Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VIỆT NAM GIA NHẬP WTO - THỜI CƠ, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.18 KB, 16 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--- o0o ---

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LUẬT KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài:
VIỆT NAM GIA NHẬP WTO - THỜI CƠ, THÁCH THỨC
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN

Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THẾ HƯNG
Sinh ngày
: 05/05/1959
Líp
: LUẬT KINH TẾ K3B
SBD
: 89
Cơ sở đào tạo
: TTGDTX HÀ TÂY

Hà Tây - 2007

LỜI NÓI ĐẦU


Gần 20 năm đã qua kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986), công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Chính sách đối ngoại mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa đã tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong tiến trình đó, Việt
Nam lần lượt tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế ASEAN, ASEM,
APEC)… tăng cường mối quan hệ song phương và đa phương với hầu hết các


quốc gia trên thế giới. Trên bước đường hội nhập ngày càng rộng mở. Tổ
chức Thương mại thế giới WTO là một cái đích mà Việt Nam đang tiến tới,
đang tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để gia nhập tổ chức này.
Hội nhập quốc tế mang lại những lợi Ých to lớn cho công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Tuy nhiên hội nhập kinh tế cũng có nghĩa là chúng ta
phải mở cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh quốc tế cũng nh các qui tắc và
luật lệ quốc tế. Điều đó thực sự là thách thức lớn lao đối với nền kinh tế nói
chung cịng nh các doanh nghiệp nói riêng, nhất là trong bối cảnh một nền
kinh tế chuyển đổi nh nền kinh tế nước ta. Điều gì sẽ diễn ra khi chóng ta
tham gia Tổ chức thương mại có quy mơ tồn cầu này? Đâu là cơ hội mà
chúng ta có thể và cần phải tận dụng. Những thách thức nào mà chúng ta phải
nhận biết để vượt qua. Và để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức chúng ta
phải làm gì? Với đề tài "Việt Nam gia nhập WTO - Thời cơ, thách thức và
những giải pháp cần thực hiện"em muốn cùng mọi người nghiên cứu sâu
hơn về WTO và tiến trình hội nhập của Việt Nam.

1


I. VẤN ĐỀ CHUNG

Tổ chức thương mại thế giới WTO là một tổ chức quốc tế điều phối
thương mại toàn cầu có vai trị quan trọng bậc nhất hiện nay. WTO hiện có
150 nước thành viên tham gia và chiếm tới 97% thương mại của thế giới. Là
thành viên của WTO các nước sẽ được hưởng các định chế thương mại và
một mơi trường thương mại bình đẳng hơn trong khối, đương nhiên đi kèm
với thuận lợi này là những thách thức lớn hơn khi hàng rào bảo hộ của quốc
gia bị dỡ bỏ.
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán để sớm trở thành thành viên
của WTO. Đây là một bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh

tế quốc tế của đất nước. Trở thành thành viên của WTO sẽ làm thay đổi sâu
sắc môi trường kinh tế và thương mại của nước ta cả trước mắt và lâu dài.
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO là nhiệm vụ quan trọng nhất
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian qua
thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong hợp tác đa phương và song phương: nước ta đã trở thành
thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như: khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Âu (ASEM), đã ký hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ, hiệp định khung với EU. Hội nhập kinh
tế quốc tế đã đem lại nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đất nước
như mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngồi, tiếp thu
kinh nghiệm quản lý và cơng nghệ tiên tiến, góp phần giải quyết các vấn đề
xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO nên
gặp nhiều khó khăn, bất lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế, giải quyết những
tranh chấp thương mại, chưa được hưởng quyền lợi đầy đủ về kinh tế, thương
mại của một thành viên WTO. Từ vụ kiện cá tra, cá basa, vụ kiện tôm của
2


