Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ý nghĩa của thờ cúng tổ tiên trong đời sống người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.37 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..............................................................................................2
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN. 2
1.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt:.......................................2
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng..........................................................................2
1.1.2. Lý do người Việt thờ cúng tổ tiên........................................................2
1.2. Ý nghĩa của việc thờ cúng tổ tiên...........................................................4
1.3. Các hình thức thờ cúng:.........................................................................5
1.3.1. Cúng cáo thường xuyên.......................................................................5
1.3.2. Cách thức lễ.........................................................................................5
1.3.3. Bàn thờ tổ tiên:.....................................................................................8
II. THỰC TRẠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
HIỆN NAY............................................................................................................9
2.1. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay..........................9
2.1.1. Mặt tích cực.........................................................................................9
2.1.2. Mặt hạn chế........................................................................................11
2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm định hướng hoạt động thờ cúng tổ
tiên của người Việt hiện nay.......................................................................14
KẾT LUẬN..............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................18

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền
mang tính phổ quát của người Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một
tập tục truyền thống, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của
dân tộc, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín


ngưỡng thờ cúng rất giản dị bởi họ tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi
vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn luôn bên cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu
khi gặp khó khăn, vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho
con cháu gặp điều lành và cũng trách phạt con cháu khi làm những điều tội
lỗi.
Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Trải
qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, hình thức này đã và đang chiếm được
vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần người Việt. Ý thức con người có tổ
có tơng được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác dù họ sống trên tổ quốc mình hay sống nơi xứ người. Cùng với tiến
trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý
báu của con người Việt Nam.
Với những lý do như trên về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt, tác giả đã chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ý nghĩa của thờ
cúng tổ tiên trong đời sống người Việt” để làm đề tài nghiên cứu của mình.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG
TỔ TIÊN
1.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt:
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích
thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi
khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tơn giáo ở chỗ,
tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tơn giáo, tín ngưỡng có tổ chức
không chặt chẽ như tôn giáo.
1.1.2. Lý do người Việt thờ cúng tổ tiên

Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người
cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v… là người đã sinh ra
mình. Tổ tiên cũng là những người có cơng tạo dựng nên cuộc sống hiện tại
như các vị “Thành hồng làng” các “Nghệ tổ”. Khơng chỉ thế, tổ tiên cịn là
những người có cơng bảo vệ làng xóm, q hương, đất nước khỏi nạn ngoại
xâm như Trần Hưng Đạo đã thành “Cha” được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8
âm lịch hàng năm. “Tháng 8 giỗ cha” ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người
Việt.
*Cơ sở tâm linh:
Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tơn giáo tín
ngưỡng nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như
nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” –
mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình, và linh
hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Từ quan niệm đó hình thành nên niềm
tin về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống

2


(cùng chung huyết thống). Người đã chết bằng linh hồn trở về chứng kiến,
theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ.
Ngồi lí do tin vào những người đã khuất, ý thức tôn trọng cội nguồn
và đức tính hiếu thảo của người Việt cũng là cơ sở quan trọng hình thành nên
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh
thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống đồng thời cũng thể hiện trách
nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách
nhiệm được biểu hiện khơng chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và
tiếp tục truyền thống của gia đình, dịng họ, đất nước) mà còn ở trong các
hành vi cúng tế cụ thể. Từ đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần được hình
thành.

Người phương Đơng vốn có thói quen tâm lý duy tình nhưng biểu hiện
này ở người Việt càng trở nên sâu sắc hơn. Con người vừa chịu quan niệm
“sống vì mồ mả, ai sống vì bát cơm” mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”
nhưng lại lo trách nhiệm để phúc cho con cháu “đời cha ăn mặn đời con khát
nước”. Bởi vậy mà khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ,
định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình, đạo lý làm người cho
con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho tương lai.
Cơ sở xã hội:
Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trị của người đàn ơng trở nên
quan trọng trong họat động kinh tế và sinh họat của gia đình. Con cái mang
họ cha và con trai kế tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình của mình. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy..
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên cịn chịu ảnh hưởng từ ba dịng tơn giáo chính ở Việt Nam. Đó là:
Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người khơng phải do
tạo hóa sinh ra càng khơng phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống
3


