Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Bài Giảng Bệnh Cây Rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 110 trang )

Bệnh cây rừng
(Forest phytopathology)
Tổng số 45 tiết: - 30 tiết lý thuyết
- 15 tiết thực hành
Bài mở đầu
( tiết)
I. Mục tiêu:
Mục tiêu của bài mở đầu là:
- Giúp cho sinh viên hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu bệnh
cây rừng, tại sao phải nghiên cứu chúng?
- Mỗi sinh viên phải nắm được nhiệm vụ của môn học là gì?
- Mỗi sinh viên phải biết được lịch sử phát triển của môn học bệnh cây rừng
từ trước tới nay ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
- Phải biết được mối quan hệ giữa môn học bệnh cây rừng với các môn khoa
học khác.
II. Nội dung chính:
1. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu bệnh cây rừng:
- Bệnh cây rừng là một loại tác hại tự nhiên vô cùng phổ biến.
ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, hàng năm bệnh cây rừng
gây ra những tổn thất rất lớn cho nền kinh tế. Không những thế, chúng còn gây ra
những ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
- Ví dụ:
* ở Việt Nam:
Bệnh khô cành bạch đàn đã làm cho cây bị khô:
- ở Đồng Nai: 11.000 ha
- ở Thừa Thiên Huế: 500 ha
- ở Quảng Trị: Trên 50 ha
1
Bệnh khô xám lá thông, bệnh rơm lá thông, bệnh vàng lá sa mu, bệnh khô
héo trẩu, bệnh chổi sể tre luồng, bệnh tua mực quế, đã gây ra những ảnh hưởng
nghiêm trọng cho sản xuất lâm nghiệp ở nước ta.


* Trên thế giới:
+ ở Mỹ: Theo tạp chí "Chủ lâm trường"-1975, hàng năm ở Mỹ sâu bệnh hại
gây ra tổn thất cho cây rừng vượt quá 28 triệu mét khối.
Bệnh gỉ sắt thông đã làm tổn thất hàng năm một lượng gỗ là 6,8 triệu mét
khối.
+ Tại Nhật: Hơn 10 năm lại đây bệnh tuyến trùng cây thông ở Nhật đã lây
lan ra cả nước, hàng năm gây tổn thất 2 triệu mét khối gỗ.
+ Từ những năm của thập kỷ 70, bệnh loét thân cây du đã gây thành dịch ở
các thành phố lớn các nước châu Âu như Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Bỉ, Italy làm cho
cây dọc đường bị chết hàng loạt.
- Do tính chất ẩn náu của vật gây bệnh nên con người thường coi nhẹ những
tổn thất. Thực ra những tổn thất do bệnh gây ra còn gấp nhiều lần những tác hại tự
nhiên khác.
Theo tài liệu thống kê của Cục Lâm vụ nước Mỹ năm 1952, trong những
thiệt hại tự nhiên, giá trị tổn thất do:
. Bệnh cây rừng gây ra chiếm: 45%
. Sâu hại: 20%
. Cháy rừng: 17%
. Động vật + khí hậu: 18%
- Một số nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc, trong
các cơ quan nhà nước đều có cơ quan chuyên môn về phòng trừ sâu bệnh hại rừng.
2. Nhiệm vụ của môn học
- Nhiệm vụ của khoa học bệnh cây rừng là nghiên cứu các nguyên nhân gây
bệnh, triệu chứng và những ảnh hưởng của môi trường đến sự phát sinh, phát triển
của bệnh trên các loài cây dùng trong lâm nghiệp bao gồm cây gỗ, cây bụi, cây
nông lâm kết hợp, trong hệ sinh thái rừng. Từ đó đề ra cơ sở lý luận cũng như các
biện pháp phòng trừ bệnh cây rừng.
2
- Ngoài ra bệnh hại và biện pháp phòng trừ bệnh các loài cây ở vườn ươm,
cây che bóng dọc đường, cây lục hóa, cây cảnh và các sản phẩm chủ yếu của rừng

cũng thuộc phạm trù nghiên cứu của khoa học bệnh cây rừng.
3. Lịch sử phát triển của môn học:
* Trên thế giới:
- Khoa học vè bệnh cây rừng hay bệnh lý học cây rừng (Forest
phytopathology) mới hình thành từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
- Khoa học bệnh cây rừng được phát triển trên cơ sở của khoa học bệnh cây
và là một phân nhánh của khoa học bệnh cây.
- Lịch sử phát triển của môn học: 4 thời kỳ.
+ Thời kỳ mê tín: Từ cổ đại đến giữa thế kỷ 19.
Thời kỳ này bệnh cây chưa thực sự trở thành môn khoa học. Con người chưa
thực sự hiểu rõ nguyên nhân gây bệnh. Mặt khác do hệ ý thức duy tâm đang còn
khống chế, con người cho rằng mọi nguyên nhân gây ra bệnh cây đều do thần linh
gây ra. Vì vậy sinh ra thuật cầu cúng để mong thoát khỏi tai họa.
+ Thời kỳ xác nhận bản chất vật gây bệnh: Từ giữa thế kỷ 19 đến cuối
thế kỷ 19.
Thời kỳ này đã xác lập cơ sở của khoa học bệnh cây, nó có ý nghĩa quyết
định đến toàn bộ lịch sử phát triển về sau này và mở ra một đường hướng rộng lớn
cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học bệnh cây.
Trong thời kỳ này, các nhà khoa học bệnh cây đã xác định bệnh cây là do
nấm gây ra. Tiêu biểu là nhà bác học Đức Anton Đơ Bari (1831-1888), nhà bác học
Nga Voronin M.S. (1838-1903).
Đáng chú ý là công lao của Robert Hartig (người Đức) là người phát hiện ra
sợi nấm trong gỗ và mối quan hệ giữa sự hình thành thể quả nấm đến hiện tượng
mục gỗ. Ông là người đầu tiên viết cuốn "Bệnh cây rừng".
+ Thời kỳ phát triển tương đối toàn diện: Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế
kỷ 20.
Thời kỳ này ngoài việc phát hiện nấm là vật gây bệnh cây, các nhà khoa học
còn phát hiện virus, vi khuẩn. Các vấn đề về sinh thái bệnh cây, miễn dịch cây
trồng, hóa học bảo vệ cây trồng đã được nghiên cứu đến và giải quyết được những
nhu cầu cơ bản của sản xuất đương thời.

