Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp bảo tồn, sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu bttnkon chư răng, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.5 MB, 109 trang )

1

MỞ ĐẦU

Trong cuộc sống ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển những vấn đề về sức khỏe con người ngày càng được quan tâm hơn bao
giờ hết. Khoa học ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng
được tăng lên, càng muốn hướng tới một cuộc sống mà ở đó có sự phát triển
bền vững. Những sản phẩm được con người ưu tiên sử dụng là những sản
phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
Việt Nam là nước có truyền thống lịch sử lâu dài với hơn bốn nghìn
năm dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển. Trong thời gian dựng nước
và giữ nước đó rất nhiều những bài học, kinh nghiệm dân gian đã được người
dân đúc rút thành những kinh nghiệm và truyền từ đời này qua đời khác. Một
trong những sản phẩm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của con người được
người dân hết sức quan tâm đó là việc sử dụng những cây cỏ làm thuốc để
chữa bệnh. Từ thủa xa xưa cho đến ngày nay đồng bào các dân tộc anh em
trên đất nước ta đã không ngừng tìm tịi nghiên cứu, sử dụng nguồn tài
ngun cây thuốc chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự
phát triển của khoa học kỹ thuật đã minh chứng cơ sở khoa học của những
cây thuốc qua thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn … chúng ta càng
thấy rõ tác dụng của nó. Theo thống kê nước ta có hơn 12.000 lồi thực vật
bậc cao có mạch thì có tới 4.472 lồi cây sử dụng làm thuốc [1]. Bên cạnh đó
cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội một cách nhanh chóng thì chúng ta
đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi môi trường ngày càng ô
nhiễm, thiên tai xảy ra liên tiếp cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều loại
bệnh tật mới mà thuốc tây vẫn chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, ngày nay tất cả
các nước trên thế giới đang hết sức quan tâm tới việc sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên cây thuốc.
Cũng như nhiều Khu bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia khác trong
nước, Khu bảo tồn thiên thiên Kon Chư Răng, tỉnh Gia Lai có hệ thực vật nói


chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng đang bị suy giảm cả về số lượng cũng
như chất lượng [2]. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng cho đến nay


2

các cơng trình nghiên cứu về cây thuốc vẫn chưa được quan tâm và chú ý
nhiều. Xuất phát từ vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá
hiện trạng và đề xuất giải pháp bảo tồn, sử dụng tài nguyên cây thuốc tại
KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai” để hoàn thiện nghiên cứu luận văn
thạc sĩ của mình.


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
Ngay từ khi loài người xuất hiện, con người đã biết sử dụng các loài
thực vật để phục vụ cuộc sống của mình như cây làm thức ăn, nhà ở, cây làm
thuốc, đầu độc chim, thú…Từ những kinh nghiệm đó, dần dần hình thành một
khoa học gọi là Thực vật dân tộc học. Khoa học này nghiên cứu các mối quan
hệ giữa các dân tộc khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của
họ. Mỗi quốc gia đều có những nền y học cổ truyền riêng, đặc biệt trong đó
có những kinh nghiệm tìm kiếm và sử dụng những cây thuốc để phòng và trị
bệnh ở người, vật nuôi. Những ghi chép đầu tiên về cây thuốc được tìm thấy
cách đây hơn 5 ngàn năm, đó là những nét khắc trên đất sét của người
Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xưa (là Irắc ngày nay), đề cập đến sử dụng
cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc cũng bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy

nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc xuất hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục Quỳ (Althea officinalis), cây
Lan Dạ Hương (Hyacinthus sp.) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) được cất
giữ quanh bộ xương người có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Irắc. Cho đến nay
giá trị làm thuốc của ba loài thực vật kể trên vẫn được thừa nhận. Điều này
cho thấy, trên thực tế, thực vật được dùng làm thuốc xuất hiện trước khi có sự
ghi chép của sử sách.
Sử dụng cây thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức
độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc là một
trong những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Trong cuốn sách
“Thần Nông bản thảo”, 365 vị thuốc có giá trị đã được Vua Thần Nông (3320
– 3080 trước Công nguyên) thống kê lại. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được
sử dụng cho tới ngày nay như cây Gai mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây
Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong. Vào thời
Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương
nang (túi thơm) để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông


4

cịn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khơ cho vào chiếc gối (hương chẩm) để
điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168
trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê
52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã
thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”.
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000
năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh
thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp
loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và
cuốn Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi

Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về
nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu
trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học
của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng
cơng nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của
Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có
hoạt tính từ thực vật.
Những hiểu biết về thảo mộc của người Hy Lạp và Roma gắn liền với
nền văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Người Hy Lạp cổ xưa chịu ảnh
hưởng của người Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là
thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ của y học hiện
đại khi ông là người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và
thuốc chính là thức ăn của bạn”.
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu
được các thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài
liệu về thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết
cuốn sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ơng lại xuất bản cuốn
“The English Physician”. Đây là cuốn dược điển có giá trị và là một trong
những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tượng sử dụng,
người khơng chun có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho
đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi.