Hoa Kỳ và các nước EU và gần đây là tình trạng tranh chấp thương hiệu đang
đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà sản xuất và quản lý kinh tế.
Do vậy, việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO đang là đòi hỏi
cấp bách hiện nay, vấn đề này đã được đề cập trong văn kiện Đại hội IX của
Đảng "Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương, đa
dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện những cam kết trong
quan hệ song phương và đa phương như AFTA, BTA tiến tới gia nhập
WTO". Tại hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa 9 cũng nhận
định "Tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện có hiệu quả

những cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện
trong nước để sớm ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO". Thực hiện
chủ trương trên Việt Nam đang tiến hành đẩy nhanh tiến trình đàm phán song
phương và chuẩn bị các điều kiện trong nước để có thể sớm gia nhập WTO
vào năm nay.
Đã 11 năm trôi qua kể từ ngày Việt Nam nộp đơn gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới, chúng ta đã tiến hành nhiều vòng đàm phán đa phương.
Chúng ta đã trả lời hơn 2000 câu hỏi liên quan đến minh bạch hóa chính sách
thương mại, từ phiên thứ 5 chóng ta đã chuyển sang đàm phán mở cửa thị
trường, đã cung cấp cho Ban thư ký chương trình xây dựng pháp luật để thực
hiện các hiệp định của WTO, chương trình thực hiện giảm trợ cấp nông
nghiệp nhà nước cũng như các cam kết trong lĩnh vực thuế quan, phi thuế
quan. Việt Nam đã cam kết tuân thủ các hiệp định của WTO nh: hiệp định
đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM), Hiệp định về sở hữu trí tuệ (TRIP)
và các Hiệp định khác.
Thực tế cho thấy việc gia nhập WTO là xu thế khách quan phù hợp với
tiến trình tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu
rộng trên thế giới, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
hiện nay và những năm đầu thế kỷ 21. Hiện nay đã có 150 nước gia nhập
3


WTO, 20 nước đăng ký tiến hành đàm phán gia nhập, điều đó cho thấy WTO
ngày càng có vai trị quan trọng trong sự phát triển của kinh tế, thương mại
thế giới và các sức hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế của các nước đang
phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế. Mặc dù các hội nghị thượng
định tại Xiatơn (Mỹ) và Cancun (Mexico) thất bại, song tiến trình Đơ ha vẫn
được tiếp tục. Nhiều nước chậm phát triển nh Campuchia và Nê Pan cũng đã
trở thành thành viên của tổ chức này tháng 9 năm 2003.
II. NHỮNG THỜI CƠ, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN

THỰC HIỆN

Đối với Việt Nam gia nhập WTO đem lại cả những thời cơ thuận lợi và
thách thức, khó khăn. Về thời cơ thuận lợi:
- Gia nhập WTO thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội và cải cách
thể chế, trước hết thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách
của nước ta, tạo dựng mt kinh doanh ổn định, minh bạch và thuận lợi cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi
thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền
vững.
Chóng ta hội nhập để phát triển tốt hơn và muốn hội nhập, chúng ta phải
tiếp tục điều chỉnh, hồn thiện hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế của mình
cho phù hợp với luật chơi chung quốc tế. Do vậy cần nghiên cứu đáp ứng
những điều kiện, chấp nhận những nguyên tắc của WTO vừa đảm bảo phù
hợp với lợi Ých phát triển lâu dài của đất nước.
- Gia nhập WTO thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu tư và chuyển
giao công nghệ, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa
phương của nước ta với các nước trên thế giới.
Thông qua việc mở các thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, giảm những
hàng rào thuế quan và phi thuế quan (những biện pháp hạn chế về định lượng
và hàng rào kỹ thuật), giảm sự phân biệt đối xử trong WTO, các doanh nghiệp
4


Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường do được tiếp cận với nhiều thị
trường và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của
mình. Trở thành thành viên đầy đủ của WTO chóng ta có điều kiện tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như may mặc, giầy
da, thuỷ sản, gạo, đồ thủ công mỹ nghệ, những mặt hàng mới như xuất khẩu
phần mềm, xuất khẩu lao động, phát triển du lịch, đặc biệt các mặt hàng nông,

thuỷ sản sẽ có vị thế lớn hơn trên thị trường thế giới. Điều này góp phần to
lớn trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhất là
nông dân.
- Trở thành thành viên WTO, Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi (ODA, FDI) và các hình thức đầu tư gián
tiếp thông qua mở rộng diện các nước thành viên đầu tư vào Việt Nam. Đồng
thời có những cải cách trong nước về thủ tục hành chính, về cơ chế chính
sách, giảm chi phí đầu vào, mở rộng lĩnh vực và phạm vi đầu tư theo lộ trình
hội nhập sẽ làm tưng tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư của nước ta so với
các nước trong khu vực, khuyến khích làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam.
- Việt Nam sẽ có lợi trong việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp
thương mại trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc gia nhập WTO sẽ cho phép
Việt Nam cải thiện vị trí của mình khi đàm phán giải quyết các tranh chấp
thương mại nảy sinh.
- WTO có những nguyên tắc ưu đãi riêng đối với nước đang phát triển,
Việt Nam là nước có thu nhập thấp do đó sẽ nhận được những đối xử đặc
biệt (có mức thu nhập GDP dưới 1000 USD/người) được miễn trừ khỏi sự
ngăn cấm, hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa là loại cạnh tranh cao,
sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong vòng 8 năm.
- Gia nhập WTO tạo đà cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên, thích
nghi với những tiêu chuẩn và tập quán mới, tạo điều kiện nâng cao khả năng
cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
5


Bên cạnh những thuận lợi, quá trình gia nhập WTO đang đặt ra những
thách thức và khó khăn đối với sự phát triển của nền kinh tế, của các doanh
nghiệp cần tập trung giải quyết như:
Trước hết, ngay trong quá trình đàm phán gia nhập WTO vấn đề về tính
bất cập của hàng loạt văn bản pháp quy đã bộc lộ rất rõ. Cải cách và sửa đổi

các điều luật và các văn bản dưới luật là một gánh nặng quá sức của các cơ
quan hữu quan hiện nay. Đối với những điều khoản khơng tương thích so với
các qui định của WTO việc chỉnh sửa chậm trễ có thể dẫn đến những biện
pháp chừng phạt, trả đũa rất bất lợi từ phía các thành viên WTO. Để khắc
phục những bất cập và nhất là tăng cường sử dụng tư vấn, giúp đỡ từ phía các
cơ quan chuyên trách của WTO, là một nước chậm phát triển, Việt Nam có
một số quyền được tư vấn, chi viện của WTO hoặc có thể kêu gọi sự trợ giúp
của một số chính phủ, tổ chức quốc tế về lĩnh vực này. Đó là một phương
pháp luật đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập và thực thi các nghĩa vụ của một
thành viên WTO.
Sự bất cập của bộ máy các cơ quan nhà nước trong giai đoạn đầu gia
nhập, sự chậm trễ trong đào tạo cán bộ làm kinh tế đối ngoại những năm
trước đây đã thực sự buộc chúng ta phải trả giá. Với quy mô gấp nhiều lần so
với ASEAN và AFTA, cơ cấu hoạt động của WTO đủ làm cho mét nước lớn
nh Trung Quốc cũng bị thiếu hụt các chuyên gia cần thiết. Cho nên với Việt
Nam vấn đề lại càng trầm trọng hơn. Thiếu cán bộ đáp ứng nhu cầu nhiệm
vụ dù là ở mức thấp ở trong nước có thể cịn chậm trễ, nhưng trong kinh tế
đối ngoại điều đó có nghĩa là để mất một cơ hội.
Điều quan trọng nhất trong lĩnh vực xã hội dưới tác động của việc gia
nhập WTO chính là sự đổ vỡ phá sản của một bộ phận đáng kể trong số các
doanh nghiệp thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là các doanh
nghiệp nhà nước. Sự kiện đó chắc chắn sẽ làm gia tăng đột biến tỷ lệ thất
nghiệp trong xã hội đến mức có thể vượt xa so với khi chóng ta áp dụng
6


