Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận học phần 1 đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn hồ chí minh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.9 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh là một nhân vật vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là niềm
tự hào của dân tộc ta, nhân dân ta. Tư tưởng, đạo đức, tác phong, hành động,
nhân cách…. đã để lại cho chúng ta một tài sản tinh thần vô cùng quý giá và
bất diệt cho toàn Đảng, toàn dân ta. Người đã đi xa, nhưng tư tưởng, sự
nghiệp của Người vẫn là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thời gian qua, cơng trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh có thể nói
khá tồn diện và phong phú. Ở Việt Nam có lẻ chưa có một tác giả nào, một
nhân vật lịch sử nào lại được giới nghiên cứu trong nước và nước ngồi
quan tâm nhiều như thế. Trong đó, khơng ít cơng trình nghiên cứu có giá trị
được giới nghiên cứu thừa nhận như cuốn Hồ Chí Minh của J. Lacouture;
Đồng chí Hồ Chí Minh của E. Cabelep; Hồ Chí Minh với Trung Quốc của
Hồng Tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và sự nghiệp của Viện Lịch sử
Đảng; Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử của Viện Hồ Chí Minh học….; Về
nghiên cứu đạo đức tư tưởng, đạo đức, tác phong… Hồ Chí Minh, trước hết
phải kể đến những tác phẩm của đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và
Nhà nước như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn
Linh, Đỗ Mười, Võ Nguyên Giáp … trong đó có những cơng trình và luận
văn, tuy cơng bố đã lâu, đến nay vẫn cịn ngun giá trị.
Đứng trước một một nhân vật vĩ đại – Hồ Chí Minh, bao nhiêu cơng
trình đó cũng chưa nói lên hết tầm vóc vĩ đại của Người, so với mong đợi
của nhân dân và bạn bè thế giới, so với yêu cầu công tác lý luận của Đảng
ta…. Do vậy, chúng ta cần phải có một phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu thì mới làm rõ tính chất kỳ vĩ của Hồ Chí Minh.

1



Hiện nay, vấn đề đang đặt ra là:
Thứ nhất, vẫn còn một bộ phận quan trọng tư liệu về Hồ Chí Minh
chưa được sưu tầm và khai thác đầy đủ. Do đó, muốn cải tiến nâng cao chất
lượng nghiên cứu về Hồ Chí Minh, trước tiên cần phải sưu tầm, khai thác
được đầy đủ tư liệu chính xác, bảo đảm tính khoa học và tính thuyết phục
cao .
Thứ hai, Chưa xác lập những nguyên tắc phương pháp luận, chưa cải
tiến về phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh, lâu nay các chuyên ngành
khoa học khác nhau tham gia vào việc nghiên cứu Hồ Chí Minh, chủ yếu
vận dụng phương pháp luận của chuyên ngành mình, hoặc bước đầu tiến lên
sử dụng phương pháp đa ngành ở các mức độ nào đó… các làm này chỉ đem
đến hiệu quả nhất định chứ chưa thật sự phù hợp để nghiên cứu về Hồ Chí
Minh. Do đó, cần phải cải tiến và đổi mới phương pháp nghiên cứu và cần
có một phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đặc thù về Hồ Chí
Minh để cơng việc nghiên cứu đạt kết quả tốt hơn.
Thêm vào đó, cơng tác nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã và đang không
ngừng được mở rộng và phát triển cả về nội dung lẫn quy mô nghiên cứu.
Từ chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan, thậm chí của một số ít người
chun trách, đến nay nó trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Các
ngành, các địa phương, các học viện và nhà trường…. ít nhiều đã thành lập
trung tâm nghiên cứu, tổ nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Do đó, cùng với việc
đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lý luận, việc cải tiến và nâng cao
chất lượng nghiên cứu về Hồ Chí Minh cũng đang đặt ra như một vấn đề cấp
bách.