5

Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trị quan
trọng đối với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ
truyền và các bác sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới tồn
bộ dân số của các nước châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia
có khoảng 30.000 – 40.000 người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng

600 người. Tương tự ở Malawi có khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc
cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia
Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng.
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà
khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất
hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có
giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng
sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn
do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy,
các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp
chất tự nhiên đã được giải mã về cấu trúc, những hợp chất này được chiết xuất
từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc được giải mã, người ta có thể tổng
hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập được
chất Glucosid barbaloid từ cây Lơ hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi
khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã
chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn
nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), người ta
đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập
được một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác
dụng kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng
kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp
được chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfia spp.). Đặc biệt, Vinblastin và
Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung
thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin được chiết xuất từ cây Dương
địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất từ cây Sừng dê
(Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu


6


trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa
bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt
tính chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng
chữa bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây
thuốc. Chẳng hạn như chất khống, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều chất
khác đóng vai trị quan trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính
chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó,
các hợp chất được phân lập và tổng hợp có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng
vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc đối với
cơ thể. Trước đây, việc sử dụng thảo dược để chữa bệnh thường bị hiểu lầm với
phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh được
khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm tới cây
thuốc cũng như phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 lồi
thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp
làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng
nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 lồi, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500
lồi thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược
ngày càng cao.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương
pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ.
Trung Quốc là nước đơng dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển
nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số lồi (khoảng trên 4.000
lồi) là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nước
này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét
ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu
quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng
đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số

nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế
từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc


7

thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.
Theo số liệu của trung tâm thương mại quốc tế từ năm 1976, các nước
công nghiệp phát triển đã nhập khẩu hơn 300 triệu USD và đến năm 1980 con
số này đã tăng lên 551 triệu USD. Chỉ tính riêng 12 loại dược liệu có nhu cầu
sử dụng cao ở Mỹ là Bạch quả, Sâm Triều Tiên, Tỏi, Valeriana officinalis, …
từ năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD. Đến năm 2003, thị
trường thảo dược toàn cầu đã vượt mức 60 tỷ USD hàng năm và con số này
vẫn tiếp tục tăng.
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức
khỏe ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm.
Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các
hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên
nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 lồi
thực vật mà cơ quan này lưu giữ thơng tin có tới 30.000 lồi được coi là đang
bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều lồi là cây
thuốc q hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như ở Bangladesh, một số
cây thuốc quý như Tylophora indicia (để chữa hen), Zannia indicia (thuốc tẩy
xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc
(Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái
Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên
tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số
bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này. Ở Trung Quốc, loài

Dioscorea sp đã từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn,
nhưng hiện nay số lượng bị giảm đi rất nhiều, có lồi đã phải trồng lại. Một
vài lồi cây thuốc dân tộc quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ
nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ còn phân bố ở 1 đến 2 điểm với
số lượng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của
các loài cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên
dược liệu và do môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của


8

con người. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức
độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số
liệu của tổ chức Nông Lương (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm
(1940 – 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước
tình khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dược đang ngày càng được
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục
vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con người.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở VIỆT NAM
Nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phương
thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những
kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lưu
truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
và ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta
có khoảng 12.000 lồi thực vật bậc cao có mạch, 800 lồi rêu, 600 lồi nấm
và hơn 2.000 lồi tảo [3], [4], [5]. Có khoảng trên 3.000 loài thực vật bậc cao
dùng làm thuốc.

Trong cuốn sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tư Y
Thư” của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại
bệnh trong đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được
xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam [6]. Đến
thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y
Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật, các
đặc tính chữa bệnh [7].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam
chịu nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh
mới được mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc
đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây
thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của
Lecomte xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả và phân loại


9

hơn 7.000 loài thực vật [8]. Đến năm 1952 tác giả Petelot P. A. cho ra cuốn
sách “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050
trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật [9]. Tuy nhiên cuốn sách này
chưa hồn thiện về mơ tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các
loại thảo mộc.
Phạm Hoàng Hộ đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” vào năm
1999-2000 tuy chưa giới thiệu được hết hệ thực vật Việt Nam nhưng phần
nào cũng đưa ra được cộng dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [10] [11]
[12]. Năm 2006 ông cũng cho ra cuốn sách “ Cây có vị thuốc Việt Nam” cũng
đưa chọn lọc ra rất nhiều loài cây được sử dụng làm thuốc [13]. Đỗ Tất Lợi
(1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái
bản vào năm 1999 [14]. Cơng trình này thống kê gần 800 lồi cây, con và vị
thuốc, trong đó nhiều lồi thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố,

cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng.
Cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, do Võ Văn Chi (1997) biên
soạn đã mơ tả được 3.200 lồi cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500
lồi thuộc 1.050 chi, được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của
Takhtajan [15]. Tác giả đã trình bày về cách nhận biết, các bộ phận được
sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, cơng
dụng của các loài thực vật. Đến năm 1999-2002, Võ Văn Chi và Trần Hợp
tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mơ tả khoảng
6.000 lồi thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái,
phân bố và cơng dụng [16].
Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 lồi cây
có ích” [17]. Trong số các lồi thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam
có 76 lồi cho nhựa thơm, 160 lồi có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600
chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 lồi tre nứa, 40 lồi song mây.
Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều lồi có cơng dụng làm thuốc. Cũng
trong năm 1995, Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý quanh ta” [18].
Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc được các nhà khoa
học của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài nguyên


10

thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001 –
2002) các tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều lồi thực
vật có tinh dầu của Việt Nam [19]. Năm 2005, Lã Đình Mỡi và cộng sự giới
thiệu tiếp cơng trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học” đây
được coi là những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và tương đối hồn chỉnh về
nguồn tài nguyên thực vật có chứa các chất có hoạt tính sinh học được sử
dụng làm thuốc ở nước ta [20].

Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã cơng bố bộ sách “Danh
lục các lồi thực vật Việt Nam” [21]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông
tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái
và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu danh pháp các loài
thực vật.
Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu
tư cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ
truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ
bản, đặc biệt là chương trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược
liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi tồn quốc. Đến nay ở nước ta có
khoảng 3.948 loài cây thuốc được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực
vật bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm [22].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRI THỨC VÀ KINH NGHIỆM SỬ
DỤNG CÂY THUỐC CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
Các dân tộc thiểu số nói chung, do đời sống gắn liền với khai thác sử
dụng thực vật nên có nhiều kinh nghiệm và tri thức quý trong quá trình chế
biến, sử dụng thực vật, đặc biệt là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc. Tuy
nhiên, các tri thức và kinh nghiệm dân tộc thường được sử dụng và lưu truyền
trong một phạm vi hẹp (dân tộc, dịng họ, gia đình), vì vậy khơng được phát
huy để phục vụ cho xã hội và có nguy cơ thất thoát rất cao. Nhận thức được
tầm quan trọng này, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nghiên cứu cây thuốc
dân tộc được đặc biệt quan tâm tại một số cơ sở của nước ta và đã thu được
nhiều kết quả khả quan.


11

Kết quả điều tra được ghi nhận từ các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
của cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước. Các nhà khoa học

thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về trí thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ
truyền của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây
như: Điều tra nghiên cứu về tri thức sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng
dân tộc Cơ Tu và Vân Kiều tại vùng đệm VQG Bạch Mã của tác giả Ninh
Khắc Bản và cộng sự năm 2013 [23]; Đa dạng nguồn tài nguyên thực vật tại
KBTTNXuân Nha, tỉnh Sơn La của tác giả Trần Huy Thái năm 2012 [24]
Năm 2001, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã nghiên cứu cây thuốc của đồng
bào Thái ở Con Cuông, Nghệ An [25].
Nhiều cơng trình điều tra về thành phần lồi và kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được tiến hành trong những
năm vừa qua. Nhiều nghiên cứu về cây thuốc đã được phòng Thực vật dân tộc
học thuộc Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật thực hiện với các công đồng
dân tộc thiểu số như: H’ Mơng, Dao, Tu Dí, Mường … tại một số tỉnh chủ yếu
ở Tây bắc. Ngồi ra cịn nhiều các nghiên cứu của nhiều tác giả như: Trần
Văn Hải và cộng sự nghiên cứu khá chi tiết về các loài thực vật làm thuốc
được đồng bào dân tộc H’ Mông sử dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng
Liên-Văn Bàn[26]. Nguyễn Phương Hạnh, Nguyễn Quốc Bình nghiên cứu đa
dạng cây thuốc thuộc ngành ở VQG Chư Yang Sin [27]. Đỗ Sĩ Hiến, Đỗ Thị
Xuyến đã nghiên cứu các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại
KBTTNHang Kia-Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận [28] . . . Kết quả của
các nghiên cứu trên cho thấy các dân tộc nước ta có nhiều tri thức quý giá và
kinh nghiệm sử dụng cây thuốc độc đáo để phòng và chữa bệnh.
Nhiều bài thuốc dân tộc có hiệu quả chữa trị cao đã được thu thập và
đưa vào nghiên cứu thực nghiệm. Đồng thời, đã phát hiện nhiều loài cây
thuốc mới; đặc biệt là các cơng dụng mới của nhiều lồi cây thuốc. Như vậy,
nghiên cứu cây thuốc truyền thống của các dân tộc thiểu số đã góp phần sử
dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên cây thuốc ở nước ta.



12

Cùng với việc điều tra thành phần loài, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
của các cộng đồng thiểu số; nghiên cứu sàng lọc các bài thuốc dân tộc sử
dụng rộng rãi góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã
hội được chú trọng nghiên cứu trong những năm gần đây. Từ kinh nghiệm
truyền thống của các dân tộc đã có những nghiên cứu và sản xuất thành công
các loại thuốc chữa bệnh cho người dân. Có thể nhận thấy, nghiên cứu cây
thuốc dân tộc khơng chỉ góp phần sử dụng bền vững nguồn tài nguyên cây
thuốc của đất nước, mà còn là cơ sở để sản xuất các loại dược phẩm mới để
điều trị các bệnh hiểm nghèo. Đây thực sự là hướng nghiên cứu có triển vọng
lớn trong tương lai.
1.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ CÂY THUỐC Ở TỈNH GIA LAI VÀ MỘT
SỐ VƯỜN QUÔC GIA, KBTTN LÂN CẬN.
KBTNTN Kon Chư Răng được thành lập theo quyết định 53/2008/QĐUBND, ngày 04 tháng 02 năm 2008 của UBND tỉnh Gia Lai, với tổng diện
tích tự nhiên là 15.446 ha, thuộc địa bàn xã Sơn Lang, huyện K’Bang tỉnh Gia
Lai, có ranh giới giáp với ba tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi và Kon Tum.
Cộng đồng dân cư sống trong vùng đệm chủ yếu là người dân tộc Ba
Na, chiếm 64% tổng dân số trong vùng. Tại KBTNTN Kon Chư Răng có rất
nhiều lồi thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộcthu hái để chữa bệnh và
buôn bán. Tuy nhiên, người dân chưa chú ý đến việc giữ gìn và bảo tồn các
lồi thực vật làm thuốc dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng cạn
kiệt. Việc điều tra, nghiên cứu để đánh giá đa dạng cây thuốc có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng nhằm cung cấp những số liệu cơ bản về nguồn tài nguyên
cây thuốc tại địa phương, từ đó làm cơ sở đề xuất các biện pháp bảo tồn, khai
thác và sử dụng hợp lý là vấn đề có tính cấp thiết. Trong nội dung của luận
văn này, chúng tôi sẽ cung cấp đầy đủ các thơng tin về đa dạng các lồi thực
vật làm thuốc tại KBTNTN Kon Chư Răng, tỉnh Gia Lai.
1.5. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