3
+ Thời kỳ cận đại: Từ đầu thế kỷ 20 đến nay.
Đây là thời kỳ phát triển cao độ của khoa học bệnh cây rừng, là thời kỳ vận
dụng khoa học duy vật biện chứng trong việc nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh,
các đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của vật gây bệnh và tìm biện pháp phòng
trừ có hiệu quả nhất.
. áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM).
. Phân loại bệnh.
. Điều tra dự tính dụ báo bệnh hại.
* ở Việt Nam:
- Khoa học bệnh cây rừng ở nước ta bắt đầu muộn hơn, có điều kiện phát
triển từ những năm đầu của thập kỷ 60.
- Từ những năm 1963 việc điều tra những tổn thất và các chủng loại nấm
mục gỗ và cây đứng đã được tiến hành khá toàn diện.
- Cho tới nay có thể biết đến gần 1000 loài nấm gây bệnh cho trên 100 loài
cây rừng.
- Các cơ quan về lâm nghiệp đã có các bộ phận chuyên trách về phòng trừ
sâu bệnh như Viện khoa học lâm nghiệp, Viện điều tra quy hoạch rừng, các trung
tâm bảo vệ rừng, Cục kiểm lâm,
4. Mối quan hệ với các môn học khác
Việc nghiên cứu bệnh cây rừng dựa trên cơ sở của những kiến thức các môn
khoa học khác như: sinh học, sinh lý thực vật, gỗ, lâm sinh học, di truyền, chọn
giống, thống kê toán học, kỹ thuật hiển vi,
4
CHƯƠNG I
Những khái niệm cơ bản về bệnh cây rừng
Tổng số tiết: - tiết lý thuyết
- tiết thực hành
I. Mục tiêu:
Chương này sẽ giúp cho sinh viên hiểu được:

- Bệnh cây rừng là gì?
- Những biến đổi trong cây bệnh và tác hại của quá trình bệnh lý?
- Các loại triệu chứng bệnh điển hình của cây rừng.
- Biết cách chẩn đoán bệnh cây theo các phương pháp khác nhau.
- Biết phân loại bệnh cây.
II. Nội dung:
1. Định nghĩa về bệnh cây rừng
Tùy theo quan điểm của từng thời kỳ mà có các khái niệm khác nhau.
- Thời kỳ xưa: Bệnh cây rừng là trạng thái đau khổ của vật hữu cơ.
- Ngày nay: Thực vật nói chung và cây rừng nói riêng là những sinh vật có
khả năng thích ứng nhất định với những biến động của môi trường bên ngoài hoặc
những kích thích của những sinh vật khác. Nếu cây rừng thích ứng được thì sẽ sinh
trưởng và phát triển bình thường. Nhưng khi những biến động và kích thích đó vượt
quá phạm vi thích ứng của nó thì những hoạt động sinh lý bình thường sẽ bị đảo
lộn, bị phá hoại, ảnh hưởng không có lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây,
thậm chí còn làm cho cây bị chết và gây ra những tổn thất cho kinh tế và sinh thái.
Chúng ta gọi hiện tượng không bình thường đó là bệnh cây (Phytopathology).
- Khái niệm vệ bệnh cây rừng bao gồm cả hai mặt:
5
Môi trường
Sinh lý đảo lộn

Giải phẫu tế
bào bị thay đổi

Thay đổi
hình thái bên ngoài
Sinh vật khác
Vật gây bệnh
. Sinh thái: Sự sinh trưởng, phát triển và sự sống bình thường của

bản thân cây rừng bị uy hiếp.
. Kinh tế: lợi ích kinh tế của con người bị tổn thất.
- Chú ý: Bệnh cây phải:
. Có một quá trình bệnh lý.
. Phải gây ra tác hại về sinh thái và kinh tế.
- Ví dụ:
. Bướu rễ: do nấm cộng sinh (thông)

có lợi
. Bướu rễ: do tuyến trùng

có hại.
Ngoài ra cần phân biệt với những hiện tượng thay đổi khác như cây bị chặt,
bị sâu hại hoặc động vật gặm vỏ cây, cây bị chết nhưng không có một quá trình
nào cả thì đó chỉ là tổn thương chứ không phải bệnh cây.
Hoặc những thay đổi có lợi cho kinh tế như khi kinh doanh cây cảnh người ta
tiêm một loại virus để làm nhỏ cây cũng không gọi là bệnh cây.
- Trong hệ sinh thái rừng, những nhân tố gây bệnh trực tiếp được gọi là
nguyên nhân gây bệnh, còn các nhân tố gián tiếp khác gọi là nhân tố môi trường
(bao gồm cả sinh vật và phi sinh vật).
- Nguyên nhân gây bệnh cây rừng cũng thường bao gồm hai loại: sinh vật
và phi sinh vật.
+ Nguyên nhân sinh vật: Là chỉ những sinh vật ký sinh lấy cây rừng làm
đối tượng hút thức ăn và được gọi là vật gây bệnh (Pathogen), chúng bao gồm
các loài chủ yếu như:
Nấm (Fungi).
Vi khuẩn (Bacterium).
Virus
Tuyến trùng (Giun tròn, Nematodes).
Cây ký sinh (Angiospermae).

Tảo (Algae).
Nhện (Eriophyes)
Những bệnh do sinh vật gây ra đều có thể lây lan, truyền nhiễm cho nên
thường được gọi là bệnh truyền nhiễm hay bệnh xâm nhiễm (infection diseases).
6
+ Nguyên nhân phi sinh vật: Bao gồm một loạt các nhân tố không thích
nghi cho đời sống bình thường của cây rừng như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, chất
dinh dưỡng, không khí,
. Thiếu nước thường gây khô héo.
. Nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều gây ra những tổn thương.
. Thiếu phân và nguyên tố vi lượng thường gây ra các hiện tượng thiếu chất.
Khác với các bệnh truyền nhiễm, chúng không có khả năng lây lan, cho
nên được gọi là bệnh không truyền nhiễm, hay bệnh phi xâm nhiễm
(noninfection diseases), có khi còn gọi là bệnh sinh lý (physiological diseases).
Đặc tính chống chịu hoặc tính nhạy cảm bệnh của các loài cây đối với các điều
kiện bất lợi đều không như nhau.
- Những cây bị bệnh cây được gọi là cây bệnh (disease plant).
- Những cây bị vật gây bệnh gây ra gọi là cây chủ (plant host).
2. Những biến đổi trong cây bệnh và tác hại của quá trình bệnh lý
Tùy theo mức độ sau khi bị bệnh, cây có những biến đổi, trước hết là những
biến đổi về sinh lý như hô hấp tăng lên, hoạt động của enzym peroxydaza tăng lên,
sự tổng hợp AND tăng lên, sự trao đổi chất dinh dưỡng và nước bị ảnh hưởng, sau
đó là sự thay đổi về giải phẫu và hình thái như mô tế bào bị chết, bề ngoài có các
đốm màu, đốm thối, loét, bướu,
Sự biến đổi về sinh lý thường được biểu hiện mấy mặt như sau:
2.1. Biến đổi tính chất lý hóa của tế bào
2.1.1. Biến đổi tính chất thẩm thấu của màng nguyên sinh
- Độ thẩm thấu của màng nguyên sinh chất tế bào tăng lên.
- Các chất vô cơ từ trong tế bào thoát ra ngoài hòa nhập với dòng nước
thoát hơi mà phá hủy áp lực thẩm thấu và tính trương của tế bào thực vật.

