HỘI CHỨNG TỰ KỶ :
Hướng đến một lối nhìn khoa học và toàn diện
1 Năm dấu hiệu cổ điển của Hội Chứng Tự Kỷ
Trong 2 cuốn sách, được xuất bản vào những năm 2005 và 2006 (1), tôi đã
nói đến 5 triệu chứng hay là dấu hiệu chính qui và cổ điển, cần được phát hiện
và xác định, một cách cụ thể và khách quan, khi chúng ta cưu mang trong tâm
tưởng, những « nghi vấn » về Hội chứng Tự Kỷ đang thành hình và xuất diện,
nơi một trẻ em, trong khoảng thời gian từ 0 đến 7 tuổi.
- Dấu hiệu thứ nhất là đời sống bít kín : Trẻ em không có những
quan hệ tác động qua lại với những người khác, cùng có mặt trong môi trường
sinh sống, thậm chí với bà mẹ đã sinh ra mình,
- Dấu hiệu thứ hai nằm trong lãnh vực ngôn ngữ : Ngôn ngữ thiếu
vắng hoàn toàn, từ những giai đoạn bi bô, bập bẹ, hay là có những rối lọan
trong thể thức sử dụng các loại đại danh từ khác nhau như mày và tôi…
- Dấu hiệu thứ ba là những phản ứng « bùng nổ », trong lãnh vực
xúc động, kèm theo những hành vi tự hủy, làm hại chính mình, hay là những
tác phong bạo động đối với kẻ khác,
- Dấu hiệu thứ bốn là những hành vi « lặp đi lặp lại », một cách tự
động, cơ hồ một chiếc máy ghi và phát âm,
- Dấu hiệu thứ năm là những sở thích kỳ dị, lạ thường, như nhún
nhảy, quay tròn, đưa 5 ngón tay ve vẫy trước mắt, say mê nhìn ngắm những hạt
bụi, những tia nắng xuyên qua một kẻ hở, hay là sắp xếp đồ chơi thành hàng…
Thêm vào đó, vài trẻ em có những cơn động kinh nhẹ hay nặng, với những
hiện tượng như sùi bọt mép, mất ý thức, tiểu tiện trong quần và cắn răng vào
luỡi.
2 Những trọng điểm cần nhấn mạnh
Mỗi khi liệt kê và trình bày năm triệu chứng trên đây, tôi luôn luôn cố tình
nhấn mạnh thêm những trọng điểm sau đây :
a) Vừa khi chúng ta khám phá và xác định một dấu hiệu đang thành hình
và xuất hiện nơi trẻ em, công việc cần thực thi tức khắc, không trì hoản là Can
Thiệp Sớm, nhằm chận đứng hoặc giới hạn ảnh hưởng lan tỏa của dấu
hiệu nầy, trong nhiều lãnh vực phát triển khác.
b) Bao lâu tất cả 5 dấu hiệu chưa được hội tụ một cách đầy đủ, khách quan
và chính xác, cũng như khi trẻ em còn ở trong lứa tuổi tăng trưởng và phát
triển - từ 0 đến 7 năm - thái độ « khoa học » của chúng ta là khiêm cung và
dè dặt. Chúng ta không sử dụng một cách vội vàng nhãn hiệu « Hội Chứng Tự
Kỷ », bao lâu hệ thần kinh trung ương chưa hoàn tất tiến trình myêlin-hóa các
đường dây liên lạc của mình. Thay vào đó, lối nói « có nguy cơ Tự Kỷ » được
đề nghị và cần được trở nên thông dụng, trong những trao đổi thông tin giữa
các bác sĩ và chuyên viên, cũng như giữa giáo viên và phụ huynh của học sinh.
c) Ngoài ra, đối với cha mẹ đến tham vấn, những nhận định của chúng ta
về nguy cơ Tự Kỷ nơi đứa con của họ, có thể gây ra nhiều ấn tượng hoang
mang, khắc khoải, lo sợ và mặc cảm tội lỗi… nếu chúng ta không trình bày
những tin tức khoa học đơn sơ và cụ thể, cũng như đề nghị thêm những lời
hướng dẫn, hay là những cách làm thuộc khả năng và ở trong tầm hoạt
động thường ngày của họ.