của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì
thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân,
quyền huynh thế phụ đã củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta
ngày một thể chế hóa.
Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật
tự kỉ cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo
giáo góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh
hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa
chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam trước hết là quan niệm của Phật giáo

về cái chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo
có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người
Việt nhưng khơng vì thế mà có sự sao chép y nguyên. Người Việt Nam quan
niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ
đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ
quan tâm đến sự sống của người đang sống.
1.2. Ý nghĩa của việc thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của những linh
hồn và mối liên hệ giữa người đã khuất và người sống bằng đấng vơ hình hiện
hữu trong cuộc sống dõi theo con cháu và đem lại phước lộc, tài thọ cho họ.
Trải qua sự luân chuyển và biến cố của lịch sử, nhiều tín ngưỡng dân
gian đã gặp phải thời kì khó khăn khi bị quy kết là “mê tín dị đoan” thế nhưng
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn tồn tại trong tiềm thức của mỗi người dân
Việt.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mang một ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với dân tộc Việt Nam. Thông qua phong tục này, nó khơng chỉ thể hiện ý thức
4


ln hướng về nguồn cội, bày tỏ lịng hiếu thảo mà cịn mang giá trị về mặt
tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa bày tỏ sự biết ơn luôn
hướng về cội nguồn của mỗi người, với cội nguồn dân tộc.
1.3. Các hình thức thờ cúng:
1.3.1. Cúng cáo thường xuyên
Người Việt thường cúng Gia tiên vào ngày Sóc– Vọng (Sóc là ngày
Mồng Một, Vọng là ngày Rằm hàng tháng), lễ Tết, giỗ hoặc bất kỳ lúc nào
cần được gia tiên phù hộ như: sinh con, đẻ cái, kết hơn, làm nhà, lập nghiệp,
có trục trặc về sức khỏe. Đây là cách để thể hiện đạo lý Uống nước nhớ
nguồn.
Ngày cúng giỗ Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc

cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch
(hay cịn gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh
hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào
các ngày mồng một (cịn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng),
và các dịp lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết
Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập… Những khi trong nhà có việc
quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử…, người
Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù
hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.
Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể
hiện lịng thành kính với vong linh người đã khuất, không phụ thuộc vào việc
làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nước, quả trứng, nén hương cũng giữ được
đạo hiếu.
1.3.2. Cách thức lễ
Nghi lễ thờ cúng: trước khi tiến hành nghi lễ thờ cúng gia chủ phải tắm
rửa sạch sẽ bằng nước cây cỏ có mùi thơm. Sau đó người thực hiện việc cúng
5


phải mặc quần áo chỉnh tề thường thì quần áo mà gia chủ mặc là đò trắng. tuy
nhiên trong xã hội hiện đại ngày nay thì chỉ cần ăn mặc chỉnh tề và người ta ít
quan tâm hơn đến cách ăn mặc trong những lễ cúng.
Cách thức vái lạy:
Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời.
Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để
trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó
ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên.
Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái
Lạy là hành-động bày tỏ lịng tơn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn
và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai

thế lạy: thế lạy của đàn ơng và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2
lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.
Ở đàn ơng và đàn bà có tư thế vái là lạy khác nhau. Thế lạy của đàn
ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao
lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt
chiếu hay mặt đất thì xịe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối
bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo
thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên
đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân
phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên
để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy
tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái
ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo
thuận chân nào thì q chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào
xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước
6


nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên.
Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái
xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng
cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về
phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt
chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu
mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau
về phía sau để che mơng cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước
ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu
xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp

xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng
hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa
lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết
(xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái
rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cách khấn tổ tiên: Lời khấn vái là lời nói chuyện với người q cố, do
đó lời khấn là tấm lịng của người cịn sống. thì muốn khấn sao cũng được.
Lễ khấn gồm các thủ tục như sau:
– Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa
thì khăn đống áo dài) đi ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa
chứ khơng đóng được cửa kín mít.
– Sau đó phải khấn xin Thành Hồng Thổ địa để họ khơng làm khó dễ
Linh về hưởng lễ giỗ.
Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:
Duy …..quốc…..Tỉnh/Thị xa…. trang/gia tại… (số nhà). Việt lịch thứ
488…, thử nhật … (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là Hiển
7


khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì thêm chữ tổ –
hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tơn v.v là (Tên) tâm thành kính cáo thành hoàng
và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ
hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển
tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn
chứng giám. Cẩn cáo.
Đồ lễ dâng cúng gia tiên: Thịt động vật để cúng gia tiên là những động
vật mà con người cho là “ thịt sạch”. Theo đó những con vật có đặc tính xấu
bị loại bỏ trong cúng tế. Ví dụ con chuột tương ứng với loại người chun
làm chuyện đục kht, con rắn có nọc độc hình ảnh của người độc ác, con vịt
lạch bạch không bay xa là so sánh của người chậm chạp… cá mè, cá trê, lươn,

chạch vv… không được xem là những đồ lễ sạch vì chúng sống dưới bùn nhơ
hoặc tanh tưởi hay có màu đen màu của tang tóc. Con chó – một con vật ni
cực kì thân gần với người, nhưng đồ ăn từ thịt chó lại bị xem là những thứ
khơng tinh sạch, bởi chó ăn chất thải khơng thể dùng trong tế lễ.
1.3.3. Bàn thờ tổ tiên:
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay
còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác
nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất.
Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát
hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với
nhiều bông nhỏ bao quanh bơng lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc”
(một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi
gấp 5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương
dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa
đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi
miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của
nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai
8


cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn
linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng
nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà
tầng). Trên bàn thờ thì bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người
quá cố, chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản khơng thể thiếu hương, hoa, chén nước
lã. Ngồi ra có thể có thêm thức ăn, trà rượu, và có khi có cả đồ vàng mã
(quần áo đồ dùng làm bằng giấy), tiền âm phủ… Sau khi tàn một nửa tuần
hương, đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là hố vàng, cịn
chén rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng phải làm

như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời,
nước (rượu) hịa với lửa mà thấm xuống đất.
II. THỰC TRẠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TẠI VIỆT NAM VÀ
GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.
2.1.1. Mặt tích cực
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội, tồn tại
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt của hiện
tượng này là ở chỗ, nó nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến
nguồn, “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà,
cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã
trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp trong truyền thống văn hố của
nhiều dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên góp phần tạo sự đồng thuận trong
xã hội. Điều này càng thể hiện rõ thực trạng của tín ngưỡng, tơn giáo:
Một là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong gia đình, họ
tộc. Ơng bà ta có câu: “Chim có tổ, người có tơng”, “cỏ cây có gốc rễ”, “sơng
suối có ngọn nguồn”, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con người hướng
9


về gốc rễ, cội nguồn, đã khơi dậy đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ
người trồng cây, từ đó tạo điều kiện cho sự gắn bó trong quan hệ huyết thống
giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc. Mỗi gia đình dù sang hèn, giàu
nghèo khác nhau. dù sinh sống ở quê hương hay xa xứ cũng đều có nhu cầu
hướng về tổ tiên để tỏ lịng tri ân những người có cơng sinh thành và ni
dưỡng con cháu.
Hai là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong cộng đồng
làng xã.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có hai lớp chủ yếu là trong gia đình và

ngồi dịng họ nhằm củng cố và thắt chặt quan hệ huyết thống của gia đình
hạt nhân và gia đình mở rộng. Khơng kể thân thế, sự nghiệp ra sao (giàu sang
hay nghèo hèn, quan lại hay thứ dân) nếu được làng xã tơn vinh là thành
hồng đều được cả dân làng sùng kính. Trung tâm thờ cúng thành hồng hay
thần làng là ngơi đình. Đó là nơi tụ tập dân làng để giải quyết cả việc đời lẫn
việc đạo, từ việc vui chơi giải trí đến bàn luận lo toan việc làng, nước. Tín
ngưỡng thờ thành hồng có sức quy tụ, lôi cuốn đối với cư dân làng xã, khơng
chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà cịn tạo sự đồng thuận trong đời sống thế
tục.
Thờ cúng Tổ tiên là thơng qua những nghi lễ để tỏ lịng thành kính, biết
ơn của con cháu đối với người đã khuất. Trong sâu thẳm tâm thức, nhiều
người Việt tin rằng, tuy đã mất nhưng vong hồn Tổ tiên vẫn còn bên con
cháu, che chở, nhắc nhở động viên mình. Do đó, thờ cúng Tổ tiên là đạo lí ở
đời, là “đạo nhà” của người Việt Nam.
Ba là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong cộng đồng
dân tộc – quốc gia.
Khi đời sống vật chất của con người được nâng cao, có điều kiện chăm
lo cho việc thờ cúng, lễ nghĩa đối với những người đã khuất. Hơn nữa, khi xã
10