2


NỘI DUNG


I. Một vài khái niệm
1. Lý luận là gì?
Lý luận là hệ thống các tri thức, khái niệm và phạm trù, có chức năng
vừa phản ánh, vừa dự báo bản chất, quy luật, vận động, phát triển của khách
thể nghiên cứu. Do đó, lý luận là cơ sở, là đường lối dẫn đến phương pháp.
Theo Hêghen, lý luận được tóm tắt trong phương pháp, phương pháp là sự
vận dụng của lý luận, lý luận nào, phương pháp ấy. 1
2. Phương pháp là gì?
Phương pháp là hệ thống các phương pháp, chuẩn mực, cách thức điều
chỉnh nhận thức và hoạt động của con người trong việc tiếp cận lý luận và
khảo sát thực tế. Phương pháp hình thành từ lý luận, nhưng không phải một
chiều. Lý luận đẻ ra phương pháp, phương pháp tác động trở lại lý luận, làm
cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới; đến lượt nó, lý luận mới lại đẻ
ra phương pháp mới. 2
3. Phương pháp luận là gì?
Phương pháp luận là phương thức luận giải, khái quát, lựa chọn và vận
dụng các phương pháp, bảo đảm cho sự thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa
lý luận và phương pháp giữa khách thể và chủ thể nghiên cứu. Do đó, có thể
nói, phương pháp luận là cầu nối giữa lý luận và phương pháp. 3

GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 28.
2
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 28.
3
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 28.
1


3


4. Hồ Chí Minh học là gì?
Hồ Chí Minh học là khoa học nghiên cứu về Hồ Chí Minh với tư cách là
một chuyên ngành của khoa học chính trị - khoa học nghiên cứu về những
vấn đề điều hành bộ máy nhà nước, những hoạt động của các giai cấp, chính
đảng nhằm duy trì chính quyền và duy trì điều hành bộ máy nhà nước 1.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh là g ?
Theo Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng, “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản thinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.2
II. Phương pháp luận chung của khoa học xã hội và phương pháp
luận nghiên cứu về Hồ Chí Minh
1. Phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã hội
Khoa học xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn bao gồm rất nhiều ngành
và chuyên ngành khoa học khác. Theo nghĩa rộng, khoa học xã hội bao gồm
cả khoa học nhân văn, nghiên cứu khoa học về Hồ Chí Minh với tư cách là
một khoa học chuyên ngành nằm trong khoa học xã hội, có các phương pháp
luận nghiên cứu sau :
1.1. Nghiên cứu khoa học xã hội phải dựa vững chắc và nhất quán với
quan niệm duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử với hệ thống chặt chẽ
Theo PSG, TS Nguyễn Khánh Bật: Những nhận thức cơ bản về chuyên ngành Hồ Chí Minh học, đăng
trên Đặc san Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ của Đảng, số tháng 2 năm 2011.

2
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2011.
1

4


các nguyên lý, các tư tưởng khoa học là nền tảng lý luận – phương pháp
luận chung của tất cả khoa học. Đây là nguyên tắc chủ đạo, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu, nổi bật là mấy nét tổng quan sau
đây:
- Vạch ra quy luật chung, phổ biến của mọi thời đại lịch sử là quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất. Trên cơ sở quy luật này, chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn nhận lịch sử
như một quá trình lịch sử tự nhiên. Và lý luận về phương thức sản xuất, về
hình thái kinh tế xã hội đã làm sáng tỏ rằng, logic của cái tất yếu đi qua mọi
biến thiên của lịch sử, xét đến cùng, kinh tế lá nhân tốt quyết định lịch sử.
Tư tưởng này phải được coi là một trong những chìa khóa đối với người
ngiên cứu khi đi vào giải phẫu cơ thể phức tạp xã hội.
- Vạch ra quy luật đấu tranh giai cấp như là sự phản ánh về mặt xã hội
những mâu thuẫn của quan hệ kinh tế. Hơn nữa, chủ nghĩa duy vật lịch sử
xem đấu tranh giai cấp là một động lực để phát triển giai cấp. Biện chứng
giữa kinh tế và xã hội, kinh tế và chính trị là biện chứng của sự phát triển
troong cách mạng và trong tổ chức xã hội, kể cả đời sống xã hội thuộc gề
lĩnh vực văn hóa tinh thần.
- Vạch ra vai trị của quần chúng và của cá nhân đối với hoạt động lịch
sử, sáng tạo lịch sử văn hóa và văn minh. Lý luận này, lần đầu tiên xác lập
vị thế chủ động, tích cực của quần chúng lao động như là những chủ thể lịch
sử. lý luận này đặt cơ sở niềm tin khoa học vào sức mạnh nhân dân trong