d) Một cách đặc biệt, khi câu hỏi về Nguyên Nhân của Hội Chứng Tự
Kỷ được nêu lên, chúng ta cần khẳng định, một cách rõ ràng và dứt khoát là
vấn đề đang ở trong vòng nghiên cứu khoa học. Một trong những yếu tố càng
ngày càng được đề xuất, trong lãnh vực y khoa, là những rối loạn, trắc trở,
trong tiến trình tăng trưởng và phát triển của Hệ Thần Kinh trung Ương, còn
mang tên là Não Bộ. Ngoài ra, một số tác giả đã đưa ra giả thuyết về những
quan hệ lạnh nhạt, vô cảm của cha mẹ. Lối giải thích nầy, thường được nêu lên
vào những năm 1950, đã gây tổn thương một cách trầm trọng cho bao nhiêu
tầng lớp cha me. May thay, đường hướng tiếp cận vấn đề như vậy, dần dần mất
hiệu năng và tàn lụi, trong các công trình nghiên cứu ngày nay.
Nhằm phát huy tinh thần và lối nhìn Khoa Học vừa được đề xuất, bài chia
sẻ nầy sẽ lần lượt giới thiệu những tin tức bổ sung, đổi mới và có khả năng soi
sáng, cho những ai luôn luôn ở trên đường tìm kiếm.
3 Những Rối loạn Tự Kỷ Vòng Cầu (Spectrum Disorders)
Khi nói đến Hội Chứng Tự Kỷ, chúng ta cần lưu tâm đến nhiều đặc điểm
quan trọng đang có mặt với nhau, cùng một lúc :
- Thứ nhất, Hội Chứng Tự Kỷ bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau.
Trên đây, tôi đã liệt kê 5 triệu chứng, thường được nhắc lui nhắc tới, trong các
tác phẩm chuyên môn.
- Thứ hai, Tự Kỷ không phải là một Hội chứng đơn thuần và duy nhất.
Thể theo tác phẩm DMS-4 (2), được giới Y Khoa Hoa Kỳ chọn làm tài liệu qui
chiếu, Tự Kỷ còn được gọi là « Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa » (Pervasive
Developmental Disorders, PDD). Hay là rối loạn nan quạt, rối loạn vòng cầu
(spectrum disorders). Nói cách khác, đó là một Rối loạn quần thể hay là hợp
thể, bao gồm 5 thể loại khác nhau, tùy theo giai đoạn xuất hiện, cũng như tùy
vào mức độ trầm trọng khác nhau, được nhiều bác sĩ chuyên môn phát hiện, ở
nhiều thời điểm khác nhau, nơi trẻ em từ 0 đến 8 tuổi.
- Thứ ba, cũng trong tác phẩm DMS-4, năm triệu chứng cổ điển, như
tôi đã trình bày trên đây, được gom góp lại thành 3 triệu chứng đặc hiệu và
chính qui :
· Triệu chứng thứ nhất nằm trong lãnh vực Quan Hệ Xã Hội,
· Triệu chứng thứ hai nằm trong lãnh vực Ngôn Ngữ. Phải chăng đây là
phương tiện Thông Đạt,có mục đích và ý nghĩa là Diễn Tả Chính Mình và đống
thời lắng nghe, tìm hiểu quan điểm của kẻ khác,
· Triệu chứng thứ ba nằm trong lãnh vực Hành vi và Sở Thích.
- Thứ bốn, Hội Chứng được gọi là Tự Kỷ Vòng Cầu (Spectrum autism),
trong DMS-4, bao gồm 5 thể loại khác nhau :
· Rối loạn Tự Kỷ đặc hiệu và chính qui (Autistic Disorder),
· Rối loạn Asperger, còn được gọi là Tự Kỷ với trí thông minh trên
trung bình (Asperger’s Disorder),
· Rối loạn Rett (Rett’s Disorder),
· Rối loạn thoái hóa thuộc thời thơ ấu (Childhood Disentegrative
Disorder, CDD),
· Rối loạn phát triển lan tỏa: Không đặc hiệu (Pervasive Developmental
Disorder: Not otherwise Specified, PDD:NOS).
