quan điểm nửa vời,
chiết trung về triết học. Ông cho rằng một trong những nguyên nhân của sự nửa
vời đó là do nửa vời về tư duy lý luận, trong đó quan trọng nhất là sự nửa vời về
khoa học tự nhiên: “Nếu những nhà lý luận là những người nửa thông thái trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên thì các nhà khoa học tự nhiên ngày nay, trong một
mức độ như thế cũng thực sự là những người nửa vời thông thái trong lĩnh vực
lý luận, trong lĩnh vực của cái mà cho tới nay người ta gọi là triết học”7.
Ba là, tư duy lý luận không thể tách rời phương pháp biện chứng duy vật.
Theo Ăngghen, tư duy biện chứng chính là hình thức cao nhất của tư duy lý
luận. Ăngghen rất đề cao vai trò của phép biện chứng với tư duy lý luận. Ông đã
cảnh báo: “Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì khơng thể khơng bị
trừng phạt. Dù người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi
nữa, nhưng khơng có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự

kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không hiểu được mối liên hệ giữa
hai sự kiện đó… sự khinh miệt lý luận thường là con đường… đưa chúng ta đến
chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy nghĩ sai” 8. Luận điểm trên
của Ăngghen đã khẳng định phép biện chứng đã giúp cho tư duy của con người
thấy được bản chất của giới tự nhiên là mối liên hệ tác động qua lại nhau. Điều
đó tránh được những sai lầm trong hoạt động nhận thức. Cũng trong tác phẩm
Biện chứng của tự nhiên, cùng với việc phân tích những hạn chế của phương
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 486-487.
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 487.
8
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 508.
6
7

5


pháp tư duy siêu hình, Ăngghen đã khẳng định: “Trên thực tế, ở đây, ngày nay
khơng cịn một lối thốt, khơng cịn một khả năng nào để có thể nhìn thấy ánh
sáng nếu khơng từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở về với tư duy biện chứng,
bằng cách này hay cách khác”9 và “…chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp
cho khoa học tự nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý luận” 10. Thơng qua việc
chỉ ra những hạn chế của phép biện chứng thời cổ đại và trong triết học cổ điển
Đức, Ăngghen đã đề cao vai trò của C.Mác trong việc cải tạo lại phép biện
chứng duy tâm của Hêghen trên lập trường duy vật: “Công lao của Mác là ở chỗ
ông là người đầu tiên đã phục hồi lại phương pháp biện chứng đã bị bỏ quên,
nêu rõ những mối quan hệ và sự khác nhau của phương pháp đó với phép biện
chứng của Hêghen…”11. Cùng với việc đề cao phép biện chứng, Ăngghen còn đi
đến một khẳng định quan trọng là nhờ có phép biện chứng mà tư duy lý luận
được hình thành một cách tự giác, dễ dàng và được rút ngắn hơn nhiều: “Người

ta có thể đạt đến quan điểm biện chứng đó do những sự kiện thực tế đang tích
lũy lại của khoa học tự nhiên bắt buộc, nhưng người ta có thể đạt đến nó một
cách dễ dàng hơn nếu đưa nhận thức về những quy luật của tư duy biện chứng
vào việc tìm hiểu tính chất biện chứng của những sự kiện ấy”12.
Bốn là, muốn có tư duy lý luận phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc
toàn bộ lịch sử triết học. Theo Ăngghen, tư duy lý luận ở mỗi chúng ta chỉ tồn
tại dưới dạng năng lực tiềm tàng, không phải tự nhiên mà có nên việc nghiên
cứu một cách nghiêm túc lịch sử triết học của nhân loại sẽ làm cho năng lực đó
trở thành hiện thực: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới
dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hồn
thiện và muốn hồn thiện thì cho tới nay, khơng có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”13.