- Ví dụ: Nấm Fusarium spp. tiết ra axit fusaric làm thay đổi độ thẩm thấu của
chất nguyên sinh trong tế bào nên các ion kim loại K
+
, Ca
++
, các axit amin, axit
glutamic thoát ra ngoài mặt lá cây tăng lên gấp nhiều lần để nấm tận dụng làm thức
ăn.
7
- Cũng có một số trường hợp khi cây bị bệnh, độ thẩm thấu lại giảm xuống.
Hiện tượng này có liên quan đến phản ứng của những cây có tính chống chịu
cao.
2.1.2. Biến đổi độ nhớt của nguyên sinh chất
- Do tác động của vật gây bệnh, độ nhớt keo của chất nguyên sinh trong tế
bào cây chủ bị giảm sút.
2.1.3. Biến đổi số lượng và kích thước của ty thể, nhân tế bào
- Nhiều bệnh do virus gây ra thường làm cho số lượng ty thể (mitochondri)
bị thay đổi rất nhiều.
Ví dụ: Bệnh khảm lá làm cho số lượng ty thể bình quân tăng 35%,
- Nhân tế bào: kích thước nhân tế bào giảm đi.
Ví dụ: Bệnh rụng lá thông, do nhiễm sắc thể trong nhân bị nén chặt lại nên
thể tích của nhân giảm đi.
Sự thay đổi nhân tế bào và ty thể sẽ dẫn tới làm liệt quá trình tổng hợp
protein và trao đổi năng lượng trong tế bào.
2.2. Biến đổi cường độ quang hợp
- Khi cây bị bệnh, cường độ quang hợp giảm đi.
- Nguyên nhân:
+ Diện tích quang hợp bị giảm do các đốm bệnh hoặc lá bị phủ bởi bồ hóng
hoặc bột phấn trắng do nấm gây nên.
+ Khi cây bị bệnh hàm lượng diệp lục giảm xuống. Sự giảm sút chất diệp lục

là do nấm tiết ra enzym clorofilaza, proteaza.
- Ví dụ: Bệnh thối khoai tây cường độ quang hợp giảm đi 40% do hàm lượng
diệp lục giảm từ 24-36%
2.3. Biến đổi cường độ hô hấp
- Khi cây bị bệnh, lúc đầu cường độ hô hấp tăng lên rõ rệt để đề kháng

phản ứng bảo vệ.
- Sau khi các mô tế bào bị phá hủy thì cường độ hô hấp giảm đi.
8
- Một số trường hợp cây bị bệnh có cường độ hô hấp giảm xuống như
bệnh bồ hóng, bệnh phấn trắng.
2.4. Biến đổi các chất khoáng, gluxit và nitơ trong quá trình trao đổi chất
2.4.1. Biến đổi về nitơ:
Khi cây bị bệnh nói chung hàm lượng nitơ tổng số giảm xuống rõ rệt do:
- Quá trình dị hóa xảy ra nhanh và mạnh hơn cây bình thường.
- Hoạt động của enzym proteaza của vật gây bệnh, protein tạo ra tạm thời một
số lượng axit amin nhiều lên hoặc phân giải thành một số lượng amoniac.
- Cũng có trường hợp khi cây bị bệnh, chất lượng nitơ cũng bị thay đổi mà làm
thay đổi thành phần axit amin.
2.4.2. Biến đổi về Gluxit:
- Khi cây bị bệnh, tổng số đường trong cây lên xuống thất thường nhưng
cuối cùng cũng bị giảm xuống rõ rệt.
- Tỷ lệ các dạng đường cũng thay đổi.
Lượng đường đơn (Glucoza, Fructoza) có thể tăng lên nhất thời là do
các enzym của vật gây bệnh phân giải đường đa (Xacaroza, Mantoza, Lactoza)
thành đường đơn.
- Ngoài ra, bệnh cây còn phá vỡ sự vận chuyển, phân phối và điều chỉnh
các chất Nitơ, Gluxit. Thường các chất này tập trung quanh vết bệnh.
2.4.3. Biến đổi quá trình trao đổi khoáng
Khi cây bị bệnh, quá trình trao đổi chất khoáng cũng bị phá vỡ. Đó là do

vật gây bệnh làm thay đổi tác dụng thẩm thấu của tế bào, tính chọn lọc của màng
tế bào bị rối loạn, một số chất khoáng nào đó được tăng lên hoặc giảm xuống.
2.5. Biến đổi sự cân bằng nước
- Cây khoẻ, nước trong cây ở trạng thái cân bằng.
- Khi cây bị bệnh, cân bằng nước trong cây chủ bị đảo lộn. Nói chung khi
cây bị bệnh, cường độ thoát hơn nước tăng lên, làm các cây bị bệnh khô héo.
- Một số cây bị bệnh mạch dẫn: hiện tượng thoát hơi nước giảm xuống rất
nhanh do mạch bị tắc vì bị phá hủy.
9
3. Triệu chứng của bệnh cây rừng
- Sau khi bịnh bệnh và trải qua một loạt những biến đổi về sinh lý và giải
phẫu, cây bệnh thể hiện những đặc điểm hình thái khác nhau, những đặc trưng
hình thái này được gọi là triệu chứng (symptoms).
- Giai đoạn cuối vật gây bệnh ở một số bệnh có hình thành các cơ quan
sinh sản. Những cơ quan sinh sản hình thành trên tổ chức bị bệnh được gọi là
bệnh trạng hay dấu hiệu bệnh (signs).
Có những bệnh chỉ có triệu chứng mà không có dấu hiệu bệnh như bệnh do
virus gây ra.
Có những bệnh thể hiện dấu hiệu bệnh mà không thể hiện triệu chứng rõ rệt
như bệnh phấn trắng, bệnh bồ hóng.
Vì vậy chúng ta thường gọi chung là triệu chứng.
Ta có thể chia triệu chứng bệnh ra làm ba loại chủ yếu:
- Loại tăng sinh trưởng: Phần bị bệnh biểu hiện tăng thêm số lượng và thể
tích tế bào. Loại này thường có các bệnh bướu và chổi sể.
- Loại giảm sinh trưởng: Bệnh biểu hiện giảm nhỏ thể tích và số lượng tế
bào phát triển không đầy đủ. Loại này thường có các bệnh nhỏ lá, lùn cây, vàng lá.
- Loại chết thối: Mô và tế bào cây bị chết. Chúng thường có các bệnh đốm
và loét thân cành.
Bệnh cây, thường dựa vào đặc điểm triệu chứng để phân loại và đặt tên bệnh.
Các triệu chứng bệnh cây rừng có thể được chia ra mấy loại sau:

3.1. Loại bệnh phấn trắng (powdery mildew):
Bệnh phấn trắng do nấm phấn trắng gây ra. Trên bộ phận bị bệnh hình
thành lớp bột hình tròn, màu trắng, lan ra cả lá ở cả hai mặt của lá.
Ví dụ: Bệnh phấn trắng keo, phấn trắng dẻ, phấn trắng cao su, thừng mực,
3.2. Loại bệnh gỉ sắt (rust):
Bệnh gỉ sắt do nấm gỉ sắt gây ra. Thường ở phần bị bệnh có phủ lớp bột
màu vàng hoặc dạng sợi, hoặc dạng bọt, hoặc dạng u bướu.
Ví dụ: bệnh gỉ sắt tếch, tre, thông và nhiều cây nông nghiệp như lúa, cà phê,
sắn dây,
3.3. Loại bệnh bồ hóng (black mildew):
10
Do nấm bồ hóng gây ra. Thường phát sinh trên lá, quả và cành non. Phần bị
bệnh hình thành một lớp bột màu đen. Lớp bột đen này có thể xóa được.
Ví dụ: Bệnh bồ hóng trên lá lim, sở, mỡ, chè, nhội,
3.4. Loại mốc quả hạt (mould):
Do các loại nấm mốc gây ra. Trên quả và hạt thường có các lớp dạng mốc
màu xanh lục, màu đen, màu hồng, màu xám,
3.5. Loại bệnh đốm (spots):
Các đốm thường phát sinh trên lá và quả, có nhiều hình dạng và nhiều
màu sắc.
Nguyên nhân do nấm, vi khuẩn, virus, gây ra.
3.6. Bệnh đốm than (anthracnose):
Triệu chứng bệnh này giống như bệnh đốm nhưng do nấm than gây ra.
Trên đốm bệnh có lúc xuất hiện dạng dịch nhờn màu hồng.
Ví dụ: bệnh đốm than sở, đốm than sa mộc,
3.7. Bệnh loét (canker):
Do vi khuẩn và nấm xâm nhiễm làm cho vỏ cây nứt ra, lồi lên. Trên vết
loét xuất hiện các chấm nhỏ màu đen.
Ví dụ: Bệnh loét thân cành bạch đàn, loét thân cây keo,
3.8. Loại bệnh thối (rots):

Do nấm và vi khuẩn xâm nhiễm làm cho tế bào bị chết, các mô bị phân
giải.
Ví dụ: Các bệnh thối quả, thối gốc cây.
3.9. Loại bệnh mục gỗ (decay):
Thường do nấm mục gây ra. Sau khi mục trên gỗ thường hình thành thể quả
rất lớn.
Căn cứ vào màu sắc, hình dạng của gỗ mục, người ta chia ra mục nâu, mục
trắng, mục phiến, mục tổ ong,
3.10. Loại bệnh chảy nhựa (resin flux, gum):
Do nhiều nguyên nhân như nấm, vi khuẩn, sâu hại, các nhân tố khí
tượng làm tế bào bị thoái hóa và phân giải.
Ví dụ: Bệnh chảy nhựa lim, đào, mận,
11
3.11. Loại bệnh khảm (mosaic):
Do virus, mycoplasma gây nên. Màu sắc của lá bị bệnh thường không đồng
đều, chỗ đậm, chỗ nhạt xen kẽ nhau. Có khi trên lá xuất hiện màu tím, màu đỏ.
3.12. Loại bệnh bướu (gall):
Do vi khuẩn, nấm, tuyến trùng gây nên. Bướu thường hình tròn, có lúc hình
thoi, có kích thước khác nhau.
3.13. Loại bệnh mọc chùm (witches' broom):
Do nấm, mycoplasma và ảnh hưởng của các nhân tố khác. Đỉnh mầm bị
ức chế, mầm bất định bị kích thích mà phát triển thành các nhánh nhỏ. Cuối cùng
thành chổi sể hay mọc chùm, lá của nhánh bệnh thường rất nhỏ.
Ví dụ: Bệnh chổi sể tre, luồng, chổi sể sau sau,
3.14. Loại bệnh khô héo (wilt):
Do nhiều nguyên nhân như khô hạn, thối rễ, mô mạch dẫn bị tắc đều có
thể làm cho cây mất nước mà bị khô héo, sức căng tế bào giảm, lá bị héo.
3.15. Loại biến dạng (fasciations):
Do nấm, virus và các nhân tố môi trường có thể làm cho cây sinh trưởng
khác thường như lá cây nhỏ lại, cành dài ra, quả nhăn nheo,

Ngoài ra còn có một số triệu chứng khác như:
- Bệnh thảm lông (felt) do nhện (Eriophyes) gây ra.
- Bệnh do tầm gửi (Mistletoe).
- Bệnh do dây tơ hồng (Dodder).
- Bệnh đốm do tảo (Algae).
Các bệnh khô cành ngọn (diebacks), bệnh đổ gục (damping off) cây con
thường có các tên gọi khác nhau.
4. Chẩn đoán bệnh cây
- Chẩn đoán bệnh cây (diagnosis) là sự phân tích và xác định nguyên
nhân gây bệnh, làm cơ sở cho việc phòng trừ có hiệu quả.
- Phương pháp chẩn đoán:
4.1. Chẩn đoán theo triệu chứng bệnh
12
- Mỗi một loại bệnh đều có những đặc trưng riêng biệt về triệu chứng, nói
chung biểu hiện ở các mặt vị trí, hình dạng, màu sắc, kích thước đốm bệnh.
Ví dụ:
+ Bệnh đóm lá, mặt sau của lá thường có các chấm nhỏ màu đen.
+ Bệnh phấn trắng thường có bột trắng.
+ Bệnh bồ hóng thường có bột đen.
- Phương pháp này chưa thực sự chính xác vì trong thực tế một vật gây
bệnh có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau.
Ví dụ: Nấm Funsarium spp. gây nên bệnh thối cổ rễ có 5 loại triệu chứng:
Thối hạt, thối mầm, đổ non, chết đứng và khô ngọn lá.
Trái lại, có khi cùang một triệu chứng nhưng lại do nhiều loại vật gây
bệnh gây nên.
Ví dụ: Bệnh thủng lá có thể do vi khuẩn, có thể do nấm mốc gây nên.
Bệnh bướu cây có thể do vi khuẩn, có thể do nấm túi hoặc nấm đảm gây nên.
4.2. Chẩn đoán theo vật gây bệnh:
- Khi cây bị bệnh, vật gây bệnh thường tồn tại trên mô bệnh, đó là căn cứ
quan trọng để chẩn đoán bệnh cây.