- Thứ năm, Hội chứng Tự Kỷ là một loại Rối Loạn, ở vào nhiều giai
đoạn thuộc cùng một tiến trình lan tỏa, từ lãnh vực sinh hoạt nầy sang qua
những lãnh vực khác, trong đời sống của con người. Do đó, khi mô tả các dấu
hiệu cơ bản, cũng như khi đề nghị những thể thức can thiệp nơi trẻ em, chúng
ta không thể không đề cập, một cách đồng đều, tất cả 5 loại sinh hoạt cơ bản
khác nhau, nhưng có ảnh hưởng tác động qua lại hai chiều trên nhau (3) :
· 1) Loại sinh hoạt thứ nhất là: Nhận thức giác quan và Tâm Vận Động,
còn gọi là Cửa Vào của Nội Tâm (Input),
· 2) Loại sinh hoạt thứ hai là: Tư duy,
· 3) Loại sinh hoạt thứ ba là : Xúc động,
· 4) Loại sinh hoạt thứ bốn là : Ngôn ngữ trao đổi và giao tiếp,
· 5) Loại sinh hoạt thư năm là : Quan hệ tác động qua lại trong đời sống
xã hội, còn gọi là Cửa Ra (Output).
· Cả 3 sinh hoạt ở giữa – Tư duy, Xúc động và Ngôn ngữ - thuộc về
Tiến trình biến chế, chuyển hóa (Processing) của Nội tâm. Theo lối giải thích
bình dân, Processing trong tiếng Anh có nghĩa là “kho nấu”, chuyển biến
những vật liệu góp nhặt từ môi trường, thành của ăn nuôi sống con người.
· Tôi đã định vị trí loại sinh hoạt « Quan Hệ tác động qua lại », ở Cửa
Ra. Tuy nhiên, ở tại Cửa Vào, Quan Hệ cũng phải có mặt và đảm nhiệm một
vai trò rất quan trọng, khả dĩ nâng cao phẩm chất của Nhận thức Giác Quan.
Nói khác đi, Quan Hệ cũng là một loại kích thích có khả năng tăng cường hay
là giảm hạ giá trị của các loại kích thích khác. Chẳng hạn, khi có những cảm
tình đặc biệt với một vị thầy, phải chăng tôi sẵn sàng thu hóa những bài dạy của
vị ấy một cách dễ dàng và mau chóng hơn ?
Thay vi triển khai một lối nhìn bao quát và toàn diện như vậy, nhiều tác giả
hay là giáo viên, chỉ tập trung khả năng chú ý và thể thức tác động vào 1 hoặc 2
lãnh vực chủ yếu mà thôi, ví dụ như quá đề cao lãnh vực ngôn ngữ và không
đánh giá đúng tầm những lãnh vực khác như Xúc động và Giác quan
Vì lý do « siêu ý định và siêu chú ý » như vậy, khi tìm cách hóa giải một
triệu chứng, chúng ta vô tình tạo ra điều kiện thuận lợi, cho một triệu chứng
phó sản khác xuất hiện và khó khắc phục hơn. Cho nên, ích lợi gì, khi trẻ em
suốt ngày phải học lặp đi lặp lại một đôi từ hay là một đôi câu, một cách máy
móc tự động, như keo vẹt, để rồi sau đó trở nên bị động và ù lì hoàn toàn trong
các tác phong hằng ngày, xuyên qua mọi quan hệ với người lớn thuộc môi
trường gia đình ? Ích lợi gì, khi chúng ta tìm cách ức chế hoặc trừng phạt một
hành vi kỳ dị và lạ thường, nếu sau đó, trẻ em càng ngày càng cố thủ trong một
nếp sống bít kín và cắt đứt mọi quan hệ xã hội với mọi người ?
Trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, nhằm bổ túc những gì còn thiếu sót,
trong 2 tác phẩm đã được xuất bản, tôi sẽ lần lượt trình bày những nét đặc
trưng, thuộc mỗi Hội Chứng của « Tự Kỷ Vòng Cầu ». Một loạt bài chia sẻ
khác sẽ từ từ bàn về những điều kiện thiết yếu, khi chúng ta xây dựng những kế
hoạch tác động, trong những chương trình can thiệp sớm. Một cách đặc biệt, tôi
sẽ nhấn mạnh thể thức can thiệp và tác động ở CỬA VÀO.