cách mạng, đặc biệt là cách mạng vơ sản. Nó tôn vinh con người với tầm
cao chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Nó làm sáng tỏ bản chất của sự nghiệp
giải phóng con người, giải phóng giai cấp và nhân loại. Nó vạch ra mối quan
hệ biện chứng giữa xã hội với cá nhân, giữa quần chúng và lãnh đạo trong
chiến lược phát triển. Nó hướng tới mục tiêu thực hiện sự phát triển toàn

5


diện của từng cá nhân, và sự phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển của tất cả, xem đó là mục đích tự thân lịch sử.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử, bao quát mọi sự vận động xã hội hiện thực
đã khái quát lên nguyên lý về tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng
thời khẳng định tính năng động và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Gắn liền với nó là lý luận về con người hiện thực mang bản chất xã hội
trong tính thống nhất với bản chất sinh học, về biện chứng con người, nhân
cách, cá nhân, cá thể với xã hội, với môi trường và hồn cảnh, chỉ ra quy
luật hình thành con người mới trong những điều kiện lịch sử mới thông qua
cải tạo và xây dựng.
1.2. Nghiên cứu xã hội trên lập trường mácxít, trên quan điểm và
phương pháp biện chứng duy vật và các quan hệ kinh tế để giải thích trạng
thái hiện thực của ý thức tư tưởng và các quan hệ tinh thần
Nói rộng hơn, người nghiên cứu phải xử lý một chách biện chứng giữa
quyết định luận kinh tế với quyết định luận xã hội trong sự phát triển của
con người và xã hội.
Trong tác phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, cho thấy
tư tưởng của Mác chứa đựng ý nghĩa cực kỳ sâu sắc về tính quy định chế
ước lẫn nhau giữa kinh tế và xã hội, về tính tất yếu kinh tế là cái giá đỡ vật
chất cho mọi tất yếu chính trị, xã hội và tư tưởng. Thấu triệt tư tưởng này là
một đảm bảo phịng ngừa khơng sa vào duy ý chí, duy tâm chủ quan về lịch

sử trong khi giải quyết thực tiễn các nhiệm vụ xã hội.
1.3. Nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt là nghiên cứu lý luận và lịch
sử tư tưởng phải tuân thủ phương pháp hệ thống, phải khảo sát mọi hiện
tượng và quan hệ trong sự vận động, phát triển của nó và khơng nên quên
rằng lôgic tư tưởng chỉ là sự phản ánh lôgic hiện thực, là tái hiện cái chủ
quan trong cái khách quan mà thôi.

