Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đề tài trang trí trong kiến trúc truyền thống docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.96 KB, 16 trang )

Đề tài trang trí trong kiến trúc
truyền thống
Trong các công trình kiến trúc gỗ truyền thống tại Việt Nam nhất là đối với các công
tình mang yếu tố tôn giáo và tín ngưỡng như đình, đền, chùa , miếu

thì mảng điêu khắc được đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất
tạo nên vẻ đẹp cho công trình. Em xin giới thiệu đến các anh chị các hình tượng trang trí
thường gặp trong kiến trúc cổ truyền thống từ Bắc tới Nam, mang đậm ảnh hưởng của
Phật Giáo và một số đạo khác như Đạo Giáo, Nho giáo.
Các hình tượng trang trí đơn lẻ
Con rồng
các dạng trang trí hình rồng phát triển theo từng thời kỳ, mang những đặc điểm mỹ
thuật khác nhau. Trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam, hình tượng con rồng cũng được
phát hiện từ những di vật còn lại từ thời Lý.

Con rồng thể hiện cho tâm linh, gắn liền với vua (theo quan niệm phong kiến), biểu
hiện ước mong mưa rhuận gió hoà (dân gian). Trang trí trên bệ tháp, cấu kiện gỗ, đỉnh
mái Những di tích như chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Ðọi ( Hà Nam)



H1a. Rồng chạm đầu dư


H1b. Rồng trang trí trên cửa

Con lân
Được gọi đầy đủ là kỳ lân (còn gọi là con nghê, con ly và dân gian gọi là con sấu).
Hình tượng con Lân được định hình từ thời Lý và phát triển cho đến suốt thời Nguyễn.
Kỳ lân là phát triển của long mã, biểu tượng cho sự kết hợp thời gian và không gian, cho
sự an bình. Trang trí trên cấu kiện gỗ (gặp ở nhiều chùa), thành bậc (chùa Bà tấm, Hà


Nội), tượng tròn (chùa Phật Tích, Bắc Ninh).



H2. Tượng lân đá tại chùa Phật Tích
Rùa: ít gặp trong kiến trúc Phật giáo
Biểu trưng cho sự bền vững của xã tắc (trong phạm vi cung đình) và sự sống lâu,
trường thọ (dân gian), Thường thấy sử dụng như con vật đỡ chân bia tại các chùa.



H3. Rùa đội bia
Chim Phượng: ít gặp trong điêu khắc Phật giáo.
Chim Phượng không gắn nhiều với Phật giáo mà chỉ tượng trưng cho điềm lành,
mỗi khi xuất hiện thì báo hiệu đất nước thái bình, phồn thịnh, vẻ đẹp của phụ nữ
Thường được chạm khắc trên cốn, thành bậc, đầu dư, đầu đao


H4. Đầu đao hình chim Phượng
Hoa sen: Từ thời Lý đã sử dụng hoa sen trong biểu tượng chùa Một Cột, bệ tượng
Phật A Di Ðà chùa Phật Tích.
Biểu hiện cho sự trong sạch thanh cao, biểu tượng cho sự thanh tịnh của Phật giáo.
Ðỉnh tháp, chân tảng, bệ Phật, diềm bia.



H5. Trang trí hoa sen trên chân tảng
Hoa cúc:
Hoa cúc thời Lý Trần thường thể hiện với dạng dây lượn hình sin. Lúc đầu hoa cúc
phổ biến ở Trung Quốc với biểu trưng Ðạo giáo, về sau ảnh hưởng vào Phật giáo như

một biểu tượng bình dị, thanh cao, kín đáo và lâu bền.


H6. Trang trí hoa cúc chùa Phổ Minh

Lá đề:
Cây Bồ đề biểu trưng cho sự đại giác của đức Phật. được sử dụng rất nhiều trong
trang trí điêu khắc như vòm cửa chùa tháp thời Lý.


H7. Trang trí lá đề tháp Bình Sơn - Vĩnh Phúc

Hình cá:
Tượng trưng cho sự giàu có, phồn thịnh hay gặp trong trang trí cấu kiện gỗ cùng
sóng nước.