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 490.
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 489.
11
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 493.
12
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 485.
13
C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 487.
9

10

6


Như vậy, với việc chỉ ra bốn điều kiện cơ bản cho việc hình thành tư duy lý
luận, Ăngghen đã cung cấp cho chúng ta những phương pháp luận đúng đắn và

cần thiết trong việc hình thành tư duy lý luận trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Không chỉ có vậy, cũng trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ăngghen còn chỉ ra vai trò to lớn của tư duy lý luận bằng một luận điểm nổi
tiếng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận”14. Luận điểm này chứng tỏ tư duy lý luận chính là
thước đo trình độ phát triển khoa học của một quốc gia, một dân tộc. Tư duy lý
luận là điều kiện tiên quyết phản ánh sự phát triển khoa học của mỗi thời đại. Vì
vậy thơng qua những gương mặt tiêu biểu có tầm cao về tư duy lý luận như
Cantơ, Hêghen, C.Mác, Ph.Ăngghen…, chúng ta cũng có thể lý giải được tại sao
Đức là một trong những dân tộc có trình độ khoa học phát triển bậc nhất của các
nước châu Âu ở thế kỷ XIX.

2. Sự vận dụng quan điểm của Ph. Ăngghen về tư duy lý luận đối với
việc đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
Quan điểm của Ăngghen về bản chất của tư duy lý luận, những điều kiện
hình thành tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận khơng chỉ có ý nghĩa to lớn
14

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Sđd, t. 20, tr. 489.

7


trong thời đại của Ăngghen – thời đại cần phải tìm hiểu và nắm vững những
điều kiện hình thành một kiểu tư duy lý luận mới, khác về chất so với những
kiểu tư duy lý luận trước đó mà cịn có ý nghĩa khoa học sâu sắc đối với mỗi
chúng ta trong thời đại ngày nay, đặc biệt là đối với nước ta đang trên con
đường tiếp tục đổi mới và hồn thiện tư duy lý luận để có thể đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Không phải ngẫu nhiên Đảng ta gọi Đại hội
VI (tháng 12/1986) là Đại hội đổi mới tư duy, bởi ở Đại hội này, Đảng ta đã

vạch ra đường lối đổi mới đất nước, bắt nguồn từ việc đổi mới tư duy lý luận về
kinh tế. Đường lối đổi mới của Đảng ta khơng phải ngẫu nhiên mà có. Đó là kết
quả của q trình tìm tịi, thử nghiệm với biết bao trăn trở, đấu tranh về tư duy
để từng bước đi tới những nhận thức cụ thể hơn, sát thực hơn và sáng tỏ hơn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Công cuộc đổi mới của đất nước tư được tiến hành một cách toàn diện trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng theo tơi, một trong những đổi mới quan
trọng có tính chất đột phá là việc đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đó
là kết quả của sự nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của tư duy lý luận
trong việc cải tạo hoạt động thực tiễn của Đảng ta. Sự đổi mới đó không chỉ là
sự kế thừa những chỉ dẫn của Ph. Ăngghen về vai trị và điều kiện hình thành tư
duy lý luận mà nó cịn được bắt nguồn từ thực tiễn trong nước và quốc tế trong
những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
2.1. Những nhân tố tác động đến sự thay đổi tư duy lý luận của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam đã trải qua 24
năm (1986-2010), tuy khơng tránh khỏi những khó khăn, thử thách nhưng nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những
thành tựu đáng kể nhất là nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn. Những nhận thức mới mẻ đó
khơng chỉ là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào từng hồn cảnh cụ thể mà còn là do
8


sự tác động của rất nhiều yếu tố. Đó là những biến động trên thế giới và cả
những biến động ở trong nước.
Thế kỷ XX là một thế kỷ có rất nhiều biến động trên thế giới với sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội, sự tiếp tục phát triển về kinh tế của chủ nghĩa tư bản, sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của xu thế tồn cầu hố…

Những điều đó đã tác động lớn đến sự thay đổi nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một thắng
lợi vĩ đại đã đưa chủ nghĩa xã hội từ “bóng ma” trở thành hiện thực. Sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã khiến chủ
nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới. Trong suốt hơn nửa thế kỷ, Liên
Xô và các nước Đông Âu đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và có những cống hiến có ý nghĩa lịch sử đối với sự
phát triển và tiến bộ của loài người. Tuy nhiên, cuối những năm 70, đầu những
năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đơng Âu đã rơi
vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ. Tuy Đảng Cộng sản Liên Xơ đã có những
cuộc cải tổ nhằm cứu vãn tình thế nhưng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước
này vẫn sụp đổ vào đầu những năm 90. Sự sụp đổ đó bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, song có thể nói, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là sai lầm
trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội. Do tư tưởng nóng vội, duy ý chí cùng với
những nhận thức chủ quan về chủ nghĩa xã hội mà những người lãnh đạo Đảng
và Nhà nước Liên Xô đã muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
một cách nhanh chóng, khơng cần trải qua những bước trung gian, những giai
đoạn quá độ; muốn xây dựng một kiểu chủ nghĩa xã hội với một hệ thống chính
trị hành chính mệnh lệnh, một nền kinh tế bao cấp kế hoạch hố, tập trung hố…
Tình hình đó đã đặt các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có
Việt Nam cần nhận thức lại chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nhu cầu đổi mới nhận thức
về chủ nghĩa xã hội chính là một tất yếu khách quan.