4 Rối loạn Tự Kỷ Chính Qui và Đặc Hiệu (Autistic Disorder)
Danh xưng « Tự Kỷ » (Autism) đã được Bác Sĩ Eugen BLEULER, người
Thụy Sĩ (1857-1939) sử dụng lần đầu tiên, để mô tả triệu chứng nỗi bật nhất
của chứng bệnh Tâm Thần Phân Liệt nơi người lớn (Schizophrenia).
Vào năm 1943, Bác Sĩ Leo KANNER, người Mỹ gốc Áo, đã mượn lại danh
xưng nầy, để mô tả Hội Chứng Tự Kỷ, được quan sát và phát hiện nơi 11 trẻ
em, giữa 2 đến 8 tuổi, trong suốt thời gian từ 1938 đến 1943 (4). Trong những
năm kế tiếp, nhiều bác sĩ khác đã phát hiện nhiều hội chứng mới, có liên hệ ít
nhiều với Hội Chứng Tự Kỷ nơi trẻ em, do Leo Kanner đã khám phá lần đầu
tiên.
Mẫu số chung, khả dĩ nối kết lại với nhau tất cả 5 Hội Chứng thuộc Tự Kỷ
Vòng Cầu, bao gồm 3 loại triệu chứng được gọi là « Chính Qui và Đặc Hiệu ».
Nếu một trong ba thiếu vắng, không được xác định một cách khách quan và
khoa học, Hội Chứng Tự Kỷ Vòng Cầu, còn mang tên là Rối Loạn Phát triển
Lan tỏa, sẽ không có lý do tồn tại.
Những dấu hiệu khác còn lại, ngoại trừ 3 Triệu Chứng Đặc Hiệu và Chính
Qui, chỉ tạo nên những nét khác biệt giữa 5 Hội Chứng với nhau. Nhằm xác
định những yếu tố phụ thuộc nầy, chúng ta cần khảo sát và khám phá thời điểm
xuất hiện, mức độ trầm trọng, cũng như vai trò nhận thức bị hạn chế và quá thu
hẹp của các giác quan khác nhau, có mặt trong các Rối Loạn nầy.
Triệu Chứng thứ nhất : Những rối loạn trong quan hệ tương tác giữa trẻ
em và các thành viên khác thuộc môi trường gia đình và xã hội, gồm có những
người lớn và các trẻ em cùng lứa tuổi.
· Các em thu hẹp hay là đóng kín mình, trong vũ trụ hoàn toàn riêng tư
của mình,
· Các em không tìm cách tạo quan hệ gắn bó, hay là tác động qua lại hai
chiều, với người lớn chung quanh, hoặc với trẻ em khác cùng lứa tuổi. Thậm
chí với người mẹ sinh ra mình, hoặc với anh chị em sinh đôi, các em cũng
không tham gia hoặc khởi động các trò chơi đơn giản như : « cúc cù, trốn
tìm »…
· Người khác không được nhìn nhận và đón nhận như một chủ thể
giống như mình, có khả năng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, cùng bao nhiêu
kinh nghiệm và cảm nghiệm, trong đời sống thường ngày. Trái lại, họ chỉ được
đối xử như là một dụng cụ hoặc phương tiện, được các em dùng, để thâu đạt
một mục đích. Ví dụ trẻ em chỉ cầm tay mẹ, dẫn mẹ đi lấy nước uống cho
mình, thay vì dùng lời nói hay cử chỉ, để diễn tả nhu cầu và nguyện vọng. Sự
kiện nầy có thể được chấp nhận một phần nào, khi trẻ em không biết nói. Trong
thực tế, với những trẻ em có khả năng nói, phát âm và đọc chữ…ngôn ngữ vẫn
không phải là một dụng cụ để tạo quan hệ trao đổi qua lại, diễn tả ý định của
mình và tìm hiểu nhu cầu của người đối diện.