hội phát triển mạnh mẽ thì đời sống vật chất cũng được cải thiện, thỏa mãn
nhu cầu tinh thần ngày càng cao. Mặt khác, do điều kiện nước ta trải qua
những cuộc chiến tranh gian khổ, ác liệt thì người Việt lại có dịp ơn lại lịch sử
của ơng cha và cần phải có những biểu hiện để báo đáp cơng ơn của người đi
trước mà do hồn cảnh khi đó chưa làm được.
Ở Việt Nam có ba cộng đồng vốn từ xa xưa đã có quan hệ gắn bó chặt
chẽ với nhau, đó là: gia đình, làng xã và quốc gia. Trong tâm thức sâu thẳm
của người Việt, khó mà tách biệt cơ lập giữa gia đình, làng xã và đất nước,
“nước mất thì nhà tan”, “trả thù nhà” gắn liền với “đền nợ nước”. Cụ Phan

Bội Châu trong Quốc sử khảo có viết: “Nước là cái nhà to, nhà là cái nước
nhỏ”. Vì vậy, tổ tiên gia đình, làng xã và đất nước không tách rời nhau. Trong
gia đình có ơng bà, tổ tiên, làng xã có thành hồng, phạm vi quốc gia có vua
Hùng.
Bốn là, thờ cúng tổ tiên góp phần tăng cường sự đồng thuận giữa các
tơn giáo.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, đang diễn ra cuộc “xung đột văn
hố”, “xâm lăng văn hóa” hay sự “đối đầu giữa các nền văn minh” là một
thách thức trong những thách thức lớn của thời đại. Sự phục hồi và phát triển
của thờ cúng tổ tiên ở nước ta những năm gần đây, rất có thể là điểm tựa để
chống lại sự xâm lăng văn hóa từ bên ngồi đang có nguy cơ làm xói mịn bản
sắc văn hố dân tộc. Các tơn giáo ở Việt Nam từ Phật giáo, Đạo giáo và đặc
biệt là Khổng giáo rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, cho đến sau này có sự xuất
hiện đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội… cũng coi
thờ cúng tổ tiên như một bộ phận không tách rời trong giáo lý, lễ nghi và hoạt
động của các tôn giáo này.

11


2.1.2. Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt văn hóa tiến bộ thì hoạt động thờ cúng cũng mang
theo khơng ít những hoạt động tiêu cực đáng lên án và phê phán kịch liệt. Đó
là xu hướng phục hồi các hủ tục đã lạc hậu và các hình thức thiên về mê tín đã
khơng cịn phù hợp với cuộc sống hiện tại. Nếu nhìn lại suốt chiều dài lịch sử,
có lẽ chưa bao giờ mọi sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt lại có cơ nở rộ
mn hình vạn trạng như hiện nay.
Thứ nhất, biểu hiện ở chỗ nhiều người tin vào sự tồn tại của tổ tiên nên
khi làm bất cứ chuyện gì cũng phải khấn vái tổ tiên, mong tổ tiên phù hộ độ
trì, vạn sự như ý.

Nhiều gia đình cúng lễ ở nhà cảm thấy chưa đủ, họ cịn đi đến cả đình,
đền, miếu, phủ để cầu cúng. Người Việt quan niệm rằng “trần sao âm vậy”
hay “đa lễ thì đa lộc” do đó thường xun đi cầu tài, cầu lộc tốn rất nhiều thời
gian, công sức và tiền bạc. Trong những năm gần đây, hoạt động mê tín dị
đoan ngày càng lấn áp và ảnh hưởng xấu đến đời sống của xã hội. Những biểu
hiện đó là do cịn thiếu nhận thức, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý truyền
thống lạc hậu, thói quen bng lỏng quản lý và xem nhẹ việc giáo dục nếp
sống và lối sống thiếu sự quy định chặt chẽ của nhà nước đối với việc thờ
cúng trong các dịp lễ tết, cưới hỏi, ma chay…
Thứ hai, người Việt có thói quen hay phơ trương gây lãng phí của cải
và thời gian trong các dịp cúng giỗ, tang ma… gây ảnh hưởng không tốt tới
thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt.
Việc chia buồn đến những gia đình có chuyện buồn khơng còn như
ngày xưa nữa mà bây giờ được “tiền lệ hóa” hay “phong bì hóa”… đó chính
là vẫn đề nhức nhối, làm xói mịn giá trị đạo đức của con người nói chung và
người Việt nói riêng đã được ơng bà, tổ tiên xây dựng nên từ bao nhiêu thế kỷ
nay. Với những đặc điểm trên, nó đã cho chúng ta thấy được hoạt động thờ
12