9


Đối lập với sự khủng hoảng và thoái trào của các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của các nước tư bản chủ
nghĩa. Điều đó đã tạo nên sự phát triển khơng ngừng của lực lượng sản xuất,

trong đó khoa học cơng nghệ đóng vai trị rất quan trong; năng suất lao động
không ngừng tăng lên, của cải xã hội làm ra ngày càng nhiều… Ngoài ra, một số
nước ta bản cịn liên kết, hợp tác thành các tập đồn quốc tế, các tổ chức đa quốc
gia. Điều đó khiến nhiều người đồng nhất những thành tựu chung của nhân loại
ở thế kỷ XX là do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Cũng nhiều người tin rằng thế giới sẽ
nhất thể hoá ở chủ nghĩa tư bản. Điều đã đã đặt ra một yêu cầu bức thiết cho
Đảng ta là cần phải có những nhận thức mới mẻ về chủ nghĩa xã hội nói chung
và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển mới góp
phần làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế thế giới. Những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ khơng chỉ làm thay đổi tồn diện diện mạo của
cả thế giới mà cịn góp phần quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao nhận
thức ở nhiều lĩnh vực, kể cả các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
nhân văn trong đó có triết học. Hơn nữa, dưới tác động của xu thế tồn cầu hóa,
nước ta đang từng bước gia nhập vào các tổ chức quốc tế, bắt tay hợp tác với rất
nhiều nước trên thế giới, trong đó phần đơng là các nước ta bản. Cùng với đó là
sự thối trào của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến diện mạo của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Những
diễn biến mới mẻ, đầy phức tạp đó cũng đã địi hỏi Đảng ta phải nhận thức lại về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Với tư cách là một khoa học, quan điểm về chủ nghĩa xã hội khơng phải là
một cái gì bất biến, có thể phù hợp với mọi điều kiện và hồn cảnh cụ thể. Sinh
thời, các nhà mácxít đã khẳng định lý luận về chủ nghĩa xã hội chưa phải là một
lý tưởng mà hiện thực cần tuân theo: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện
10


thực cần tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện

thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do
những tiền đề hiện đang tồn tại đề ra” 15. V.I.Lênin - người kế thừa và phát triển
chủ nghĩa Mác cũng luôn đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác bằng những thực tiễn sinh động: “Chúng ta không hề coi chủ nghĩa Mác
như là cái gì đã xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa hoc mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với
cuộc sống”16. Bởi vậy, trước những thay đổi không ngừng của hiện thực làm bộc
lộ những hiện tượng mới, những quy luật mới, những xu hướng mới khác với
nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đó địi hỏi Đảng ta cần phải có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
Sự thay đổi nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội không chỉ do tác
động của những biến động trên thế giới mà còn chịu sự tác động của những biến
động ở trong nước.
Cuối những năm 70, nền kinh tế - xã hội nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là sản xuất trì trệ, lạm
phát tăng nhanh, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, lòng tin của nhân
dân với sự lãnh đạo của Đảng bị suy giảm… Cuộc khủng hoảng này đã đặt cả
dân tộc ta trước một thử thách lớn lao và cam go. Cuộc khủng hoảng đó bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân song một trong những nguyên nhân quan trọng và
trực tiếp nhất là do chúng ta đã mắc phải những sai lầm trong nhận thức về chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội như học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, những cách thức bước đi trong thời kỳ quá độ… đã
bị hiểu không đúng. Những sai lầm đó đã dẫn đến những thiếu sót trong việc xây
dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta – mơ hình chủ nghĩa xã hội nhà nước.
15
16


C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995, t.3, tr. 51.
V.I.Lênin: Toàn tập, ti ếng Vi ệt, Nxb Ti ến b ộ, M atxc 1974, t.4, tr. 51, tr. 232.