· Một cách vắn gọn, tôi xin liệt kê một số dấu hiệu quan trọng khác
như : - không có lối nhìn trực diện mắt nhìn mắt,
- không phân biệt người lạ và quen, mặc dù tuổi đời đã vượt quá
một năm,
- chung quanh 3-4 tháng, không biết mỉm cười với người thân, như
bà mẹ của mình,
- không tìm cách bắt chước bạn bè, để làm như, làm giống, làm
với…
Chính vì những lý do vừa được liệt kê, bốn động tác « Xin, Cho, Nhận và
Từ chối », một cách thanh thản, hài hòa, trong lãnh vực quan hệ giữa người với
người, là bốn bài học rất cơ bản, nhưng rất khó học và khó làm, đối với tất cả
mọi người, không trừ sót một ai. Cho nên 4 bài học nầy phải bắt đầu được dạy,
với mỗi trẻ em, Tự Kỷ hay Không Tự Kỷ, từ khi vừa lọt lòng mẹ.
Triệu chứng thứ hai : Những rối loạn trong lãnh vực diễn tả và thông đạt
sở thích, ý định và nhu cầu của mình.
· Mặc dù có khả năng phát âm, lặp lại các từ, đọc nhiều chữ hoặc nhiều
câu, trẻ em không biết trao đổi, chuyện trò qua lại với một người thứ hai,
· Khi phát biểu, trẻ em thường hay lẫn lộn hai đại danh từ ngôi thứ nhất
và ngôi thứ hai, tôi và mầy…
· Lặp lại như một chiếc máy phát âm, thậm chí những câu khá dài. Trẻ
em hoặc lặp lại tức khắc, sau khi ghi nhận, hay là sau một thời gian cách
khoảng,
· Không có khả năng hình dung hoặc giả bộ, như trong các trò chơi nấu
ăn và mời nhau ăn…
· Không dùng những cử điệu « hình tượng », như vẫy tay chào tạm biệt,
lúc ra đi,
· Không dùng ngôn ngữ có lời, hay là không lời như cử điệu, nét mặt…
để diển tả, thông đạt, trao đổi với người khác về ý định của mình, hay là tìm
hiểu nhu cầu của kẻ khác.
· Không nhìn theo hướng ngón tay, khi mẹ đưa tay chỉ một vật dụng.
Trẻ em cũng không biết đứng từ xa đưa tay chỉ một đồ chơi mong muốn.
· Nói cách chung, ngôn ngữ, mặc dù có mặt, không phải là một dụng cụ,
một phương tiện nhằm tạo ra nhịp cầu trao đổi, nối kết và đồng cảm với kẻ
khác.
Triệu chứng thứ ba : Những rối loạn trong thể thức tiếp cận các sự vật
và các sự cố, có mặt trong cuộc sống thường ngày.
Nhằm minh họa triệu chứng nầy, tôi bắt đầu nêu lên những sự kiện cụ thể
và khách quan, được diễn đi diễn lại, trong cuộc sống thường ngày của trẻ em
có nguy cơ Tự Kỷ :
· Thay vì tiếp cận từng đồ chơi, theo chức năng tự nhiên của mình, ví dụ
như ngòi bút chì dùng để vẽ, trái banh dùng để ném ra xa hay là đưa chân đẩy
mạnh tới đằng trước…trẻ em chỉ xếp thành hàng với nhau, kề sát nhau
những đồ chơi của mình. Trẻ em có thể làm như vậy, một cách say mê suốt
ngày. Thoảng hoạt, trẻ em dừng lại, đi quanh đó đây hay là làm một động tác
khác… Nhưng sau đó, trẻ em lại trở lui với « công trình sắp xếp thành hàng »
những đồ vật và đồ chơi của mình. Trẻ em sẽ bùng nổ, la hét, tức giận, bực bội,
khi có người cất lấy đi, dời chỗ, hay là thay đổi thứ tự.
· Trẻ em cũng khư khư bám sát, bám chặt vào những chương trình,
thứ tự, nghi thức, cách tổ chức, trong các sinh hoạt hằng ngày. Một vài thay
đổi nho nhỏ không được báo trước hay là được chuẩn bị, trong các nề nếp và
qui luật bất di bất dịch ấy, sẽ tạo nên nơi trẻ em, những cơn khủng hoảng trầm
trọng, những cuộc bùng nổ rộn ràng, những phản ứng chống đối gay gắt.