6


Lênin địi hỏi rằng, tồn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác, tất cả hệ
thống của nó đều phải được nghiên cứu với yêu cầu là: Đối với mỗi nguyên
lý đều phải khảo sát về mặt lịch sử, có liên hệ với các nguyên lý khác và có
liên hệ với kinh nghiệm lịch sử cụ thể. Chỉ như vậy mới nhận thức được một
cách chân thực một tư tưởng khoa học, khơng chia cắt nó khỏi hồn cảnh
lịch sử, khơng cắt xén tùy tiện hoặc cơ lập nó ra khỏi hệ thống để xuyên tác
nó.
Mối liên hệ giữa lịch sử và tư tưởng cũng là mối quan hệ giữa đời sống
hiện thực với ý thức tư tưởng. Ở đó, mọi nghiên cứu về khoa học xã hội đòi
hỏi sự thấm nhuần sâu sắc tinh thần tôn trọng thực tiễn, tôn trọng sự thật
khách quan, sự phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, hướng mọi sự phân
tích của đối tượng và sự kiện theo quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và có
quan điểm phát triển.
Để nắm được bản chất của sự vật và phát hiện được quy luật sinh
thành, phát triển của nó, đây là điểm cốt yếu của nghiên cứu khoa học xã
hội. Lênin cho rằng phải tránh sa lầy vào những chi tiết vụn vặt, biết vạch ra
mối quan hệ căn bản của lịch sử bên trong. Đó là cái quyết định phát triển và
phát triển. Ơng xem đó như là một điều kiện quan trọng để nghiên cứu.
1.4. Nghiên cứu khoa học xã hội là nghiên cứu xã hội và con người
trong cơ cấu, tổ chức và các mối quan hệ của nó gắn với một thời đại lịch

sử nhất định, với một chế độ kinh tế và chế độ chính trị nhất định cùng với
hệ tư tưởng chi phối xã hội và thời đại đó.
Xét đến cùng, lợi ích và quyền của con người là điểm nhạy cảm nhất.
Đó là vấn đề thường trực trong quan hệ giai cấp, diễn ra trong xung đột và
đấu tranh giai cấp. Do đó, mọi nghiên cứu về xã hội phải xuất phát từ trong
đời sống hiện thực, từ các quan hệ lợi ích thực tiễn vật chất, từ quan hệ
quyền lực kinh tế và chính trị để lý giải các quan hệ tư tưởng và đời sống
tinh thần của con người trên quan điểm giai cấp. Đi chệch khỏi quan niệm

7


và quan điểm đó khơng tránh khỏi tính chất duy tâm về lịch sử, tính mơ hồ
và sự khơng tưởng trong việc nhận thức bản chất thực sự của con người và
xã hội, của sự vận động lịch sử.
Nhận thức được điều đó là nhận thức được cái căn bản, sâu xa của lịch
sử tức là nắm sự vật từ gốc và đối với con người, cái gốc chính là bản thân
con người.
Có nhiều quan điểm khác nữa về trong lý luận – phương pháp luận duy
vật lịch sử. Song đây là những vấn đề cốt yếu nhất chi phối trực tiếp tới
nghiên cứu khoa học xã hội, và cũng là vấn đề cần cụ thể hóa trong nghiên
cứu về Hồ Chí Minh.
2. Phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí Minh
Nói ngun tắc phương pháp luận nghiên cứu chính là nói cái chung,
cái phổ biến ở trình độ bản chất, có tính ổn định và sự sâu sắc cần thiết đủ
sức làm cơ sở dẫn dắt việc nghiên cứu đi tới mục tiêu đã định hướng. Việc
vận dụng những nguyên tắc chung đó vào chun ngành nghiên cứu Hồ Chí
Minh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã vạch ra cịn tuỳ thuộc vào
trình độ, kỹ nǎng của người nghiên cứu vốn rất khác nhau và tuỳ thuộc vào
mức độ, phạm vi, giới hạn của mỗi đề tài cũng như những tình huống nghiên

cứu cụ thể, xác định. Trong chương này, chúng tôi đề cập tới ba nguyên tắc
cơ bản sau đây: - Nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Quán triệt những quan điểm của
Đảng và chỉ dẫn của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trong nghiên
cứu về Hồ Chí Minh. - Kế thừa có hoặc chọn lọc kinh nghiệm và thành tựu
của khoa học nghiên cứu về các vĩ nhân trên thế giới. 
2.1. Nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử 