Có thể quan sát bằng các dụng cụ quang học, dựa vào các bảng tra hoặc
các sách tham khảo để xác định vật gây bệnh.
- Phương pháp này cũng chưa hoàn toàn chính xác vì: Có khi trên cùng
một mô bị bệnh có nhiều loại vật gây bệnh cùng tồn tại. Vấn đề phải xác định được
loại nào là loại gây bệnh chính.
4.3. Thí nghiệm lây bệnh nhân tạo:
Việc ứng dụng nguyên lý Koch (Koch's portulates) để chứng minh tính lây
bệnh và tính gây bệnh là phương pháp chẩn đoán bệnh cây có tính khoa học
nhất. Phương pháp này được tiến hành theo 4 bước:
- Phân lập vi sinh vật thường xuất hiện trên mô bệnh và nuôi chúng trên môi
trường sinh dưỡng nhân tạo.
- Thuần chủng vật gây bệnh để thu được chủng nấm thuần khiết.
- Gây cấy chủng nấm thuần khiết lên cây chủ khoẻ và tạo điều kiện cho
chúng phát triển để chúng phát bệnh và quan sát những biểu hiện triệu chứng có
tương tự với triệu chứng bệnh cũ không.
13
- Từ mô mới bị bệnh lại phân lập loài gây bệnh đó.
Tuy nhiên, việc thí nghiệm trên không nhất thiết đều được thực hiện có kết
quả. Bởi vì, một số vật gây bệnh cho đến nay vẫn chưa có môi trường thích hợp hay
phương pháp lây bệnh nhân tạo thích hợp.
Đối với bệnh virus, mycoplasma, chúng ta chưa có phương pháp gây cấy trên
môi trường mà chỉ có bằng phương pháp tiếp ghép để chứng minh.
4.4. Chẩn đoán bằng phương pháp điều trị bệnh
- Bệnh truyền nhiễm: Dựa vào đặc điểm mỗi một loại vật gây bệnh nhậy
cảm với một số chất.
Ví dụ:
+ Bệnh do mycoplasma gây ra thường rất nhạy cảm với chất kháng sinh
streptomycin.
+ Xạ khuẩn thường rất nhạy cảm với penicillin.
+ Virus thì không nhạy cảm với chúng.

- Bệnh không truyền nhiễm: đối với các bệnh thiếu chất dinh dưỡng có thể
bón các loại phân hoặc nguyên tố vi lượng và từ hiệu quả có thể nhận biết được các
loại bệnh này.
Bệnh vàng lá: thiếu đạm (N).
Thông ở vườn ươm bị tím lá: thiếu P.
5. Phân loại bệnh cây:
* Có nhiều nguyên tắc phân loại bệnh cây:
- Dựa vào cây chủ:
+ Bệnh cây lá kim.
+ Bệnh cây lá rộng.
Hoặc:
+ Bệnh cây thông.
+ Bệnh cây bạch đàn.

- Dựa vào vị trí bị bệnh của cây chủ:
+ Bệnh hại lá.
14
+ Bệnh hại thân cành.
+ Bệnh hại rễ.
- Dựa vào quần thể vật gây bệnh:
+ Bệnh hại do nấm.
+ Bệnh hại do vi khuẩn.
+ Bệnh hại do virus.
+ Bệnh hại do cây ký sinh.

* Khi đặt tên bệnh cây, thường dựa vào:
- Triệu chứng.
- Vị trí bị bệnh.
- Tên cây chủ.
- Nguyên nhân gây bệnh.

Ví dụ: Bệnh đốm lá bạch đàn do nấm Septoria eucalypti gây nên.
Ngày nay thường sử dụng 3 phần trên làm tên gọi.
Ví dụ: bệnh đốm lá keo.
15
Chương ii
Bệnh không truyền nhiễm
Tổng số tiết: - tiết lý thuyết
- tiết thực hành
I. mục tiêu
Nhằm cung cấp cho sinh viên hiểu được đặc điểm chung của loại bệnh không
truyền nhiễm, các nhân tố phi sinh vật bất lợi gây ra loại bệnh này.
II. Nội dung
1. Đặc điểm chung
Cây rừng sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện môi trường nhất
định. Các nhân tố môi trường đó bao gồm khí tượng, đất đai, Trong các điều kiện
đó nhiệt độ, độ ẩm, chất dinh dưỡng là những nhân tố quan trọng.
Nếu các điều kiện đó không phù hợp với điều kiện sống bình thường thì cây
sẽ phát sinh ra những thay đổi về sinh lý, cấu tạo, phá vỡ sự thống nhất bên trong cơ
thể cây dẫn đến sự phá hủy quá trình trao đổi chất gây ra những hiện tượng bệnh lý.
Những bệnh hại do điều kiện phi sinh vật gây ra, người ta gọi là bệnh phi
xâm nhiễm.
2. Các nhân tố bất lợi của đất đai gây ra bệnh cây
Cây trồng muốn sinh trưởng và phát triển bình thường cần phải có 5 điều
kiện:
- Nhiệt độ thích hợp.
- ánh sáng đầy đủ.
- Nước đầy đủ.
- Không khí lưu thông.
- Chất dinh dưỡng hoàn thiện.
Trong 5 điều kiện đó, con người có thể khống chế được nguồn dinh dưỡng