KBTTNKON CHƯ RĂNG, TỈNH GIA LAI


13

1.5.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
1.5.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích.
a. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn Kon Chư Răng thuộc địa bàn xã Sơn Lang huyện KBang
tỉnh Gia Lai, cách thị trấn Kbang khoảng 70 km về phía Nam và có ranh giới
giáp với ba tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi và Kon Tum.
Toạ độ địa lý: VN 2000 như sau:
+ X: 500.408 - 515.360
+ Y: 1.594.719 - 1.613.508
b. Ranh giới khu bảo tồn Kon Chư Răng
Phía Bắc giáp huyện KonPlong tỉnh Kon Tum; huyện Ba Tơ tỉnh Quảng
Ngãi.
Phía Nam giáp lâm phận của Cơng ty TNHH MTV Hà Nừng.
Phía Đơng giáp huyện An Lão và Vĩnh Thạnh tỉnh Bình Định.
Phía Tây giáp Cơng ty TNHH MTV Trạm Lập.
Các tiểu khu thuộc vùng Dự án bao gồm: 32, 33, 34, 35, 36, 37,
38, 39, 40, 41, 42 , 43 , 44 và 47.
1.5.1.2. Địa chất, địa hình
Khu bảo tồn Kon Chư Răng nằm ở phía Đơng Bắc cao ngun Kon Hà
Nừng, thuộc vùng thượng nguồn sơng Kơn, có kiểu địa hình núi xen với cao
nguyên, độ cao trung bình khoảng 900 - 1000 m. Nhìn chung địa hình Kon
Chư Răng có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và được phân thành ba
kiểu địa hình chính.
Kiểu địa hình đồi núi trung bình (N2): Dạng địa hình đồi núi trung
bình chiếm 58,3% diện tích tự nhiên của KBTN; phân bố chủ yếu ở vùng phía

Bắc và Đơng Bắc KBTN. Độ cao từ 700 - 1300 m. Tuy nhiên mức độ chia cắt
không phức tạp, độ chênh cao giữa các đỉnh núi không quá 100 m và độ dốc
bình quân từ 16 - 200. Kiểu địa hình này là nơi phân bố chủ yếu của thảm thực
vật thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp và cũng là nơi cư trú của các
loài động thực vật quý hiếm của KBTN.


14

Kiểu địa hình cao nguyên (C): Đây là kiểu địa hình bằng phẳng nhất
trong KBTN, chiếm 28,8% diện tích tự nhiên KBTN, phân bố tập trung ở phía
Tây và Tây Nam KBTN, độ cao tuyệt đối từ 1000 - 1100 m, độ chênh cao
không quá 25 m và độ dốc bình quân từ 7 - 100. Kiểu địa hình này là nơi phân
bố của nhiều loài cây quý hiếm song do địa hình bằng phẳng nên rất dễ bị
khai thác và xâm lấn để trồng cây nơng nghiệp.
Kiểu địa hình thung lũng (T): Kiểu địa hình này chiếm 12,9% diện tích
tự nhiên KBTN, phân bố dọc theo các nhánh suối đầu nguồn sơng Kơn. Độ
dốc bình qn 15-200. Sơng suối nhỏ hẹp, có nhiều ghềnh tạo ta những thác
nước lớn, điển hình là thác 50 trên suối Say, cao 50 m quanh năm nước chảy
trắng xóa.
1.5.1.3. Khí hậu, thủy văn
Khu bảo tồn Kon Chư Răng nằm trong vùng tiếp giáp Bắc Tây Nguyên
và Duyên hải Nam Trung bộ. Do vậy chế độ khí hậu của KBTNN Kon Chư
Răng vừa mang đặc điểm của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa Cao ngun
và có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa miền Dun Hải Nam Trung bộ. Khí
hậu của KBTNN Kon Chư Răng có đặc điểm cơ bản sau:
- Các mùa trong năm: Một năm có 2 mùa, mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau. Cá
biệt có năm mùa mưa kéo dài đến 8 tháng.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, có hai cực đại vào tháng 5, 6 và

tháng 10,11. Tháng 7,8 trong vùng ít mưa hơn.
- Mùa khơ từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, kiệt nhất vào tháng 2,
lượng mưa có khi chỉ cịn < 10 mm/tháng. Lượng mưa mùa khô chỉ chiếm từ
10 - 20% tổng lượng mưa cả năm.
- Chế độ nhiệt: Điều kiện nhiệt có hạn chế, nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 20 - 230c. Biên độ nhiệt ngày và đêm khá lớn, khoảng 100c. Nhiệt độ
cao tuyệt đối không quá 380c (thường vào tháng 4), nhiệt độ tuyệt đối thấp
nhất không xuống tới 70c (thường vào tháng 1)
- Lượng mưa: Trong KBTNTN Kon Chư Răng có những dơng núi phía
Tây đón hướng gió từ Ba Tơ, Hoài Nhơn đi lên và do chịu ảnh hưởng trực