· Hình dung một cảnh tượng sắp xãy ra hoặc đang có mặt ở một nơi
khác, thao tác những trò chơi giả bộ, hay là tìm hiểu ý nghĩa trừu tượng và
hình tượng của một bức tranh, một câu chuyện… tất cả những sinh hoạt ấy
hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng tiếp thu và hiểu biết của một trẻ em có nguy
cơ Tự Kỷ.
Tất cả ba loại sự kiện ấy cho chúng ta thấy rõ : Trẻ em có Hội Chứng Tự
Kỷ chỉ sống hạn hẹp trong giây phút hiện tại, ở đây và bây giờ. Những gì
không có mặt trong hiện tại, hay là những gì sắp xãy ra trong tương lai gần và
xa, đối với các em, là những gì không hiện hữu, là số không.
Cho nên, đặt mình vào vị trí của kẻ khác, đồng cảm với họ, tìm hiểu ý định
và nhu cầu của họ, là những khả năng mà các em không thể HỌC và TẬP
LUYỆN. Sở dĩ như vậy, vì các em từ những giây phút đầu tiên của cuộc đời, đã
không học THẤY như kẻ khác thấy, học NGHE như kẻ khác nghe, học CẢM
XÚC và TIẾP CẬN với LÀN DA, như kẻ khác, với kẻ khác và nhờ kẻ khác.
Nói cách khác một cách đơn sơ và vắn gọn, không học sử dụng CỬA VÀO
làm bằng mắt, tai và làn da, làm sao chúng ta có thể đi vào Nội Tâm và phát
huy Nội Tâm ?
Trong lăng kính ấy, Can Thiệp Sớm, như sau này tôi sẽ nhấn mạnh, là can
thiệp ở Cửa Vào, từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Phải chăng đó là bài học
mà thú vật đang đề nghị cho loài người : Chẳng hạn con mèo mẹ, tức khắc sau
khi sinh con, đã liếm da của con, liếm mắt của con, liếm tai của con…Nhờ đó,
con mèo con từ từ có khả năng thấy, nghe và cảm xúc, giống như con mèo mẹ
(4).
5 Hội Chứng hay là Rối Loạn ASPERGER (Asperger’s Disorder)
Hội Chứng Asperger do chính Bác sĩ Hans ASPERGER phát hiện vào năm
1944, khi quan sát một nhóm gồm có 4 trẻ em từ 6 đến 11 tuổi.
Ngoài 3 triệu chứng đặc hiệu, như đã được nói tới trước đây, trong Rối
Loạn Tự Kỷ, những trẻ em nầy có thêm những dấu hiệu riêng biệt sau đây :
· Gần như mọi trẻ em mang Hội Chứng Asperger đều biết nói. Sống
giữa các trẻ em khác, các em loại nầy cũng học nói.
· Hội Chứng Tự Kỷ đặc hiệu được phát hiện rất sớm, khi trẻ em lên 2-3
tuổi hay là sớm hơn. Ngày nay, các nhà chuyên môn về loại trẻ em nầy, đã có
khả năng phát hiện một vài dấu hiệu báo động, vào những tuần lễ đầu tiên, sau
ngày sinh. Trái lại với những trẻ em mang Hội Chứng Asperger, công việc phát
hiện chỉ có thể bắt đầu, sau khi trẻ em lên 2 tuổi. Trong rất nhiều trường hợp,
kết quả chỉ được xác định một cách dứt điểm và rõ ràng, giữa 7 và 8 tuổi.
· Một số lớn trẻ em mang Hội Chứng Tự Kỷ đặc hiệu cũng thuộc diện
trẻ em chậm phát triển trí tuệ. Chỉ số IQ thường ở dưới 50-60. Trái lại, với trẻ
em mang Hội Chứng Asperger, trí thông minh thuộc loại trung bình và trên
trung bình. IQ của một vài trẻ em vượt chỉ số 120-130.
· Với Rối Loạn Asperger, trẻ em vẫn có ngôn ngữ và có khả năng trao
đổi, tiếp xúc. Tuy nhiên lý luận của các trẻ em thuộc loại nầy có những hình
thức rườm rà, vòng vo và khó hiểu. Trẻ em có thể dùng ngôn ngữ, để trao đổi
với người khác, xuyên qua những hình thức đơn sơ, vắn gọn. Trái lại, trẻ em
không có khả năng chủ động và điều động một cách thích hợp, những quan hệ
tác động qua lại, với nhiều giai đoạn tiến tới và đòi hỏi nhiều lý luận sáng tạo…
· Xét về số lượng, trong 4 trẻ em mang Hội Chứng Asperger, trung
bình có 3 trai và 1 gái.