8


Nguyên tắc này có tầm quan trọng hàng đầu đối với nghiên cứu khoa
học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học xã hội và nhân vǎn, trong đó có nghiên
cứu về Hồ Chí Minh. Về thực chất, đây là sự quán triệt tinh thần và phương
pháp triết học mácxít vào công tác nghiên cứu. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Hồ Chí Minh đã ln đề cao vai trị dẫn đường của lý luận
Mác - Lênin đối với hoạt động thực tiễn. Người nhấn mạnh tới nét đặc sắc
của chủ nghĩa Mác - Lênin là tính biện chứng, là khoa học và cách mạng, là
sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Lênin cũng xác định rằng,
nếu chỉ dùng độc một từ thơi mà có thể nói lên được tiêu điểm của từ "duy
vật lịch sử" của Mác, Ǎngghen thì từ đó chính là phép biện chứng. Theo
Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành quả vĩ đại bậc nhất của lịch sử tư
tưởng. Nếu xem chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
là một thể thống nhất, cái này ở trong cái kia và ngược lại thì áp dụng triết
học này vào nghiên cứu đời sống xã hội, con người, như nghiên cứu Hồ Chí
Minh chẳng hạn, ta thấy đó chính là áp dụng quan niệm duy vật và biện
chứng về lịch sử vào nghiên cứu Hồ Chí Minh. Lâu nay, cách nói tắt: quan
niệm duy vật về lịch sử hay "chủ nghĩa duy vật lịch sử" thường dẫn đến chỗ
không hiểu đầy đủ, dần dần trở thành hiểu sai theo khuynh hướng siêu hình,

xa dần bản chất mácxít vốn là biện chứng.
- Quan điểm khách quan 
Đây là điểm xuất phát xác định mọi quan điểm nghiên cứu về xã hội và
lịch sử. Quan điểm này có cơ sở từ việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản
của triết học, coi bản chất của thế giới là vật chất, là cái có trước, tồn tại độc
lập với ý thức con người và ý thức con người có khả nǎng nhận thức, phản
ánh cái vật chất khách quan ấy. Mác đã từng định nghĩa, ý thức con người ta
chẳng qua chỉ là cái tồn tại được ý thức (tức là sự phản ánh tồn tại). Dưới
ánh sáng của triết học Mác, phạm trù cái khách quan được cắt nghĩa tường
minh trên cả hai phương diện Bản thể luận và Nhận thức luận. Theo Mác và

9


Ǎngghen, cái khách quan là cái tồn tại bên ngoài con người, độc lập và
không phụ thuộc vào ý thức, nhận thức của con người. Do đó, hoạt động
nhận thức chủ thể phải bắt đầu từ chỗ có một đối tượng cho chủ thể nhận
thức, cái đối tượng ấy tác động vào chủ thể, làm nảy sinh nhu cầu nhận thức
của chủ thể. Kết luận phương pháp luận mà các ông rút ra là không thể giải
thích tư tưởng của thời đại, ý niệm tư tưởng của con người mà lại cǎn cứ vào
bản thân tư tưởng, ý niệm ấy. Đó là một thứ duy tâm lịch sử. Phải cắt nghĩa
nó xuất phát từ tồn bộ hiện trạng, sự kiện, các quan hệ sản xuất - vật chất,
cái trạng thái kinh tế đã dẫn đến sự phát sinh của tư tưởng đó. ở đây có biện
chứng nhân - quả của đời sống hiện thực và hoạt động tư tưởng của con
người. Tính khách quan bảo đảm cho mọi nghiên cứu đạt được sự chân thật,
đúng đắn, đến gần với chân lý và quy luật. Do đó, chỉ những nghiên cứu nào
tn thủ tính khách quan mới có thể đem lại kết quả mang độ tin cậy. Nó xa
lạ với những suy đoán chủ quan thoát ly thực tiễn, những kết quả khơng
chân thực. Ǎngghen có nói một câu nổi tiếng: Hãy gọi tên sự vật đúng như
bản thân nó. Đó chính là một địi hỏi nghiêm ngặt trong việc tơn trọng tính