15

tiếp chế độ khí hậu Duyên hải Nam Trung bộ nên khu vực KBTN có mùa
mưa dài hơn các vùng khác của huyện K’Bang. Tổng lượng mưa hàng năm
giao động từ 2000 - 2400 mm.
- Độ ẩm: Độ ẩm không khí bình qn năm khá cao 82%, Vào những
tháng mùa mưa , độ ẩm khơng khí cao, giá trị cực đại có khi tới > 90%, sau
đó giảm xuống cịn 70 -75% trong mùa khơ.
- Chế độ gió: Trong KBTN có hai hướng gió chính, gió mùa Tây Nam
thổi vào mùa mưa và gió mùa Đơng Bắc thổi vào mùa khơ.
Trong KBTNN Kon Chư Răng có rất nhiều các sơng suối vừa và nhỏ,
hệ thống sông suối của KBTN nằm tồn bộ trong lưu vực thượng nguồn của
sơng Kơn. Do vậy ngồi ý nghĩa to lớn về bảo tồn nó cịn có chức năng phịng
hộ đầu nguồn cho sơng Kơn.
Trong KBTNN Kon Chư Răng có hai hệ thống suối chính: Suối Say và
suối Đắk Phan, chúng đều thuộc phụ lưu Đăk Krong Bung là một trong 15 phụ
lưu chính của sông Kôn. Đầu nguồn của chúng đều bắt nguồn từ các đỉnh núi phía
Tây Bắc KBTN thuộc dãy Kon Ka Kinh rồi sau đó chảy theo hướng Tây Bắc Đơng Nam qua địa bàn xã Sơn Lang, qua huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn

cuối cùng đổ ra biển Đông qua đầm Thị Nại tại thành phố Quy Nhơn.
- Suối Say là hệ thống suối chính chảy khu vực Trung tâm và Đơng Bắc
KBTN có chiều dài của nhánh chính khoảng 27 km.
- Suối Đá có lưu vực nằm chủ yếu ở khu vực Trung tâm và phía Nam
Khu Bảo tồn, suối Đá đổ vào Sông Kôn ở địa phận huyện Vình Thạnh tỉnh
Bình Định, chiều dài của các nhánh phụ của suối Đá chảy trong KBTN
khoảng 20 km.
- Suối Đắk Phan chảy bên ngồi ranh giới phía Tây Nam KBTN, chiều
dài của hai nhánh phụ chảy trong KBTN khoảng 14 km.
Hiện nay, cả ba hệ thống suối trên đều có vai trị quan trọng trong việc
cung cấp nước cho các Nhà máy thủy điện và phòng hộ đầu nguồn ở hạ lưu
sông Kôn.


16

1.5.1.4. Tài nguyên thiên nhiên
Theo số liệu kiểm kê rừng 2014, tổng diện tích tự nhiên KBTNN 15.446
ha. Diện tích các loại đất, loại rừng của KBTNN Kon Chư Răng như sau:
Bảng 1.1. Thể hiện diện tích rừng và đất rừngKhu bảo tồn thiên
nhiên Kon Chư Răng
Loại đất, loại rừng

Tổng

Rừng Đặc

Rừng

Rừng


Ghi

cộng

dụng

phịng

sản

chú

hộ

xuất

(ha)
Tổng diện tích tự nhiên

15.446

15.446

12,82

12,82

A. Đất nơng nghiệp
I. Đất SX nơng nghiệp

II. Đất lâm nghiệp
1. Đất có rừng

15.210,39 15.210,39

- Rừng tự nhiên

15.210,39 15.210,39

- Rừng trồng
2.Đất chưa có rừng

137,04

- Đất trống có cây gỗ tái 66,02

137,04
66,02

sinh
- Đất trống khơng có cây 58,2

58,2

gỗ tái sinh
B. Đất khác

6,38

6,38


C. Đất mặt nước

92,22

92,22

Số liệu thống kê ở bảng trên cho thấy, diện tích đất có rừng trong
KBTNN tồn bộ là diện tích rừng tự nhiên, chiếm 98,47 % diện tích tự nhiên
KBTNN. Đây là khu vực có độ che phủ của rừng cao nhất trong khu vực và
toàn quốc.


17

1.5.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
Cộng đồng dân cư sống trong vùng đệm chủ yếu là người dân tộc thiểu
số Ba Na, chiếm 64% tổng dân số trong vùng. Là cư dân bản địa sinh sống lâu
đời trong vùng, có truyền thống cách mạng trong những năm chiến tranh,
ngày nay họ đã và đang tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng.
- Phong tục tập quán của người Ba Na ở đây gần như vẫn còn giữ
nguyên bản chất nguyên sơ từ ngày xưa để lại. Chế độ mẫu hệ vẫn được duy
trì nên người phụ nữ có vai trị quan trọng trong gia đình và tộc họ. Xã hội
mang tính cộng đồng rất cao, hàng năm có tổ chức các lễ hội như: Lễ hội đâm
trâu, bỏ mả, ma chay, cưới, hỏi… Họ thường tiến hành đánh chiêng, múa hát
tập thể vào những dịp lễ, tết, vào các mùa gieo, tỉa và mùa thu hoạch. Đây là
một trong những nền văn hóa bản địa độc đáo, có tiềm năng kết hợp du lịch
sinh thái trong khu vực.
- Về đời sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong khu vực vẫn
còn nghèo nàn và lạc hậu, cuộc sống chủ yếu là dựa vào trồng trọt và chăn