cúng tổ tiên trong thời gian gần đây diễn ra rất phức tạp. Vì vậy, muốn phát
huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực thì cần phải có những phương
hướng và giải pháp đồng bộ.
Thứ ba, người Việt vẫn xem người chết như những vị thần bảo hộ, che
chở cho mình và đặt ra những hình thức lễ bái rườm rà mang tính chất mê tín.
Đây là một một ý niệm hư ảo hoang đường và phản khoa học. Người
sống có thể xác vật lý nên có nhu cầu ăn, uống, sinh hoạt. Người sống cần
tiền để trang trải cho những chi phí trong sinh hoạt thường nhật. Người chết
khơng có sự sống nên xác thân phải bị vùi chôn dưới ba tấc đất để nhận chịu
sự phân hủy, và trở về với cát bụi. Thể còn lại chỉ là linh khí, khơng ăn, khơng

uống, khơng nói, khơng cười, không biểu lộ được cảm xúc, và cũng không
sinh hoạt hành động như người sống.
Thứ tư, bên cạnh những nghi thức cúng bái cầu kỳ, rườm rà với đủ thứ
hình thức lễ lạc gây tổn phí cho con cháu, một số gia đình ở các địa phương
cịn đua nhau việc trùng tu mồ mả ông bà với qui mô như một lăng tẩm với
chi phí rất lớn.
Việc làm này, chẳng những khơng nhận được sự đồng tình của nhiều
người mà còn bị tiếng đời mỉa mai chê trách, cho rằng đây là một hình thức
phơ trương, vừa lãng phí tiền của và cơng sức của con cháu, vừa phí phạm
nhiều diện tích đất, đáng lẽ ra chỉ nên sử dụng cho những mục đích hữu ích và
thực tế hơn. Những hủ tục vừa kể trên được truyền đời trải qua nhiều thế hệ,
thế hệ sau cứ tiếp nối những thế hệ đi trước mà làm theo.
Thứ năm, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt phản ảnh sự
khiếm khuyết về mặt tinh thần, sự non nớt trong nhận thức, sự bất an trong
cuộc sống, nỗi sợ hãi thiên nhiên của con người. Hơn nữa, tập tục này còn
làm chậm tiến trình phát triển của nền kinh tế nước nhà, trong khi đất nước
Việt Nam đang trên đà vươn đến một xã hội văn minh hiện đại, để nhanh
13


chóng bắt kịp đà phát triển của thế giới trong thời đại công nghệ thông tin như
hiện nay. Bên cạnh đó, tập tục này cũng gây nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến
cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt, vì ép buộc con cháu phải duy trì và
tuân thủ nhiều hủ tục khơng cịn thích hợp trong thời đại cơng nghệ khoa học
hiện đại.
2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm định hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên
của người Việt hiện nay.
Trên cơ sở những phương hướng đã đặt ra, để bảo tồn và phát huy có
hiệu quả những di sản tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, cần phải
thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, từng bước nâng cao đời sống vật chất cũng như đời sống tinh
thần của con người nói chung và với người Việt nói riêng. Con người là một
thực thể của xã hội và luôn vận động, phát triển không ngừng theo nhiều
chiều hướng khác nhau nên rất khó thỏa mãn được nhu cầu của con người. Vì
vậy, để khắc phục những tiêu cực của tín ngưỡng, tơn giáo nói chung và tín
ngưỡng thờ cúng của người Việt nói riêng là phải từng bước ngày càng nâng
cao đời sống vật chất tinh thần của người Việt, đặc biệt là các nhu cầu về vật
chất, bởi vì “có thực mới vực được đạo”. Việc nâng cao đời sống vật chất cho
người Việt sẽ là nền tảng cơ bản và lâu dài để đẩy lùi các hủ tục lạc hậu, khắc
phục được nguồn gốc xã hội gây mê tín dị đoan.
Hai là, cần phải xây dựng một mơi trường văn hóa xã hội thân thiện,
lành mạnh cho nhân dân Việt Nam nói chung và người Việt nói riêng. Mơi
trường xã hội chính là nơi con người sinh sống và hoạt động vì thế chúng có
vai trị hết sức quan trọng ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, nếp nghĩ, lối sống
và các hoạt động xã hội của con người. Mơi trường văn hóa là cách thể hiện
bên ngoài của tâm linh, của phong tục thờ cúng và của các tôn giáo khác. Môi
trường văn hóa ở đây chúng ta có thể hiểu đó chính là mơi trường của gia
đình và xã hội. Gia đình chính là tế bào của xã hội, nó được xem như là một
14