khoáng và nước để cung cấp cho cây trồng. Các nhân tố khác có thể thông qua các
biện pháp chọn đất trồng thích hợp để tạo điều kiện cho cây trồng sinh trưởng và
phát triển một cách bình thường và thuận lợi.
16
Đất là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng và nước cho cây trồng. Thiếu hoặc
thừa chất dinh dưỡng và nước sẽ làm cho cây mất cân bằng và gây ra những ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của chúng.
2.1. Thiếu chất dinh dưỡng
Thực vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển cần rất nhiều chất như:
- Các nguyên tố đa lượng: C, H, O, N, S, P, K, Ca, Mg, Fe
- Các nguyên tố vi lượng như Mn, B, Cu, Zn, Mo.
- Các nguyên tố siêu vi lượng như Na, Si, Al, As, Co, F, Cl, Br, I, Hg, Ca,
* Chất Nitơ:
+ Vai trò của N đối với cây trồng: là chất chủ yếu cấu tạo nên protein trong tế
bào. Ngoài ra N còn có trong diệp lục, xenlulô, lipid, đường và các enzim.
+ Thiếu N cây có thể bị nhỏ lá, bị vàng và rụng lá.
Thiếu N có thể do:
- Bón phân không đủ.
- Có thể đủ N nhưng bị rửa trôi.
- Có thể N quá nhiều cũng gây vàng lá.
* Chất photpho (P):
+ Vai trò của P: Tồn tại trong nguyên sinh chất và nhân tế bào, trong lipid,
các enzim và vitamin. Làm cho cây tăng sức chống chịu bệnh.
+ Thiếu P lá chuyển sang màu xanh nhạt hoặc vàng sẫm, có đốm nâu, lá
rụng và khô ngọn. Nếu cây có quả, quả sẽ cứng, có vỏ dày, khi chín mềm nhũn.
Đối với cây lá kim thường bị tím lá, ngọn bị vàng.
* Chất Kali (K):
+ Vai trò của K: Làm cho vách tế bào dày thêm, chống bệnh đổ non, chống
lạnh và khô hạn.
+ Thiếu K lá nhỏ, xoăn lại, vàng, hoa rụng nhiều. Đối với cây lá kim các lá

phía dưới bị vàng.
* Chất Canxi (Ca):
+ Vai trò của Ca: Có trong vách tế bào và gian bào. Trong quá trình điều
hoà nguyên sinh chất, giảm bớt sự hoà tan nguyên sinh chất, có tác dụng điều chỉnh
độ pH, giảm độc hại do quá chua đối với cây.
17
+ Thiếu Ca bộ rễ kém phát triển, ngắn, màu vàng xám. Phần rễ kéo dài bị
thối. Cây sinh trưởng yếu, lá nhỏ, nhọn hoặc hình móc câu, lá mới ra đều bị khô.
* Chất Manhê (Mg):
+ Vai trò của Mg: là chất tổ thành chủ yếu của chất diệp lục, đồng thời nó
phối hợp với P có tác dụng điều tiết sự sống của cây trồng.
+ Thiếu Mg quanh gân lá có các đốm màu vàng khô không theo quy luật.
Trên cây lá kim thường thể hiện màu vàng đầu lá khi thiếu Mg.
* Chất sắt (Fe):
+ Vai trò của Fe: là nguyên tố vi lượng rất cần cho sinh trưởng của cây, có
tác dụng thúc đẩy sự hình thành chất diệp lục.
+ Thiếu sắt cây thường mất màu xanh, giữa các gân lá thường có màu vàng
hoặc vàng nhạt thậm chí biến thành màu trắng. Nếu thiếu sắt lâu dài trên lá sẽ có
các chấm nhỏ màu vàng nâu, dần dần rụng xuống.
* Chất lưu huỳnh (S):
+ Vai trò của S: là một trong những nguyên tố quan trọng của protein. Ngoài
ra S trong SO
4
có tác dụng quan trọng trong quá trình oxy hóa khử được tiến hành
trong hoạt động sống của cây.
+ Thiếu S thường gây hiện tượng mất màu xanh. Lúc đầu là ở gân lá gốc
cuống lá khô thành các đốm màu đỏ. Đỉnh lá non khô, lá dày cứng, cành dài, nhiều
chất gỗ, độ cao của cây thường không đạt tiêu chuẩn trồng.
* Chất Bore (B):
+ Vai trò của B: B trong đất có tác dụng làm tăng độ phì của đất, có thể cung

cấp oxy cho bộ rễ. B còn có tác dụng thúc đẩy quá trình ra hoa kết quả.
+ Thiếu B cây thường gây ra hiện tượng bướu rễ, làm cho hoa rụng sớm, làm
giảm chất diệp lục trong lá và biến thành màu tím. Điểm sinh trưởng có thể chết,
cuống và gân lá dễ gẫy, phiến lá biến màu đỏ.
* Chất đồng (Cu):
+ Vai trò của Cu: Tham gia phản ứng oxy hóa trong tế bào, tăng sức chống
chịu bệnh của cây.
+ Thiếu Cu cây sinh trưởng yếu, phát triển không bình thường, lá thường
biến màu trắng, giảm lượng thu hoạch hạt giống. Cây lá kim thường làm cho cành
cong nằm ngang mọc thành dạng chổi sể.
18
* Chất kẽm (Zn):
+ Vai trò của Zn: Tham gia vào việc thúc đẩy quá trình hô hấp của tế bào,
xúc tiến quá trình quang hợp.
+ Thiếu Zn có thể phá hoại chất kích thích sinh trưởng, ngăn sự hình thành
hợp chấp cacbon.
* Chất Molipden (Mo):
+ Vai trò của Mo: Tăng vi khuẩn cố định nitơ lên 6-7 lần.
+ Thiếu Mo lá thường bị vàng xoăn lại hoặc khảm lá.
2.2. Thiếu hay thừa nước
- Thiếu nước: cây bị khô héo, hoa quả rụng sớm.
- Thừa nước: cản trở hoạt động của bộ rễ, các vi sinh vật yếm khí hoạt động
gây độc cho cây, cây bị vàng và chết.
Đất thay đổi độ ẩm một cách đột ngột thường làm cho quả, củ nứt ra. Từ khô
hạn đến úng nước đột ngột sẽ làm tăng thể tích mô bên trong và mô bên ngoài
không kịp dãn ra và dễ nứt ra, tạo điều kiện cho bệnh loét thân, thối rễ xâm nhiễm.
3. Các nhân tố bất lợi của khí tượng gây bệnh cây
Các nhân tố môi trường phi sinh vật như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, các chất
hoá học không thích hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây rừng vượt
quá khả năng thích nghi sẽ gây ra bệnh và các nhân tố đó cũng trở thành nguyên