H8. Trang trí cá trên cốn gỗ

Con trâu:
Hình tượng trâu cũng xuất hiện từ thoì nguyên thuỷ trong văn hoá Hoà Bình. Và
hình tượng trâu còn thấy được ở kiến trúc Phật giáo là bắt đầu từ thời Lý.
Con trâu rất có ý nghĩa trong nhà Phật, thể hiện qua bức tranh thập mục chăn trâu.
Tượng tròn (chùa Phật Tích), lan can đá ( chùa Bút Tháp)



H9. Hình tượng con trâu lan can đá chùa Bút Tháp

Sư tử:

là đề tài trang trí phổ biến ở thời Lý hơn các thời sau này. Sư tử hí cầu nghĩa như
vật bảo vệ giáo pháp.
Có thể gặp tượng sư tử ở chùa Hương Lãng, bệ có 2 con sư tử đỡ ở chùa Bà Tấm.
Các chòm lông và đuôi sư tử thường xoắn lại theo kiểu trôn ốc hoặc xoè ra.


H10. Sư tử đá đỡ bệ tượng chùa Bà Tấm
Con hổ:
Nền văn hoá Ðông Sơn cách đây trên dưới 2500 năm đã xuất hiện rất nhiều tượng
hổ. Thời Trần bắt đầu xuất hiện tượng hổ.
Theo tín ngưỡng của dân ta thì hổ tượng trưng cho vị thần bảo vệ, trấn giữ các
phương chống lại mọi tà ma, đảm bảo cho cuộc sống phát triển. Bệ đá tam bảo ( chùa Ðại
Bi Hà Tây), chạm khắc trên kẻ ( chùa Sơn Ðồng, Hà Tây), hai bên tam quan (chùa Long
Tiên Quảng Ninh)


H11. Phù điêu hổ chùa ông Bổn - tp ****

Con ngựa: Thời Lý
Xuất hiện dưới dạng tượng tròn (chùa Phật Tích), lan can đá (chùa Bút Tháp). Theo
Phật thoại, ngựa trắng khi không có người cưỡi là biểu tượng của Phật.


H12. Trang trí ngựa tường hồi chùa Hưng Ký

Nhạc công thiên thần (Gandharva)
Thời Lý - Mạc, ảnh hưởng ấn Ðộ giáo của người Chăm.
Thường gặp ở hình ảnh đoàn nhạc công tấu nhạc mừng Ðức Phật đản sinh



H13. Trang trí tại chùa Phật Tích
Nữ thần đầu người mình chim (Kinnarri)
được sử dụng trong thời Lý đến Mạc, ảnh hưởng ấn Ðộ giáo của người Chăm.
Có thể gặp ở những dạng tượng người chim chùa Phật Tích, chùa Long đọi, nữ thần
đầu người mình chim.


H14. Nữ thần đầu người mình chim chạm trên cốn gỗ chùa Thái Lạc
Tiên nữ (apsara):
Thời Lý - Mạc, ảnh hưởng ấn Ðộ giáo của người Chăm.
Tiên nữ múa hát dâng hoa xuất hiện gắn liền với các sự kiện trong cuộc đời của đức
Phật như đức Phật đản sinh, đắc đạo, nhập Niết Bàn Ðiêu khắc trên cốn gỗ chùa Thái
Lạc.


H15. Tiên nữ cưỡi Phượng chùa Thái Lạc
Chim thần Garuđa :
Thời Lý - Mạc. Hình tượng của ấn Ðộ giáo sử dụng trong văn hoá Chăm.
Tiêu biểu cho sức mạnh và chân lý . Thường gặp ở tư thế nâng đỡ góc đền tháp và
bệ tượng.


H16. Chim thần bệ tượng chùa Bối Khê
Bánh xe pháp luân:
Sử dụng trong thời Nguyễn đến nay.
Biểu tượng sự giác ngộ của Ðức Phật và lần thuyết pháp đầu tiên của ngài. Trên
mái các công trình, ví dụ như đầu đao chùa Quán Sứ.




H17. Bánh xe Pháp luân trang trí trên đầu đao viện đại học Vạn Hạnh

Hồi văn chữ Vạn, chữ công
Thường thấy trên bờ nóc mái, diềm bia, chạm trổ cửa.



H18. Chữ Vạn cách điệu cửa chùa Nành - Gia Lâm

Chữ Thọ, Hỉ
Thường sử dụng là cửa sổ , trang trí cửa đi cách điệu


H19. Cổng chùa Hưng Ký - Chữ Thọ cách điệu

Con người
Người đỡ toà sen chùa Dương Liễu thời Mạc. Vua đỡ bệ tượng Phật chùa Hoè
Nhai


H20. Chạm người chùa Thái Lạc

×