ni. Diện tích canh tác nhỏ lẻ, manh mún, trình độ canh tác cịn chưa
cao, dẫn đến đời sống cịn khó khăn. Hiện nay do có nhiều người Kinh
vào sinh sống một số ở các cơ quan Nhà nước, cịn một số làm cơng tác
dịch vụ, cùng với chăn nuôi và trồng cây công nghiệp (chủ yếu là Cà phê,
Hồ tiêu, Cam) để tăng thu nhập, đó chính là những mơ hình trình diễn để
người dân địa phương học tập và làm theo, từ đó họ đã có ý thức thay đổi
phương thức canh tác và cây trồng trên diện tích nương rẫy của mình, nên
đời sống của họ ngày càng được nâng lên.
1.5.2.1. Dân số và dân tộc bên trong khu bảo tồn
Tổng dân số trong vùng đệm của KBTNN là 2.065 hộ với 7.912 nhân
khẩu. Toàn bộ dân số phân bố tập trung ở các trung tâm xã và các thơn/làng ở
ngồi ranh giới KBTNN. Trong đó: Dân tộc Kinh là 2.701 người chiếm
34,1% dân số; Dân tộc BaNa là 5.093 người chiếm 64,4%,còn lại 1,5% là các
dân tộc khác. Mật độ dân số trung bình là 11,6 người/km2. Tổng số lao động
là: 4.569 người. Trong đó: Sơn Lang là: 2.421 người, Đắk Rong là 2.148
người. Trong tổng số 4.569 lao động, phân ra: Nam: 2.334, Nữ: 2.235 người.


18

Như vậy, ở đây lực lượng lao động khá dồi dào, thuận lợi cho công tác tổ
chức sản xuất nông lâm nghiệp.
- Dân tộc Ba Na: Họ là người bản địa đã sinh sống lâu đời trong khu
vực, sống quần cư thành các thôn, làng dọc theo các sông suối để có nước
sinh hoạt. Phong tục tập quán theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trị
quyết định trong gia đình và tộc họ. Do vậy trong cơng tác bảo tồn cần chú ý
đến vai trò của người phụ nữ. Hàng năm họ còn tiến hành sửa nhà, may thêu
quần áo và tổ chức lễ hội như; lễ hội đâm trâu, bỏ mả, cưới hỏi, ma chay…
mang tính cộng đồng rất cao, trong các lễ hội, họ thường đánh chiêng, múa
hát tập thể. Đây là nét văn hóa truyền thống lâu đời độc đáo của đồng bào dân

tộc Ba Na, văn hóa phi vật thể của Tây Nguyên, văn hóa cồng chiêng.
- Trong sản xuất nơng nghiệp, đối với người Ba Na trước đây canh
tác nương rẫy là chủ yếu, hiện nay họ đã biết làm ruộng nước 1 hoặc 2 vụ,
nhưng do kỹ thuật canh tác và chăm sóc cịn lạc hậu, nên năng suất khơng
cao, đất đai sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nên việc áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật bị hạn chế.
- Người Kinh bao gồm một số người làm việc trong các Doanh nghiệp
và cơ quan Nhà nước, còn chủ yếu là từ miền xi lên sinh sống, họ đã có
đóng góp một phần trong việc nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng,
một mặt do họ mạnh dạn đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào sản xuất,
đồng thời họ thay đổi cơ cấu cây trồng để vừa có cây sản xuất lương thực vừa
có cây sản xuất hàng hóa, từ đó tạo ra nhiều loại sản phẩm và các mơ hình sản
xuất thực tế để đồng bào học tập và làm theo.
Bảng 1.2: Thống kê dân số và lao động trong Khu bảo tồn thiên nhiên
Kon Chư Răng
TT

Hạng mục

Tổng vùng

Xã Đăk Rong

Xã Sơn Lang

1

Diện tích (km2)

677,83


341,79

336,04

2

Dân số (người)

7.912

3.640

4.272

2.1

Số hộ (hộ)

2.065

998

1.067

2.2

Số nhân khẩu (khẩu)

7.912


3.640

4.272


19

3

Dân tộc

7.912

3.640

4.272

3.1

Kinh

2.701

306

2.395

3.2


Ba na

5.093

3.291

1.802

3.3

Dân tộc khác

118

43

75

4

Lao động (LĐ)

4.569

2.148

2.421

4.1


Nam

2.334

1.097

1.237

4.2

Nữ

2.235

1.051

1.184

5

Mât độ người/km2

10,6

12,6

(Niên giám thống kê huyện Kbang, 2015)
- Dân tộc Ba Na: Họ là người bản địa đã sinh sống lâu đời trong khu
vực, sống quần cư thành các thôn, làng dọc theo các sơng suối để có nước
sinh hoạt. Phong tục tập quán theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trị

quyết định trong gia đình và tộc họ. Do vậy trong công tác bảo tồn cần chú ý
đến vai trò của người phụ nữ. Hàng năm họ còn tiến hành sửa nhà, may thêu
quần áo và tổ chức lễ hội như; lễ hội đâm trâu, bỏ mả, cưới hỏi, ma chay…
mang tính cộng đồng rất cao, trong các lễ hội, họ thường đánh chiêng, múa
hát tập thể. Đây là nét văn hóa truyền thống lâu đời độc đáo của đồng bào dân
tộc Ba Na, văn hóa phi vật thể của Tây Ngun, văn hóa cồng chiêng. Trong
sản xuất nơng nghiệp, đối với người Ba Na trước đây canh tác nương rẫy là
chủ yếu, hiện nay họ đã biết làm ruộng nước 1 hoặc 2 vụ, nhưng do kỹ thuật
canh tác và chăm sóc cịn lạc hậu, nên năng suất không cao, đất đai sản xuất
nhỏ lẻ, manh mún nên việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật bị hạn chế.
- Người Kinh bao gồm một số người làm việc trong các Doanh nghiệp
và cơ quan Nhà nước, còn chủ yếu là từ miền xuôi lên sinh sống, họ đã có
đóng góp một phần trong việc nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng,
một mặt do họ mạnh dạn đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào sản xuất,
đồng thời họ thay đổi cơ cấu cây trồng để vừa có cây sản xuất lương thực vừa
có cây sản xuất hàng hóa, từ đó tạo ra nhiều loại sản phẩm và các mơ hình sản
xuất thực tế để đồng bào học tập và làm theo.