khách quan của đời sống hiện thực. Yêu cầu tính khách quan của chủ nghĩa
duy vật biện chứng là khách quan trong xem xét nhận thức, đánh giá, phát
hiện bản chất, quy luật; trong sự sinh thành, biến đổi, phát triển, chuyển hoá,
tương tác biện chứng giữa các mặt, các sự vật, hiện tượng. Nó khác về bản
chất với chủ nghĩa khách quan tư sản vốn là một chủ nghĩa tự nhiên, mô tả
chất đống sự kiện, che lấp bản chất tất yếu bằng một sự mô tả tuỳ tiện các
hiện tượng thứ yếu, vụn vặt. Một nét đặc sắc khác về nhận thức trong phạm
trù cái khách quan là ở chỗ, triết học Mác tôn trọng cái khách quan trong
tính thống nhất với việc đề cao nǎng lực chủ quan con người. Đây là biện
chứng của sự thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau giữa cái khách quan và cái
chủ quan theo lơgích phát triển. Nó là sự thống nhất hai mặt của cùng một
quá trình: mặt thứ nhất, khách quan hố chủ quan, đó là q trình chính xác
hoá kết quả tư duy và hành động, làm cho cái chủ quan ngày càng phù hợp

10


hơn với cái khách quan, tri thức ngày càng đúng đắn hơn do phản ánh đúng
đắn thế giới đối tượng khách quan. Mặt thứ hai, chủ quan hố khách quan,
đó là quá trình con người mở rộng phạm vi, đối tượng nghiên cứu, cái mà ta
đã nói ở trên, rút ngắn khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng, chủ thể tiến
sát tới đối tượng, chiếm lĩnh đối tượng. Quan điểm khách quan có ý nghĩa
sâu sắc đối với nghiên cứu các vĩ nhân, xem xét mối liên hệ xã hội - lịch sử
của sự sản sinh ra các thiên tài, xem họ là sản phẩm của lịch sử, con đẻ của
thời đại. Chúng ta thấy rất rõ điều này khi nghiên cứu các nguồn gốc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 1 
- Quan điểm thực tiễn 
Lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin cho rằng, thực tiễn là
nguồn gốc và động lực của nhận thức, là cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý.
Một trong những dấu hiệu cǎn bản chứng tỏ sự ra đời của triết học Mác như

một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học là ở chỗ, triết học Mác đã khẳng
định và luận chứng đúng đắn, triệt để nhất vai trò và bản chất của thực tiễn.
Quan điểm mácxít về thực tiễn thống nhất trong bản thân nó tính khách quan
thuộc về nguồn gốc và nội dung của chân lý với tính nǎng động chủ quan,
tính tích cực sáng tạo của chủ thể là con người trong hoạt động nhận thức và
cải tạo thực tiễn để đạt tới chân lý.. Tính chuẩn xác và hiện thực của lý luận
đòi hỏi phải gắn liền lý luận với thực tiễn; lý luận phải ở trong thực tiễn và
thường xuyên xuất phát từ nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn; quan điểm
thực tiễn như đã trình bày trên đây cần được quán triệt và vận dụng vào
nghiên cứu Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là nét đặc sắc nổi bật trong
phương pháp luận của Hồ Chí Minh với tư cách một nhà tư tưởng, nhà biện
chứng thực hành. Hồ Chí Minh đến với lý luận bắt đầu từ hoạt động thực
tiễn và nghiên cứu sâu sắc thực tiễn đã giúp Người tổng kết thành lý luận, có
những phát hiện tư tưởng và lý luận mới mẻ, đầy sáng tạo. Câu nói nổi
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 55.
1