11


Do tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí, nước ta đã muốn tiến nhanh,
tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (năm 1976)
đã đưa ra thời gian thực hiện quá độ là 20 năm mà khơng tính đến hết những khó
khăn của việc chúng ta thực hiện quá độ từ một nước có nền nơng nghiệp nghèo
nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá lâu dài nên rất cần phải có một thời gian quá
độ lâu dài, trải qua nhiều bước trung gian. Hơn nữa, Đảng ta cho rằng để tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội khơng cịn con đường nào khác là phải đẩy mạnh sự
phát triển của quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Bên cạnh đó, Đảng ta đã phủ nhận kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, ảo
tưởng về khả năng xuất hiện một thứ chủ nghĩa xã hội thuần khiết nên nhanh
chóng cho ra đời một mơ hình chủ nghĩa xã hội thuần nhất, chỉ cho phép các
hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa tồn tại. Ngoài ra, trong một thời gian khá dài,
nước ta duy trì một cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp. Cần phải thừa
nhận cơ chế quản lý này có nhiều điều hợp lý và cần thiết trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh nhưng khi hồn cảnh đất nước đã thay đổi, chiến tranh đã
kết thúc, cơ chế này đã trở thành rào cản của sự phát triển. Nó làm cho hoạt
động kinh tế vừa cứng nhắc, vừa thụ động, hiệu quả kinh tế suy giảm, sức cạnh
tranh không cao, không phát huy được sự chủ động, sáng tạo của con người…
Phương thức quản lý tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh với cơ chế bao
cấp và bình quân đã làm biến dạng các quan hệ xã hội, làm triệt tiêu các động
lực của sự phát triển xã hội. Sự khủng hoảng toàn diện của nền kinh tế - xã;
những thiếu sót, sai lầm trong cơ chế quản lý và điều hành xã hội đã buộc Đảng
ta phải đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội nếu muốn đưa đất nước tiếp tục
phát triển.

2.2. Những biểu hiện của việc đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) được coi là Đại hội mở
đầu cho q trình đổi mới của Đảng ta nói chung và đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội nói riêng. Với tinh thần: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
12


sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã xác
định cần phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đây
thực chất là xây dựng cơ sở lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, trang bị vũ khí lý luận cho sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng và nhân dân
ta. Đại hội VI đã mở ra một bước ngoặt to lớn trong công cuộc đổi mới đất
nước, trong đó cơng tác đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội
đã được nhận thức một cách nghiêm túc. Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá
theo đúng tinh thần phê phán những sai lầm, chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động nóng vội, khơng tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Đại hội đã rút ra bốn bài học lớn là:
- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động;
- Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan;
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức của thời đại trong điều kiện
mới;
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Những bài học trên đã chứng tỏ Đảng ta quyết tâm từ bỏ lối tư duy siêu
hình, kinh viện; tập trung trí tuệ của Đảng vào việc tìm kiếm và lựa chọn một tư
duy mới, một chiến lược mới. Vì vậy, Đại hội Đảng VI được đánh giá là một
bước ngoặt lớn trong tiến trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta.

Kế thừa tinh thần đổi mới, Đại hội Đảng VII (năm 1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh đã đưa ra 7 phương hướng chỉ đạo tồn bộ cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Những phương hướng đó khơng chỉ chỉ ra những điểm khác biệt về chất
giữa chủ nghĩa xã hội như là một chế độ với chủ nghĩa tư bản mà còn chỉ đạo
đất nước ta trong suốt một thời gian dài, cho đến nay vẫn còn nhiều giá trị to
13


lớn. Sau Đại hội VII, trong Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm
1994), quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội về cơ bản có hai điểm mới.
Một là, xác định mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hai là, xây
dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Trong Đại Đảng VIII, Đảng ta cũng đã có bước phát triển mới trong quan
điểm về chủ nghĩa xã hội trong việc đưa ra tư tưởng phân kỳ thời kỳ quá độ ở
nước ta. Cụ thể là: sau mười năm đổi mới (1086-1996) đã kết thúc chặng đường
đầu tiên với sự chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hố đã hồn thành, cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và chỉ ra
nhiệm vụ của chặng đường tiếp theo là phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước
cơng nghiệp.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX (năm 2001) cũng đã có nhiều quan
điểm mới mẻ về chủ nghĩa xã hội như việc làm rõ hơn vấn đề phát triển bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, bổ sung thêm cụm từ “dân chủ” vào mục tiêu thành dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đưa ra mơ hình kinh tế
tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ là xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa những thay đổi đó, trong Đại hội X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục
bổ sung, phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là xây

dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh,; do nhân
dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao; dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất… Những điểm mới đó đã chứng tỏ nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội trong thời gian qua cũng ngày càng sáng tỏ hơn, đúng đắn hơn. Nó cũng
khẳng định quan điểm về chủ nghĩa xã hội không thể cứng nhắc, bất biến mà
cần phải luôn được bổ sung, phát triển dựa trên những biến động, thay đổi của
thực tiễn qua mỗi thời kỳ lịch sử.
14


Có thể nhận thấy q trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta không hề đơn giản, dễ dàng. Nó là kết quả của q trình thử nghiệm,
tìm tịi, khai phá một cách nghiêm túc cùng với nỗ lực không ngừng của Đảng
ta, nhân dân ta trong công cuộc đổi mới đất nước, từng bước xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Những nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội không chỉ chịu sự
tác động của những biến động trên thế giới mà cịn cả những thay đổi, biến động
của cả tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cùng với thực tiễn của quá
trình đổi mới đất nước qua hơn 20 năm qua đặt ra. Với những nhận thức mới
mẻ, ngày càng đúng đắn đó về chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể khẳng định
Đảng ta ln nắm vững tính đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin,
đang ngày càng góp phần thêm da thêm thịt cho cái sườn lý luận mácxít về chủ
nghĩa xã hội, làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác ngày càng thêm sống động
bằng thực tiễn phát triển của nước ta, bằng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội suốt hơn 20
năm qua.
Từ những phân tích trên, tơi nhận thấy, trong q trình đổi mới tư duy lý
luận, Đảng ta trước hết đã thấy được rõ tầm quan trọng của việc tìm kiếm một tư
duy đúng đắn, hợp lý để lãnh đạo đất nước ta vượt qua những khó khăn thử
thách, để tiến gần hơn với những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Bên cạnh đó, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những chỉ dẫn cụ thể
của Ăngghen về những điều kiện hình thành tư duy lý luận, nhất là việc vận
dụng phép biện chứng vào việc xác lập một tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã
hội và thời kỳ quá độ. Nếu như trước đây, chúng ta áp dụng một cách máy móc
mơ hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xơ, khơng tính đến những điều kiện, hồn
cảnh lịch sử cụ thể của nước ta thì nay, mơ hình về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội đã mang đậm tính đặc thù của Việt Nam – một đất nước đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội bằng việc bỏ qua chế độ tư bản với tư cách là một chế độ chính
trị xã hội. Phép biện chứng đã trở thành công cụ tư duy sắc bén giúp cho Đảng

15


ta kịp thời đưa ra đường lối đổi mới đất nước, tránh được khỏi những sai lầm
đáng tiếc có thể xảy ra.

KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu quan điểm của Ăngghen về tư duy lý luận, người viết
đã mạnh dạn liên hệ đến quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới đất nước. Quan điểm của Ăngghen về tư duy lý luận không chỉ đấu
16


tranh chống lại tư duy siêu hình đồng thời khắc phục những hạn chế của tư duy
biện chứng trước Mác mà còn cung cấp cho chúng ta phương pháp luận đúng
đắn trong việc hình thành tư duy lý luận cả trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta chính là sự vận dụng
sáng tạo những chỉ dẫn của Ăngghen về tư duy lý luận, nhất là việc sử dụng
phép biện chứng, khắc phục những hạn chế của tư duy kinh nghiệm vào việc
hình thành tư duy lý luận mới phù hợp với các điều kiện hoàn cảnh của nước ta

ở mỗi thời kỳ lịch sử.
Qua hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong đó, một
trong những điều đáng kể nhất là những thay đổi tiến bộ ở tầm lý luận. Đó là
việc nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, đúng
đắn hơn, tránh được tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí. Đây là một sự thay
đổi rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến con đường xây dựng đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, T.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000.

17


2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng
thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc Gia,
Hµ Néi.

18




×