Quyết định 176/HĐBT trước đây. Tầm vóc của vấn đề trở lên lớn hơn khi đặt
trong bối cảnh mức sống trung bình hiện tại trong xã hội đã cao hơn nhiều so
với 15 năm trước. Thời kỳ đó là giai đoạn ban đầu phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần với rất nhiều việc được tạo ra, cơ chế thị trường

thay thế cho nhà nước trong giải quyết nhiều vấn đề kinh tế – xã hội của đất
nước kể cả tạo việc làm. Ngày nay tình hình đã thay đổi, các thành phần kinh
tế không thể thu hút được nhiều lao động như trước. Những người lao động
tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay nếu bị thất nghiệp sẽ rất khó khăn khi
tìm việc làm mới. Nếu khơng có các biện pháp chủ động đối phó sẽ bị động,
lúng túng làm cho vấn đề trở lên phức tạp hơn.
Cần khẩn trương hơn nữa trong cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Trừ các doanh nghiệp nhà nước đã xác định là cần nắm chặt và thuộc danh
mục có thể được bảo hộ đặc biệt theo qui định khi đàm phán gia nhập, cịn nói
chung cần và có thể cổ phần hóa hoặc chuyển đổi ra khỏi quyền sở hữu của
nhà nước. Tình trạng một số địa phương coi các doanh nghiệp công Ých là
nhà nước cần nắm vững khơng đúng. Tính chất cơng Ých cũng có thể thực
hiện chủ yếu bằng các hình t hức trợ cấp, trợ giá… từ ngân sách thông qua
đấu thầu chứ khơng nhất thiết chỉ có bằng hình thức doanh nghiệp nhà nước.
Mặt khác cần kiên quyết vượt qua những toan tính dựa trên các quan hệ
cá nhân của một số cán bộ có chức, có quyền với doanh nghiệp để lẩn tránh
hoặc làm chậm tiến độ cổ phần hóa. Khi coi tổ phần hóa là một biện pháp giải
quyết nhằm tránh nguy cơ đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp và thất nghiệp gia
tăng đột biến sẽ đủ lý do để đẩy nhanh quá trình giảm bớt số lượng doanh
nghiệp nhà nước hiện nay.
- Việt Nam phải cam kết thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến các lĩnh
vực thương mại hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ phù hợp với
yêu cầu của WTO, phải tiến hành cải cách kinh tế, từ bỏ ưu đãi đối với doanh
nghiệp như nước, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh bình đẳng
7


khơng phân biệt cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
(doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp tư nhân).

- Việt Nam phải mở cửa thị trường, hàng hóa dịch vụ cho các thành viên
WTO khác nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ cao cấp như: ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải, tài chính, kiểm tốn. Điều này sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên
thị trường trong nước, một số ngành hàng phải thu hẹp thị phần, nhiều doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, khả năng cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, phải
đóng cửa.
- Tham gia WTO chóng ta phải đảm bảo hệ thống chính sách phù hợp
với quy định của WTO, hệ thống thể chế bộ máy (cả hành pháp, tư pháp và
lập pháp) hoạt động hiệu quả, không trái với yêu cầu của tổ chức này.
Tuy nhiên, hiện nay trong q trình gia nhập WTO chóng ta còn nhiều
yếu kém cần phải khắc phục như Hội nghị Trung ương 9 chỉ rõ "Nhiều nguồn
lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được quy động tốt.
Chất lượng hiệu quả sự phát triển kinh tế chưa được huy động tốt. Chất lượng
hiệu quả sự phát triển kinh tế xã hội cịn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt và
những nhược điểm trong chính sách kinh tế và cơ chế quản lý cũng khiến
chúng ta chưa tận dụng được lợi thế và ổn định chính trị - xã hội để thu hút
mạnh mẽ nguồn đầu tư của nước ngoài".
Cụ thể là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và
sản phẩm còn thấp so với các nước trong khu vực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng cơng nghiệp hóa, nhất là theo hướng hiện đại hóa cịn chậm. Việc
thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế, tuy đã có tiến bộ
nhưng thiếu nhất quán, chưa khai thác tốt các nguồn nội lực, nhất là trong
dân. Còn thiếu chủ động trong việc chuẩn bị để đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi cịn gặp khó khăn do mơi trường
đầu tư chưa thơng thống, việc xúc tiến các cơng đoạn theo lộ trình hội nhập,
8


việc thực hiện các cam kết song phương, đa phương còn chậm và chưa bảo
đảm độ tin cậy. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm

được hình thành đồng bộ. Hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm được xác định rõ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những yếu kém đó, nhưng trước hết
thuộc về nguyên nhân chủ quan, còn chưa có hệ thống cao về chủ trương hội
nhập kinh tế quốc tế nên việc tổ chức triển khai thực hiện còn chậm, lúng
túng, chưa kiên quyết và nhất quán, nhiều doanh nghiệp chưa sẵn sàng cho
hội nhập kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, chúng ta chưa đánh giá hết những tác
động của nền kinh tế thế giới, những tác động tiêu cực của thị trường và của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để có thể gia nhập WTO vào năm 2006, một mặt chúng ta phải tích cực
đẩy nhanh q trình đàm phán, mặt khác chuẩn bị tích cực các điều kiện trong
nước. Thực hiện đồng bộ các biện pháp ở tầm vĩ mô và vi mô, nhanh chóng
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm. Nhà
nước phải tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hệ thống tài
chính – ngân hàng hành chính, cải cách thể chế, đảm bảo các chính sách ổn
định minh bạch, thuận lợi, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thống nhất cho
các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giảm nhanh chi phí
kinh doanh, tăng cường đào tạo, phát triển nhân lực.
Mặt khác các doanh nghiệp phải chủ động trong hội nhập kinh tế quốc
tế, nâng cao khả năng canh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Đẩy
mạnh xúc tiến thương mại đầu tư, tham gia hệ thống phân phối toàn cầu, giảm
bớt khâu trung gian, chú trọng xây dựng thương hiệu hàng hóa, xây dựng và
phát triển hiệp hội ngành hàng.
Việc tận dụng các thời cơ, biến các khó khăn thách thức thành thời cơ
trong q trình gia nhập WTO của nước ta địi hỏi phải có sự thống nhất về
9


nhận thức tư tưởng, hành động thống nhất của các ngành các cấp, đặc biệt là
các doanh nghiệp – với tư cách là lực lượng xung kích trong q trình hội

nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO trong bối cảnh tồn cầu
hóa kinh tế là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; hội
nhập kinh tế quốc tế có tính hai mặt đối lập và thống nhất với nhau, đó là q
trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa có thời cơ và cả thách thức; vừa có thuận
lợi và khó khăn. Yếu tố quyết định thắng lợi trong hội nhập đó là khả năng
tính cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ, khả năng nắm bắt thời cơ, khắc phục khó khăn, thách thức để phát
triển.
Tham gia WTO tạo cho nước ta những cơ hội để phát triển kinh tế như
mở rộng thị trường xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng, tăng
nhanh xuất khẩu những mặt hàng sẽ ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế
trong các cả nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo ra nhiều công văn việc
làm, tăng thu nhập xã hội. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam sẽ được đối xử bình
đẳng trên thị trường quốc tế, có điều kiện tiếp cận được hệ thống giải quyết
tranh chấp của WTO, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngồi; tiếp thu
khoa học cơng nghệ, kỹ năng quản lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, việc gia nhập này cũng đặt ra nhiều thách thức và khó khăn:
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung của các doanh nghiệp và sản
phẩm còn yếu, chậm được cải thiện, chính sách vĩ mơ nhìn chung chưa được
động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, còn chậm được
đổi mới cho phù hợp với yêu cầu hội nhập, nhận thức tư tưởng về hội nhập
kinh tế quốc tế của các cấp, các ngành và doanh nghiệp nhìn chung cịn hạn
chế, triển khai cơng tác chuẩn bị cho hội nhập còn chậm,thiếu đồng độ.