11


tiếng, phản ánh sự quan tâm sâu sắc của Người đối với lý luận và sự chú ý
đặc biệt của Người tới thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là: thống
nhất lý luận với thực tiễn là bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn
khơng có lý luận là thực tiễn mù quáng và lý luận khơng gắn với thực tiễn là
lý luận sng. Người địi hỏi lý luận phải gắn liền với thực tiễn và học phải
đi đơi với hành. Hồ Chí Minh hình dung thấy lý luận, học thuyết, chủ nghĩa
là cái cần thiết hàng đầu cho một đảng cách mạng tiên phong, nó như bàn
chỉ nam cho con tầu trên biển. Do đó, học lý luận cốt thâu cái tinh thần và
phương pháp của nó để ứng xử đúng, hành động phù hợp với hoàn cảnh.

Người cũng biết rất rõ một nhược điểm lớn của cán bộ, đảng viên ta là yếu
về lý luận. Song khơng thể vì mà học lý luận theo kiểu nhớ chữ, thuộc sách,
xem lý luận là cứu cánh, lấy lý luận để giải thích lý luận. Người địi hỏi phải
đứng trên quan điểm thực tiễn mà đề cao, mà tơn trọng lý luận. Vì vậy chỉ
có trên quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh mới có thể vừa khắc phục chủ
nghĩa hình thức và bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm và thói thực dụng
tầm thường, lại vừa khắc phục được bệnh sách vở, lý thuyết suông xa rời
thực tiễn; phát huy tính độc lập tự chủ, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để
giải quyết đúng đắn các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Không chỉ thấm
nhuần thực tiễn trong công tác tư tưởng, lý luận, Hồ Chí Minh cịn thường
xun chú trọng thực tiễn, công việc thực tế hàng ngày và hiệu quả của hành
động. Người coi tính thiết thực là một phẩm chất cần thiết trong tư duy và
hành động của người cách mạng. Lập luận của Hồ Chí Minh là muốn thực
sự phục vụ nhân dân, vì nhân dân thì nói và làm bất cứ cái gì cũng phải thiết
thực, khơng phù phiếm, khoa trương. Sự tỉ mỷ, cụ thể trong công việc và
cách thức giải quyết công việc, sự ân cần chu đáo trong quan hệ với con
người của Hồ Chí Minh từ việc lớn đến việc nhỏ, đối với mọi người, mọi
giới, mọi lứa tuổi... đã từ lâu trở thành nét bản chất và bản sắc riêng của Hồ
Chí Minh. Bản chất và bản sắc đó có cơ sở sâu sắc trong nhận thức, trong
đạo đức, lối sống và nhân cách của Hồ Chí Minh. Thấm nhuần quan điểm

12


thực tiễn, vận dụng nhất quán quan điểm đó vào nghiên cứu Hồ Chí Minh là
điều kiện để hiểu đúng bản chất đối tượng nghiên cứu. 1
- Quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển 
Sự ra đời của phương pháp hệ thống - cấu trúc đánh dấu một bước thay
đổi quan trọng trong tư duy khoa học. Xét trên ý nghĩa phương pháp luận,
đây cũng là quan điểm tiếp cận và quan điểm nghiên cứu đối tượng. Đó là