20

1.5.2.2. Các hoạt động kinh tế chủ yếu
a. Sản xuất nơng nghiệp
- Diện tích gieo trồng của 2 xã Sơn Lang và Đăc Rong thống kê thực tế
đến hết năm 2015 là: 1.105ha. Trong đó: diện tích trồng lúa là: 760ha, diện
tích gieo trồng ngơ là: 345ha, diện tích phê là: 1.557ha.
- Nhìn chung người dân sống trong khu vực sinh sống chủ yếu bằng
nghề trồng trọt, cây trồng chính là lúa rẫy, lúa nước, mì, bắp và các loại hoa
màu khác. Cà phê là cây công nghiệp đã được đưa vào trồng rộng rãi trong
khu vực, đây là cây có giá trị kinh tế cao, nhưng do địi hỏi kỹ thuật cũng như

vốn đầu tư cao nên diện tích cây cà phê chủ yếu là do các cán bộ công nhân
viên trong các Công ty lâm nghiệp và những người dân mới di cư đến trồng.
- Các hộ đồng bào dân tộcvới thói quen chủ yếu là canh tác nương rẫy,
sử dụng cơng cụ lao động trong q trình canh tác còn lạc hậu nên năng suất
các loại cây trồng thấp. Vì thế, tỷ lệ hộ đói nghèo của bà con người đồng bào
Ba Na còn cao, theo kết quả điều tra năm 2015, thì 6 thơn, làng vùng đệm có
185 hộ nghèo trung bình chiếm là 44% tổng số dân vùng đệm.
b. Chăn nuôi
- Trong khu vực 2 xã vùng đệm, đàn gia súc chủ yếu là Trâu, Bò, Dê và
Heo. Số lượng đàn gia súc như sau: Trâu: 1.714 con, Bò: 965 con, Heo: 2.525
con, dê: 807 con. Gia cầm 17.715 con. Gia súc và gia cầm chăn ni chủ yếu
bằng phương thức chăn thả ngồi rừng hay ở các nhà đầm, dùng để xéo ruộng
và làm lễ cúng tế trong các ngày lễ hội, chỉ có một phần nhỏ đem trao đổi
ngoài thị trường. Kết quả điều tra thực tế, trong khu vực 6 thôn, làng vùng
đệm Khu bảo tồn, đàn gia súc chủ yếu là Trâu, Bò, Dê và Heo. Số lượng đàn
gia súc: 380 con. Gia cầm: 2.740 con.
- Gia súc và gia cầm chăn ni chủ yếu bằng phương thức chăn thả ngồi
rừng hay ở các nhà đầm (Nhà rẫy để ở phục vụ mục đích chăn ni, trồng trọt).
Hiện nay cịn một số hộ còn canh tác nương rẫy, chăn thả gia súc trong Khu bảo
tồn gây khó khăn rất lớn cho công tác bảo tồn. BQL KBTTN Kon Chư Răng đã
nhiều lần đề xuất di dời các hộ đang canh tác trong Khu Bảo tồn ra khỏi khu vực


21

để thuận tiện trong công tác Bảo tồn, tuy nhiên cịn vướng rất nhiều chính sách và
tập qn của đồng bào địa phương nên chưa thực hiện được.
c. Sản xuất lâm nghiệp
- Trong vùng đệm có 3 Cơng ty lâm nghiệp: Công ty lâm nghiệp Đắk
Rong, Hà Nừng và Trạm Lập. Đã có một số hộ gia đình tham gia nhận khốn

bảo vệ cho các Cơng ty và Khu bảo tồn. Cơng tác giao khốn quản lý, bảo vệ
rừng theo Quyết định số 178 của Chính phủ được triển khai cho 371 hộ đồng
bào Ba Na nhận khoán với tổng diện tích là 5.589ha. Qua thời gian được giao
khốn quản lý, bảo vệ trách nhiệm của các làng, các hộ nhận khốn đã được
nâng cao, rừng ít bị xâm hại hơn so với trước.
- Công tác trồng rừng được quan tâm chỉ đạo, diện tích trồng rừng mới
trong 3 năm qua đạt 52ha, diện tích đất trồng rừng chủ yếu là đất dốc, đất sản
xuất sau nương rẫy, đất bạc màu.
d. Giao thông
- Hiện nay quốc lộ Đông Trường Sơn đoạn từ K’Bang đi xã Hiếu đã được
xây dựng. Trụ Sở BQL KBTTNKon Chư Răng cách quốc lộ Đông Trường Sơn
hơn 3km về phía Tây Nam, đường đi vào đã được láng nhựa năm 2007 có bề
mặt 3m. Đường Trường Sơn đông, đoạn đi qua xã Sơn Lang cách ranh giới phía
Tây Khu Bảo tồn khoảng 3km đã hồn thành tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giao thông từ Sơn Lang đi thị trấn Kbang; xã Hiếu (Kon Tum).
- Với điều kiện đường giao thông thuận lợi tạo cho việc vận chuyển,
buôn bán các loại lâm sản dễ dàng hơn, tạo thêm mức độ phức tạp của công
tác bảo tồn ở Kon Chư Răng ngày càng tăng lên.
- Cuộc sống của người dân ở đây cịn rất khó khăn, cuộc sống của họ
chủ yếu dựa vào rừng, họ vào rừng để lấy các loại lâm sản ngoài gỗ để bán
gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái rừng, nguy cơ cháy rừng là rất cao.
e. Giáo dục
- Trên địa bàn có 1 Trường Tiểu học Trạm Lập với 2 bậc học là Tiểu
học và Trung học cơ sở. Trường đã có phân hiệu ở 3 thơn/làng.