đơn vị của xã hội, ở đó diễn ra các quá trình sinh hoạt đời sống vật chất cũng
như tinh thần của cả cộng đồng, song nó lại mang một sắc thái huyết thống
nhất định. Gia đình là nơi mà con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và
trưởng thành trong sự giáo dục của gia đình và cộng đồng xã hội…từ đó hình
thành trong mỗi con người những nét tư tưởng, tình cảm đẹp đẽ. Từ đó mà
phong trào xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh trong cộng đồng
người Việt nói riêng và cộng đồng người nói chung từ đó giúp cho xã hội
giảm bớt, xóa bỏ đi những hủ tục từ nghìn đời nay của người dân.
Ba là, kết hợp tuyên truyền giáo dục với việc tăng cường các biện pháp

tổ chức, quản lý của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta cần tuyên truyền giáo
dục sâu rộng và mạnh mẽ hơn nữa nhằm làm cho tầng lớp quần chúng nhân
dân nhận thức được mặt tích cực cũng như tiêu cực của hoạt động tín ngưỡng
bởi vì tín ngưỡng chính là sản phẩm của tinh thần của con người, việc tín
ngưỡng “tốt” hay “xấu” khơng phải ở bản thân của nó mà là ở chỗ con người
sử dụng nó như thế nào. Thực tế trong lịch sử nhân loại và lợi ích dân tộc
nhiều khi tín ngưỡng bị lợi dụng vào các mục đích xấu, từ đó con người có
những suy nghĩ khác, khơng đúng cho tín ngưỡng, gắn cho nó là cái xấu, là
mê tín dị đoan và vùi dập nó một cách khơng thương tiết.
Để tun truyền, giáo dục có kết quả tơt nhất thì cần phải tăng cường
cơng tác lãnh đạo, quản lý bằng cách tăng cường hơn nữa chất lượng công tác
của những người chịu trách nhiệm về văn hóa. Đảng và Nhà nước cần có
những chính sách đãi ngộ hơn nữa những người tham gia cơng tác quản lý
văn hóa, quản lý đời sống tinh thần của con người đặc biệt ở Người Việt ở
những vùng sâu xa hẻo lánh.
Bốn là, tín ngưỡng thờ cúng ơng bà, tổ tiên của người Việt không chỉ là
cách ứng xử của người sống đối với những người đã khuất mà còn là cách
ứng xử giữa những người đang sống. Đây chính là nét độc đáo cảu dân tộc
Việt Nam nói chung mà khơng phải bất kỳ dân tộc nào trên thế giới cũng có
15


được. Hoạt động thờ cúng ông bà, tổ tiên của người Việt trước hết nó thể hiện
lịng thành kính đối với tổ tiên của mình, nó được thể hiện qua hành vi cư xử
của con cháu đối với ông bà, bố mẹ đang sống và đối với những người đã
khuất. Do đó cần phải tăng cường khích lệ lịng hiếu thảo của con cháu đối
với ơng bà, cha mẹ. Đó vừa là nghĩa vụ vừa là tình cảm thành kính của con
cháu đối với các bậc sinh thành.
Đối với người Việt, việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành một nét văn hóa
đặc trưng khơng thể thiếu trong mỗi gia đình, là một quy luật tất yếu khách