6 Rối Lọan RETT
Vào năm 1960, một bác sĩ, người Áo, có tên là Andreas RETT, và ít lâu
sau đó, một bác sĩ người Thụy điển có tên là Bengt HAGBERG, đã phát hiện,
nơi những trẻ em thuộc phái nữ mà thôi, những triệu chứng như sau :
· Thiếu phối hợp và hòa nhịp, trong những vận động và cử động, tay
chân co quắp, cong quẹo, cho nên trẻ em khi đi đứng, di chuyển, dễ té ngã, vấp
váp, mất quân bình.
· Trí thông minh hạn hẹp,
· Ngôn ngữ nghèo nàn và thoái hóa dần dần,
· Từ 0 đến 6 tháng đầu tiên, trẻ em phát triển bình thường. Sau đó, một
vài triệu chứng tư từ xuất hiện, trong vấn đề phối hợp tay chân.
· Lên tới lứa tuổi 48 tháng, những rối loạn của Hệ Thần Kinh Trung
Ương trở nên rõ ràng và càng ngày càng trầm trọng.
Trong cách xác định và phát hiện, vì sự có mặt của ba triệu chứng cơ bản có
liên hệ đến những vấn đề quan hệ xã hội, ngôn ngữ thông đạt và hành vi, Rối
Loạn RETT được xếp lọai vào trong Hội Chứng Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa.
7 Rối Loạn Thoái Hóa thuộc thời thơ ấu (CDD)
· Xét về mặt thời gian, Hội Chứng CDD xuất hiện chậm hơn, so với hai
Hội Chứng Tự Kỷ Đặc Hiệu và RETT.
· Khác với Rối Loạn RETT, Hội Chứng CDD xuất hiện nơi trẻ em
thuộc cả 2 phái nam và nữ, sau 8-9 tuổi.
· Hội Chứng nầy xuất hiện với tỷ lệ rất nhỏ: 1trên tổng số 100 000 trẻ
em.
· Trẻ em, sau khi mắc hội chứng nầy, có cả 3 triệu chứng, giống như
trong Hội Chứng PDD đặc hiệu.
· Trước khi mắc hội chứng nầy, trẻ em đã phát triển một cách hoàn toàn
bình thường, thậm chí trong lãnh vực vận động. Trái lại trong Hội Chứng
RETT, các trẻ em đã có những rối loạn nho nhỏ trên bình diện phối hợp tay
chân và các giác quan với nhau. Chính yếu tố quan trọng nầy xác định sự khác
biệt giữa RETT và CDD.
· Với 2 Hội Chứng RETT và CDD, vì nguyên nhân là những hiện tượng
thoái hóa của Não Bộ, trong những điều kiện hiện tại của y khoa, chưa có một
trường hợp nào được phục hồi, sau khi các hội chứng đã xuất hiện và được phát
hiện.
8 Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa: Không Đặc Hiệu (PDD: NOS)
Trên đây, khi bàn đến Hội Chứng Tự Kỷ hay là Rối Lọan Phát Triển Lan
Tỏa (PDD), tôi đã nhấn mạnh lui tới:
· Khi tất cả triệu chứng chính qui chưa được hội tụ, một cách đầy đủ,
chính xác và khách quan,
· Khi trẻ em chưa lên 7 tuổi,
· Cũng như khi chúng ta đang còn áp dụng Chương Trình Can Thiệp
Sớm, vừa khi trẻ em có một thoáng dấu hiệu báo động, chung quanh lứa tuổi 1
năm,
· Dấu hiệu báo động có thể chỉ là hành vi hơi lăng xăng, ngôn ngữ chậm
trể, thiếu chú ý, tính tình nhút nhát…
Lúc bấy giờ chúng ta chỉ dùng lối nói “Nguy Cơ Tự Kỷ”.