22

- Xã Sơn Lang và xã Đắk Rong đều có trường trung học cơ sở và
trường tiểu học với khoảng 1.239 học sinh và 56 giáo viên. Các thôn, làng

vùng sâu có các phân hiệu: Phân hiệu Kon Von 2; phân hiệu Đắk TơNglông;
phân hiệu HLâm. Các phân hiệu này chủ yếu dành cho học sinh cấp tiểu học.
Bậc Trung học cơ sở hiện tại có 04 lớp học, mỗi khối có 1 lớp. Một số thơn đã
có lớp mẫu giáo. Nhìn chung trang thiết bị dạy và học cịn hạn chế, chưa đáp
ứng đầy đủ nhu cầu dạy và học cho giáo viên và học sinh.
f. Thủy lợi.
Trong khu vực vùng đệm có hồ B và hồ C là hai hồ chứa nước lớn cho
Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn. Bên cạnh đó tỉnh đã đầu tư xây dựng các hồ
đập vừa và nhỏ và các kênh tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp.
g. Y tế
Các xã vùng đệm của KBTN đều đã có trạm y tế xã, đội ngũ cán bộ Y,
Bác sỹ và Y tá đủ đáp ứng được nhu cầu chăm sóc và khám sức khỏe ban đầu
cho nhân dân trong vùng. Các chương trình y tế lớn như: Chống bướu cổ, Sốt
rét và tiêm chủng mở rộng đã được triển khai kịp thời và có hiệu quả. Tuy
nhiên trang thiết bị còn hạn chế. Hiện tại, Trạm y tế xã Sơn Lang có 01 Bác
sỹ ; 01 nữ hộ sinh; 03 Y Sỹ. Ở 6 thơn/làng thuộc vùng đệm Khu bảo tồn chưa
có Y tế thôn.
h. Những tồn tại nổi bật về kinh tế - xã hội
Từ kết quả đánh giá về điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã hội ở khu
vực cho thấy: Diện tích canh tác khá lớn, lực lượng lao động dồi dào, có
những nét văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Đây là những yếu
tố thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống của cộng đồng. Tuy
nhiên, một khó khăn lớn nhất ở đây là nhận thức và trình độ dân trí cịn hạn
chế gây ra những ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống cộng đồng như tỷ lệ đói
nghèo cao, hủ tục lạc hậu, tình trạng lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy, khai
thác lâm sản phụ vẫn còn xảy ra thường xuyên và phổ biến gây áp lực không
nhỏ đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn.


23


1.5.3. Thực trạng quản lý bảo vệ và phát triển rừng trong những
năm vừa qua
- Xác định ranh giới và cắm mốc ngoài thực địa, đường ranh giới 75
km và đóng 56 mốc ngồi thực địa, nên rất dễ nhận biết ranh giới KBTN,
thuận lợi cho công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Đã giao khoán quản lý bảo vệ rừng cho các hộ gia đình là 13.000 lượt
ha. Những hộ nhận khoán bảo vệ rừng hàng năm được hưởng tiền cơng từ
nguồn kinh phí khốn bảo vệ, góp phần tạo công ăn việc làm và tăng thêm thu
nhập cho người dân địa phương, hạn chế tình trạng khai thác trái phép và phá
rừng làm rẫy. Lực lượng quản lý bảo vệ rừng của KBTN đã ngăn chặn được
nhiều hành vi vi phạm đến KBTN như: khai thác các loài cây có giá trị kinh tế
cao và các loại động vật quý hiếm.
- Hoạt động của KBTN góp phần phát triển kinh tế xã hội, ổn định địa
bàn dân cư, đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa bàn. Đồng thời nâng cao
trình độ nhận thức của người dân đối với công tác bảo tồn các nguồn gen
động thực vật quý hiếm.
- Hoạt động của KBTN đã tạo công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập
cho người dân địa phương.
- Hoạt động của KBTN góp phần giữ vững độ che phủ của rừng, chất
lượng của rừng tăng lên, bảo vệ được tính nguyên sơ của các kiểu rừng, đặc
biệt là kiểu rừng hỗn giao lá kim với các loại cây lá rộng, một trong những
kiểu rừng độc đáo của Tây Nguyên, đồng thời giữ vững môi trường sinh thái,
tăng khả năng phòng hộ, điều tiết nguồn nước trực tiếp cho các hồ đập thủy
điện và diện tích cây trồng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội một
cách bền vững.


24


Bản đồ 1.1. Hiện trạng thảm thực vật


25

CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của đồng bào dân tộcở trong KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tập hợp và hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộcở
KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai sử dụng làm thuốc. Đưa ra các giải pháp
bảo tồn một số loài cây có giá trị.
- Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị,
các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân
tộcở KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai sử dụng làm thuốc.
2.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Các lồi thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộcở
KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai sử dụng làm thuốc.
- Một số ông lang, bà mế có kinh nghiệm sử dụng các bài thuốc của
đồng bào dân tộcở khu Kon Chư Răng đang được lưu truyền và sử dụng.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 04 năm 2018 đến tháng 05 năm 2019.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.3.1. Đa dạng loài: Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng
danh lục và phân tích đánh giá đa dạng các loài thực vật được đồng bào dân
tộcở KBTTNKon Chư Răng, tỉnh Gia Lai sử dụng làm thuốc.
2.3.2. Xây dựng bản đồ phân bố: Các loài cây thuốc có giá trị cần
được bảo vệ.
2.3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của

các loài cây thuốc, bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc. Một số bài thuốc
chữa bệnh của các ông lang, bà mế.


×