quan của tạo hóa. Do đó muốn có được một gia đình đầm ấm thì mỗi thành
viên phải tự biết nhìn nhận một cách tốt nhất, có như vậy tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của mỗi gia đình Việt Nam nói chung sẽ tạo thành một tín ngưỡng vơ
giá trong lịng mỗi người dân và đối với cả dân tộc.
Năm là, cần phải tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Trên cơ sở đó đánh giá lại tồn bộ
các giá trị tryền thống của tin ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, để lựa
chon những phương thức, biện pháp bảo tồn và phát huy đối với tín ngưỡng
thờ cúng này.
Những giá trị cũ, có thể cải biến, chắt lọc được những yếu tố tích cực
để phục vụ cho sự phát triền. Bên cạnh đó càn cải biến lại cho phù hợp để
tránh tình trạng lãng phí, tốn kém thời gian và tiền của. Những yếu tố văn hóa
tuy cũ, nhưng khơng gây cản trở cho sự phát triển, tậm chí còn đáp ứng được
nhu cầu của đời sống tinh thần của nhân dân thì khơng nên xóa bỏ. Bên cạnh
đó cần động viên, phát huy hơn nữa vai trò tiến bộ của dòng tộc, họ hàng nhất
là những người tiểu biếu, có uy tín trong dịng tộc, địa phương để đóng góp
cho sự phát triển của đất nước.

16


KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam nói chung và người Việt nói riêng, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên có nguồn gốc bản chất chung như các loại hình tín ngưỡng khác,
song nó có sắc thái riêng mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân nơng nghiệp
trồng lúa nước. Nó khơng chỉ là cách lý giải về vũ trụ, thế giới, về các hiện
tượng tự nhiên trong xã hội trong cuộc sống của con người mà còn là một triết
lý sống, một phong cách ứng xử đặc biệt của con người thể hiện đạo lý làm
người. Trong tâm thức của người Việt khơng gian vũ trụ bao la huyền bí là
tam phủ tứ phủ. Thời gian được đánh giấu bằng mùa vụ nông nghiệp, bằng

chu kỳ sinh trưởng của đời người và được đánh giấu bằng các nghi lễ vòng
đời người, bằng các lễ tết giỗ chạp các sự kiên quan trọng của các nhân và
cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên vì thế là triết lý sống của người Việt là cách lý
giải về cội nguồn của sự sống về mối quan hệ giữa sự sống và các chết.
Trên cơ sở của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc ở nước ta, thì việc tìm hiểu và phát huy những giá trị tốt đẹp mang
ý nghĩa giáo dục của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa và vai trị về cả lý
luận và thực tiễn. Đó là việc giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc tiêu biểu là chữ Hiếu - đạo Hiếu - đạo làm người, ý
thức nhớ về cội nguồn của bản thân và dân tộc về cộng đồng. Người Việt
Nam coi trọng ngày mất và ngày giỗ của tổ tiên, thể hiện của tinh thần coi
trọng quá khứ và di sản từ quá khứ. Là quan niệm chữ hiếu đối với thế hệ đi
trước, qua các nghi lễ thể hiện mong muốn ơng bà tổ tiên có một cuộc sống
tốt đẹp ở thế giới bên kia, bên cạnh họ cũng mong muốn được vong linh tổ
tiên che chở, “chỉ đạo” trước những khúc mắc của cuộc sống phàm trần, và ý
nghĩa giáo dục dành cho người còn sống.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (2005), “Nếp cũ Tín ngưỡng Việt Nam quyển
thượng”, Nxb Trẻ.
2. Trịnh Đình Bảy (2003), “Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa
học”, Nxb Chính trị quốc gia.
3. C. Mác – Ph. Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
4. Đinh Kiều Nga, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa
của ngườiViệt.
5. Kim Q (2012), Tìm hiểu phong tục thờ cúng của người Việt

ứng dụng trongcuộc sống & kinh doanh, Nxb. Lao động, Hà Nội.
6. Lương Thị Thoa, Đinh Văn Nghĩa, Nguyễn Thị Kiều Trang,
Trần Nam Trung (2015), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở một số quốc gia trên
thế giới và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
7. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam
hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Trần Đăng Sinh: Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên, tập chí Triết học.
9. S.A. Tokarev (1994), Những hình thức tơn giáo sơ khai và sự
phát triển của chúng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18



×