Thay vào danh xưng ấy, DMS-4 đã dùng nhãn hiệu PDD: NOS có nghĩa là
Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa: Không Đặc Hiệu. Cụm từ “Không Đặc Hiệu”, ở
đây có nghĩa là CHƯA và KHÔNG trầm trọng, vì không rõ ràng và chính xác.
Tuy nhiên, trong lối nhìn của tôi, không phải vì chưa trầm trọng mà chúng ta
không cần can thiệp lập tức và một cách dứng đắn và thích hợp. Hẳn thực, một
que diêm nho nhỏ, nếu không được dập tắt, có thể gây ra một đám cháy, cho cả
một khu rừng lớn lao.
Kết Luận
Nhằm kết luận, tôi nêu lên câu hỏi: Điều gì có tầm mức quan trọng bậc
nhất, mà chúng ta cần nhận diện và đối diện, một cách sáng suốt, can đảm và
nghiêm chỉnh, khi tiếp cận một trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ?
Tự Kỷ là gì, nếu đó không phải là vấn đề của một trẻ em ĐANG thiếu khả
năng tạo quan hệ tiếp xúc và giao tiếp, với những người chung quanh, bắt đầu
từ mẹ, cha và anh chị em trong gia đình?
Thế nhưng, để học và dạy bài học tạo quan hệ có chất lương xây dựng và
đóng góp, một cách năng động, với những người đang chung sống, chính chúng
ta đang có những hành trang thiết yếu nào, trong cuộc sống làm người?
Trong xã hội và thế giới văn minh, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, để
giải quyết những vấn đề xung đột, người Mỹ đang lên kế hoạch xây cất một
bức vạn lý trường thành, giữa Mexique và Hoa Kỳ, dài 2 200 cây số và tốn kém
ước chừng 1 tỷ 200 triệu đô la. Một bức vạn lý trường thành khác đang có mặt,
tại biên giới giữa Israel và Palestine, từ bao nhiêu năm nay Người A rập theo
Hồi giáo đang hô hào tìm cách ám sát Giáo Chủ Benoit thứ 16, sau bài diễn văn
đọc tại Đại Học Regensburg, Đức…
Khi con người khắp đó đây, đang xây lên những bức vạn lý trường thành
giữa mình với người khác…làm sao một trẻ em Tự Kỷ có khả năng và điều
kiện thuận lợi, để bắc lại những nhịp cầu trong cuộc đời làm người của mình?
Tôi thắp một nén hương, khấn vái những vị Bồ Tát hãy can trường xuất
hiện, đi ra nối lại những con đường đang bị đứt đoạn, trong lòng người và lòng
Quê Hương.
Lausanne ngày 1-10-2006
NGUYỄN văn Thành
Bí Chú:
1) NGUYỄN văn Thành – Trẻ Em Tự Kỷ - nXB Tôn giáo, Tp HCM,
2006.
NGUYỄN văn Thành – Nguy Cơ Tự Kỷ -UBBAXH, Tp HCM, 2006.
2) Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Fourth
Edition, Washington, DC, American Psychiatric Association, 1994.
- Diagnostic Criteria for 299.00 Autistic Disorder,
- Diagnostic Criteria for 299.80 Rett’s Disorder,
- Diagnostic Criteria for 299.10 Childhood Disintegrative Disorder,
- Diagnostic Criteria for 299.80 Asperger’s Disorder,
- Diagnostic Criteria for 299.80 Pervasive Developmental Disorder:
Not Otherwise Specified (Including Atypical Autism.
POWERS M.D. – Children with Autism – Woodbine House, 2000 USA.
3) NGUYỄN văn Thành – Những Sinh Hoạt của Con Người –
www.cndkt.net
4) GRANDIN Temple – L’Interprète des Animaux – Odile Jacob, Paris
2006.
Sách Tham Khảo :
5) BELHASSEN M. – L’Enfant Autiste – Audibert, Paris 2006.
6) DONVILLE B. – Vaincre L’Autisme – Odile Jacob, Paris 2006.
7) MORAR T. – Ma Victoire sur l’Autisme – Odile Jacob, Paris 2004.
N.B. Đón đọc bài chia sẻ tiếp theo: “Những đường hướng trong chương
trình can thiêp sớm, khi một trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