nhân gây bệnh.
- Nhiệt độ: Tác dụng của nhiệt độ không khí gây hại nhiều hay ít phụ thuộc
vào:
+ Các giai đoạn sinh trưởng của cây.
+ Đặc tính loài cây.
+ Hàm lượng nước trong cây.
Nói chung cây ở giai đoạn còn non, sinh trưởng mạnh thường có tính chống
chịu kém hơn cây ở giai đoạn già và giai đoạn ngủ nghỉ.
Mô tế bào chứa nhiều nước chống chịu rét kém hơn mô chứa ít nước.
+ Nhiệt độ thấp là nhân tố quan trọng gây ra bệnh cây rừng. Nhiệt độ thấp
đột ngột có thể làm cho hàng loạt cây trưởng thành chết.
Trong điều kiện ngày nóng, đêm lạnh, cây gỗ thường bị loét vỏ, chảy nhựa.
19
+ Nhiệt độ cao làm cho nhiệt độ mặt đất lên cao và có thể hun nóng chết cây
con.
- ánh sáng cũng ảnh hưởng đến cây. Thiếu ánh sáng, hoạt động quang hợp
của cây bị giảm sút, mầm lá có màu nhạt, uốn cong, vươn dài, mềm yếu, sức chống
chịu kém, dễ bị các loại bệnh xâm nhiễm.
Ví dụ: các vườn ươm lập dưới bóng râm, bệnh phấn trắng càng nặng, nhiều
bệnh đốm lá xảy ra trên các loài cây trồng quá dày như thông, keo,
4. Các hiện tượng ô nhiễm không khí gây ra bệnh cây
Phần lớn hiện tượng ô nhiễm là do chất thải của phương tiện giao thông,
công nghiệp, nhất là nhà máy gang thép, nhà máy nhiệt điện, các vùng khai thác
mỏ,
- SO
2
: thường xuất hiện khi đốt than và dầu hỏa, có nhiều cây rất nhạy cảm
với khí độc này.
Ví dụ: Khi trong không khí có lượng SO
2

là 0,05 ppm thì ngọn cây thông
trắng ở Mỹ bị khô ngọn, các lá có đốm vàng, phía ngọn la biến thành màu đen, về
sau thành màu đỏ sẫm, khi bị bệnh nặng, ngọn cây có thể bị hại và cả cây đều bị
chết.
Cây lá rộng lá có các đốm nâu.
SO
2
→ H
2
SO
3
→ H
2
SO
4
Có một số loài cây chống chịu được SO
2
như trinh nữ, hoè, liễu, trúc đào, cọ,
bách,
Các loài cây nhạy cảm với khí này là các loài thông.
- F: được thải ra từ các nhà máy khoáng thạch, luyện nhôm, gang, phân lân,
thủy tinh.
Cây lá kim khi bị hại, ngọn bị hại chết từ trên xuống.
Cây lá rộng bị hại thường làm cho mép lá, đầu lá có các đốm màu nâu đỏ,
giữa chúng có các viền. Khi quá nặng có thể làm cho lá rụng.
Tác hại: ức chế hoạt động của enzim. Kết hợp với Mg tạo thành MgF
2
phá
hoại chất diệp lục trong lá cây.
Các cây trinh nữ, liễu, hoè, sở, du sam, trúc đào, sồi, táo đều có tính chống

chịu với F.
20
- Các chất độc khác như CO
2
, CO, H
2
S: hình thành sau khi có phản ứng của
các chất thải công nghiệp, giao thông gây ra. Các chất khí này thường làm cho tính
chất của màng tế bào và tế bào chất thay đổi.
- Mưa axit cũng là sản phẩm của khí thải công nghiệp. SO
2
và NO
2
sinh ra
do đốt nhiên liệu chất khoáng, sau khi thải vào không khí sẽ chuyển thành H
2
SO
4

HNO
3
. ở châu Âu hàng loạt cây vân sam bị chết do mưa axit.
* Chẩn đoán bệnh không truyền nhiễm: Để chẩn đoán bệnh không truyền nhiễm,
người ta dựa vào các cơ sở sau đây:
- Những biểu hiện và diễn biến của triệu chứng bệnh.
- Các cây nhạy cảm với các tình trạng thiếu hay thừa dinh dưỡng.
- Kết quả phân tích các thành phần hóa học của đất.
- Tiến hành phòng chữa bệnh bằng cách bón phân với các chất mà cây có thể
thiếu chất dinh dưỡng nào đó để chẩn đoán.
21

Chương III
Bệnh truyền nhiễm
(Infection disease)
ở chương II chúng ta đã biết, bệnh không truyền nhiễm (Noninfection
disease) là những bệnh do các nhân tố phi sinh vật gây nên. Các nhân tố đó bao
gồm nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, chất dinh dưỡng, không khí, Gọi là bệnh không
truyền nhiễm bởi vì chúng không có khả năng lây lan.
Khác với bệnh không truyền nhiễm, bệnh truyền nhiễm hay bệnh xâm
nhiễm (infection disease) là những bệnh do các loài sinh vật gây ra. Các loài
sinh vật gây ra bệnh cây rừng bao gồm nấm (Fungi), vi khuẩn (Cacterium),
virus, tuyến trùng (giun tròn, Nematodes), cây ký sinh (Angiospermae), tảo
(Algae), nhện (eriophyes), , trong đó nấm chiếm tỷ lệ cao hơn cả.
Theo thống kê của Boyce (1948):
Nấm: 97%
Vi khuẩn: 20%
Các nhân tố còn lại: 1%
Theo thống kê của Brow (1968) trong 772 loài cây rừng nhiệt đới:
Nấm: 83%
Cây ký sinh: 12%
Vi khuẩn: 3,4%
Virus: 1%
Tuyến trùng: 0,3%
Tảo: 0,2%
1. Nấm gây bệnh cây rừng
Nấm là một quần thể sinh vật có khoảng 100.000 loài, có đặc điểm hình thái,
kết cấu và tập tính rất khác nhau.
Trong hệ thống phân loại cũ, nấm được coi như là một bộ phận của giới thực
vật và cùng với tảo chúng xếp vào ngành thực vật tảo nấm, hoặc trở thành ngành
đơn độc trong giới thực vật.
Cùng với sự phát triển của khoa học tế bào và khoa học phân tử, người ta