10


Cơ cấu kinh tế ngành còn nặng về hướng nội, thay thế nhập khẩu; chưa
có một chiến lược cơ cấu kinh tế hiệu quả cho cả một giai đoạn dài được xây

dựng trên cơ sở gắn với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nhiều doanh nghiệp cịn thiếu hiểu biết về lộ trình và các u cầu của
hội nhập; kiến thức và thông tin cần thiết về thị trường và luật pháp, thơng lệ
quốc tế cịn hạn chế.
Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn yếu, việc chỉ đạo và
thực hiện quá trình hội nhập cịn bất cập.
* Huyện đảo Cát hải cịng đang hịa mình vào tiến trình Hội nhập cùng
với cả nước, song cũng như nhiều địa phương khác Cát Hải cũng gặp khơng
Ýt khó khăn: ngành kinh tế mũi nhọn là du lịch dịch vụ vẫn còn kém phát
triển chưa tìm ra hướng đi đúng và vững chắc cho tương lai. Một số mặt hàng
thuỷ sản chưa xây dựng được thương hiệu và có sức cạnh tranh trên thị
trường. Nhận thức tư tưởng về hội nhập kinh tế quốc tế của các cấp, các
ngành và doanh nghiệp nhìn chung cịn hạn chế, triển khai cơng tác chuẩn bị
cho hội nhập còn chậm, thiếu đồng bộ (các doanh nghiệp nhà nước chậm triển
khai cổ phần hóa…), Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp
hóa, nhất là theo hướng hiện đại hóa cịn chậm.
III. Một số kiến nghị về giải pháp thúc đẩy quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta trong thời gian tới:
- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn
xã hội về hội nhập kinh tế quốc tế, thấy rõ thách t hức và thời cơ, sự hợp tác
và cạnh tranh trong hội nhập, từ đó tích cực chuẩn bị những điều kiện cần
thiết để hội nhập thành công, khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại trông chờ
vào bảo hộ, trợ cấp của nhà nước.

11


- Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc
gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Theo hướng này,

cần nhanh chóng ban hành và kiểm sốt độc quyền trong kinh doanh. Hồn
thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ phát triển
kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu
tư nhằm phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh; thực hiện chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Khắc phục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải, phân
tán, dứt khốt khơng đầu tư vào những cơng trình, dự án kém hiệu quả.
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước và nhất
là đầu tư nước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất
thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền
(điện, viễn thơng, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường) đảm bảo tính nhất quán
minh bạch của chính sách, tơn trọng và bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư.
Xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài với các qui định về điều kiện đầu tư và ưu
đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống
nhất cho các thành phần kinh tế. Thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế
theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã và sẽ ký kết
(AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, WTO). Cần công bố
công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nk để các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế chủ động trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường
trong nước và quốc tế.

12


- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối
tác lớn nh: EU, Mỹ, Nhật Bản để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ
khoa học, kinh nghiệm quản lý…

- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện chiến lược tổng thể hội
nhập kinh tế quốc tế. Tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều
kiện cần thiết trong nước để nước ta có thể có thể gia nhập WTO. Đặc biệt tập
trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước, làm mạnh hóa hệ thống
tài chính, ngân hàng; đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực của bộ
máy hành chính Nhà nước; đào tạo sử dụng nguồn nhân lực cho tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế; tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm,
trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.

13


IV. Kết luận:
Kinh tế và thương mại quốc tế là những vấn đề hết sức phức tạp, nhất là
khi xu thế “quốc tế hóa” đời sống kinh tế thế giới đang phát triển sôi động
trong bối cảnh thế giới hiện nay. Cần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp xã
hội về bản chất và nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ
hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tạo
ra sự thống nhất trong nhận thức, thống nhất đánh giá, thống nhất hành động.
Trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân, truyền
thống yêu nước và cách mạng, ý chí tự lực, tự cường của mọi người Việt Nam
nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thử thách đưa nền kinh tế nước ta phát triển
nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


-

Giáo trình “Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế”

-

Tài liệu “Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO”

-

Báo “Hải Phòng”

15



×