Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Quy trình nuôi tôm theo công nghệ Biofloc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.11 KB, 5 trang )





Quy trình nuôi tôm theo công nghệ Biofloc

Nuôi tôm theo công nghệ Biofloc đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành
công. Ở nước ta, năm 2012, Ninh Thuận là tỉnh đầu tiên đã áp dụng công nghệ này
và khống chế thành công Hội chứng EMS.

Công nghệ Biofloc là gì?
Trong ao nuôi tôm, thay vì nuôi tảo, người ta tạo môi trường nuôi các vi khuẩn dị
dưỡng có lợi, phân hủy chất thải trong ao nuôi thành cơ chất mà tôm có thể sử
dụng lại; không tạo thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh phát triển. Trong môi trường
ao nuôi luôn hiện diện vi khuẩn dị dưỡng. Chúng có khả năng đồng hóa chất thải
hữu cơ, chuyển thành sinh khối của vi khuẩn (thường rất giàu protein) trong thời
gian rất ngắn mà không cần ánh sáng như các loại tảo. Nếu được giữ lơ lửng liên
tục trong nước, khi đã đạt mật độ nhất định, các vi khuẩn sẽ kết dính với nhau
thành những hạt nhỏ, gọi là floc. Floc có 2 - 20% tế bào sống và 60 - 70% là chất
hữu cơ. Trên hạt floc, ngoài các vi khuẩn dị dưỡng, còn có nhiều sinh vật khác
(như nấm, tảo, động vật phù du…).
Vì thế, các hạt floc này có giá trị dinh dưỡng cao, có thể dùng làm thức ăn cho
tôm, cá. Công nghệ Biofloc tạo thuận lợi để vi khuẩn dị dưỡng phát triển mạnh
bằng cách: Bổ sung nguồn carbon (C) rẻ tiền vào môi trường ao để cân đối với
hàm lượng nitơ (N) có sẵn, duy trì mức độ khuấy đảo nước trong ao và hàm lượng
ôxy hòa tan thích hợp.

Quy trình Biofloc thích hợp với mô hình thâm canh, cho hiệu quả cao - Ảnh: Thanh
Ngân
Tại sao phải bổ sung carbon (C)? Lý do là vi khuẩn dị dưỡng chỉ có thể phát triển
tốt nếu hàm lượng C và N có trong môi trường sống của chúng được duy trì ở tỉ lệ


C/N thích hợp (khoảng 10/1). Như đã nêu trên, nước ao nuôi tôm rất giàu chất thải
hữu cơ. Vì thế dẫn đến tình trạng N thừa mà C thiếu so với nhu cầu của vi khuẩn.
Bổ sung đủ C sẽ giúp vi khuẩn phát triển, sử dụng hết chất thải hữu cơ, chuyển hóa
amonia, làm sạch môi trường. Nguồn C hữu cơ có thể dùng để bổ sung vào ao nuôi
thường là Glucose, Ccetate hoặc Glycerol.
Trong thực tế, người ta thường dùng nước rỉ đường hoặc hạt ngũ cốc chất lượng
kém, giá rẻ. Cũng có thể thay đổi thành phần thức ăn viên bằng cách tăng hàm
lượng C hữu cơ có trong đó (nguồn C sử dụng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của
floc). Giá thành của nguồn C bổ sung cần phải rẻ để đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Việc sử dụng các hệ thống quạt nước hoặc sục khí trong ao nuôi hết sức quan
trọng, để có thể giữ cho vi khuẩn và các hạt floc lơ lửng trong nước, cung cấp đủ
ôxy hòa tan cho hoạt động trao đổi chất của vi khuẩn. Chính vì thế mà công nghệ
Biofloc tiêu tốn năng lượng và thích hợp mô hình nuôi thâm canh hơn quảng canh.
Tuy nhiên, chi phí gia tăng về năng lượng có thể được bù đắp nhờ tiết kiệm chi phí
thức ăn và xử lý môi trường.
Các nghiên cứu mới nhất còn cho thấy, vi khuẩn có khả năng tạo floc là những vi
khuẩn có thể tổng hợp các hợp chất cao phân tử ngoại bào, nhờ vậy chúng kết dính
với nhau dễ dàng. Chúng có khả năng tạo poly-ß-hydroxybutyrate, chất kháng vi
khuẩn gây bệnh.
Như vậy có thể thấy công nghệ Biofloc đem lại 3 tác dụng: xử lý chất thải; tạo
nguồn thức ăn; hỗ trợ phòng bệnh.

Khống chế Hội chứng EMS tại Ninh Thuận
Nguyên nhân gây Hội chứng tôm chết sớm (EMS) tại Ninh Thuận: Do vi khuẩn
gây bệnh, nguồn có từ tôm giống, từ môi trường vùng nuôi, có thể cả từ thức ăn,
chế phẩm sinh học kém chất lượng; Do ảnh hưởng trực tiếp thời tiết bất thường,
phù hợp cho các vi khuẩn gây EMS bùng phát, gây bệnh trên diện rộng.
Tại Ninh Thuận, quy trình semi - biofloc được thực hiện trên 5 trang trại với tổng
diện tích 30 ha tại vùng nuôi trên cát, các ao nuôi có diện tích 2.500 – 3.000m2;
mô hình thực hiện đầu tiên từ tháng 3/2012, các mô hình còn lại thực hiện từ tháng

6,7/2012 với sự hướng dẫn của Công ty C.P. Với mật độ thả trung bình 250 – 260
con/m2, năng suất trung bình 25 – 30 tấn/ha/vụ, tỷ lệ thành công quy trình này trên
90%, sản lượng khoảng 1.500 tấn.

×