phát hiện nấm và thực vật có nhiều điểm khác nhau. Ba, bốn mươi năm lại đây,
người ta tách nấm ra khỏi giới thực vật và cùng với nấm nhầy lập thành một giới
nấm và được nhiều nhà khoa học chấp nhận. Nghĩa là nấm được tách ra một giới
riêng gọi là giới nấm (Fungi) bao gồm hai ngành:
22
- Nấm nhầy (Myxomycota)
- Nấm thật (Eumycota)
Nấm (Fungi) là thành viên quan trọng trong hệ sinh thái tự nhiên:
- Do nấm có tác dụng phân giải và lợi dụng xenluloza, lignin trên xác thực
vật, bao gồm cành khô, lá rụng, cây khô, cây đổ, chuyển hóa chúng thành các chất
vô cơ đơn giản cung cấp dinh dưỡng cho cây rừng, cho nên nấm là quần thể vi sinh
vật không thể thiếu được trong hệ tuần hoàn vật chất tự nhiên.
- Nhiều loài trong chúng đã trở thành nguồn thức ăn, dược liệu và công
nghiệp hóa học.
Tuy nhiên, nấm cũng là vật gây bệnh quan trọng của cây trồng và cây rừng.
Trong các vật gây bệnh cây rừng, nấm chiếm khoảng 83-95% và gây tác hại lớn
nhất.
Trên thế giới có nhiều bệnh cây rừng có tính hủy diệt như: ở Mỹ theo thống
kê năm 1975, bệnh gỉ sắt thông dẻ đã làm tổn thất hàng năm một lượng gỗ là 6,8
triệu mét khối. Bệnh khô cành cây du hàng năm đã gây tổn thất 10 triệu đô la
Cho nên trong khoa học bệnh cây rừng, nấm gây bệnh là vấn đề trung tâm
không những hiện nay và còn trong tương lai.
Nấm là sinh vật nhân thật không có diệp lục, có thể tiến hành sinh sản vô
tính và hữu tính:
- Phần lớn chúng sống trên xác các sinh vật theo phương thức hoại sinh:
Nấm mục,
- Một số sống ký sinh trên thực vật và động vật: Nấm phấn trắng, nấm gỉ
sắt
- Còn một số sống cộng sinh cùng với các sinh vật khác:


1.1. Đặc điểm hình thái cơ bản của nấm
Nấm là một loại sinh vật có tính đa dạng. Trong các giai đoạn phát triển,
chúng có các đặc trưng hình thái khác nhau. Cho nên, cùng một loài nấm, các giai
đoạn phát triển khác nhau thường bị nhận nhầm là hai loài nấm khác nhau.
1.1.1. Thể dinh dưỡng của nấm:
* Sợi nấm:
Thể dinh dưỡng điển hình của nấm là thể sợi nấm do các sợi nấm cấu tạo
thành, phân nhánh, sinh trưởng về phía ngọn theo nhiều hướng khác nhau.
Các sợi riêng lẻ gọi là sợi nấm (hypha).
23
Tập hợp các sợi nấm gọi là thể sợi nấm (mycelium).
Sợi nấm mọc lên về phía ngọn và mọc nhiều nhánh.
Sợi nấm không có vách ngăn Sợi nấm có vách ngăn
Khi ở ngoài mặt cây chủ hay giá thể, sợi nấm không màu, các sợi nấm tập
hợp lại thành sợi trắng như bông, phân thành nhiều nhánh, khi chuyển sang giai
đoạn hình thành bào tử thường có màu đen.
(Bậc thấp: Tảo, tiếp hợp: 1 tế bào, nhiều nhân, không có vách ngăn).
Trong cơ thể cây chủ, sợi nấm sinh trưởng về các hướng khác nhau để hút
chất dinh dưỡng, sợi nấm thường có màu nâu thẫm, nhiềm vách ngăn hơn.
(Bậc cao: nấm túi, nấm đảm)
Sợi nấm ở các nhóm khác nhau có cấu trúc hiển vi khác nhau.
* Cấu tạo + hình thái: Là một tổ chức dạng sợi hình ống, không màu hoặc
màu nâu. Vách tế bào chứa các hợp chất các bon như xenlulo, pectin, hemixenlulo,
các chất chứa nitơ (tựa kitin).
Trong màng tế bào, ngoài tế bào chất ta có thể thấy các cơ quan và các chất
nội bào như ty thể, dịch bào, bào nang, lưới nội chất, thể ARN, vi thể, tinh thể và
bột giới tính.
ở nhóm nấm bậc thấp, chiều dài sợi nấm đến vài cm, nhưng thường không có
vách ngăn với vô số nhân, dù có phân nhánh cũng chỉ có một tế bào gọi là sợi nấm
đơn bào. (nấm mốc)

24
Ngượi lại ở nhóm nấm bậc cao, sợi nấm có nhiều vách ngăn gọi là sợi nấm
đa bào. Trên vách ngăn có nhiều lỗ nhỏ thông nhau, làm cho các nguyên sinh chất ở
các tế bào có thể di chuyển cho nhau, có lúc, thậm chí nhân tế bào cũng có thể
xuyên qua được.
(Sợi nấm có 1 nhân: Nấm phấn trắng,
Sợi nấm có 2 nhân: Nấm gỉ sắt (giai đoạn bào tử đảm)).
Sợi nấm nói chung hình thành từ bào tử nảy mầm, mọc ra ngoài về phía
ngọn. Nhưng mỗi phần của sợi nấm có thể sinh trưởng, bất cứ một mẩu sợi nấm nào
cũng có thể hình thành sợi nấm mới.
(Các nhà bệnh cây, các nhà nấm học lợi dụng tính chất này để tiền hành phân
lập, gây nuôi nấm bệnh cũng như nấm ăn).
* Biến thái của sợi nấm:
Khi gặp những điều kiện bất lợi hoặc đến giai đoạn cuối của thời kỳ sinh
trưởng thì thể sợi nấm tụ lại với nhau thành các tổ chức đặc biệt như hạch nấm, bó
nấm hình rễ, màng nấm, bào tử vách dày, vòi hút, chất đệm, Những kết cấu đó có
chức năng đặc biệt trong việc sinh sản, lây lan và chống chịu với điều kiện môi
trường không thuận lợi.
- Hạch nấm (Sclerotia):
Là những hạt do nhiều sợi nấm kết lại có kích thước khác nhau (có cái đường
kính đến 30cm, có cái nhỏ bằng hạt bột, mắt thường hơi khó thấy).
Tầng ngoài là một lớp tế bào vách dày, màu nâu thẫm kết thành một lớp vỏ
cứng bảo vệ.
Tổ chức bên trong xốp, màu trắng.
Hạch nấm thành thục thường tách ra một hạt riêng lẻ, không có sợi xung
quanh. Chúng có sức chống chịu hạn, nhiệt độ thấp, nhiệt độ cao rất mạnh, là dạng
kết cấu ngủ nghỉ trải qua những điều kiện bất lợi của nấm.
Hạch nấm nảy chồi lại hình thành sợi nấm hoặc trên đó mọc lên thể quả nấm
làm nhiệm vụ như một chất đệm.
(Sclerotium, Rhizoctinia).

25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×