quan điểm hệ thống, phức hợp được áp dụng không chỉ trong nghiên cứu
khoa học tự nhiên mà còn trong khoa học xã hội. Phương pháp hệ thống cấu trúc xem xét sự vật, hiện tượng như một hệ thống có cấu trúc bên trong.
Phương pháp này hình thành từ kết quả của sự thống nhất hai quan điểm: hệ
thống và cấu trúc. Hệ thống là một tập hợp các yếu tố có liên hệ và tác động
qua lại với nhau. Là một nhà chiến lược và sách lược xuất sắc nhất của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sử dụng quan điểm hệ thống và phát triển
để phân tích khoa học những chuyển biến qua từng thời kỳ lịch sử các mâu
thuẫn, các tương quan và thế lực, những khả nǎng xuất hiện và chín muồi
của tình thế và thời cơ cách mạng, của các nhân tố "Thiên thời, Địa lợi,
Nhân hồ" để từ đó vạch ra khẩu hiệu đấu tranh, điều chỉnh biện pháp, lấy
sự biến hố khơn lường của các biện pháp để giành thế chủ động trong việc
thực hiện nguyên tắc, mục tiêu phù hợp với từng hồn cảnh, từng thời điểm.
Hồ Chí Minh đã tỏ rõ trong thực tiễn sự vận động, biểu hiện của khoa học
và nghệ thuật cách mạng. Chỉ đạo trực tiếp các cuộc đấu tranh giành và giữ
chính quyền, các chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ và xã hội chủ nghĩa
trong nhiều thập kỷ, Hồ Chí Minh đã làm nổi bật cả trong lý luận lẫn thực
tiễn tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sự kết hợp trong
chỉnh thể các vấn đề về mục tiêu, bản chất, động lực, bước đi và biện pháp
(cách làm) của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm
hệ thống và phát triển đã đặt cơ sở cho những luận chứng của Hồ Chí Minh
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 57.
1

13


về xây dựng kinh tế gắn với phát triển vǎn hố, bảo vệ an ninh quốc phịng;
phát triển nơng nghiệp, nông thôn với xây dựng công nghiệp và đời sống đô
thị; giữa cải tạo và xây dựng; giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của

Nhà nước; giữa tập trung và dân chủ; giữa tổ chức bộ máy với chất lượng
cán bộ; giữa pháp luật và kỷ luật với đoàn kết và dân chủ; giữa phát huy và
bảo tồn truyền thống với cách tân, đổi mới theo hiện đại và thời đại... Câu
thơ nổi tiếng của Người: "Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ, kiên quyết khơng
ngừng thế tiến cơng" là sự thâu tóm mn ý tưởng sâu sắc ấy. 
- Quan điểm kết hợp cái lịch sử với cái lơgích và quan điểm so sánh 
Nhận thức khoa học đòi hỏi phải nắm được bản chất, quy luật của sự
vật, đồng thời nắm lịch sử của sự vật, quá trình phát sinh, phát triển của nó.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội đều có q trình phát sinh,
phát triển và diệt vong của nó. Q trình đó biểu hiện ra trong tồn bộ tính
cụ thể của nó, bao gồm cả những sự thay đổi và những bước quanh co của
sự phát triển với những ngẫu nhiên phức tạp của hồn cảnh nhiều hình vẻ.
Đó chính là lịch sử của sự vật. Đối với lịch sử, tính quy luật của nó, có đặc
điểm là: tính liên tục của những sự kiện, sự biến trong thời gian và q trình,
nó bao gồm cả những ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử đòi hỏi sự phản ánh
trong tư duy quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát triển đó. Phương pháp lịch
sử cịn địi hỏi phải nắm lấy sự vận động lịch sử trong tồn bộ tính phong
phú của nó, phải bám sát sự vật - đối tượng nghiên cứu, theo dõi mọi bước
phát triển của nó theo trình tự thời gian. Nhưng đồng thời quá trình phát
triển lịch sử của sự vật, dù có phức tạp, mn vẻ và có nhiều ngẫu nhiên đến
đâu thì bao giờ cũng bị chi phối bởi cái tất nhiên, cái chung, cái quy luật phổ
biến, nội tại và khách quan của nó. Đó chính là lơgích khách quan của lịch
sử của sự vật. Lơgích của tư duy, lý luận là phản ánh cái lơgích khách quan
đó. Vì vậy, phương pháp lơgích là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch
sử. Phương pháp lơgích phải vạch ra bản chất , tính tất nhiên, tính quy luật

14


của sự vật, dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. So với phương

pháp lịch sử, phương pháp lơgích có ưu thế hơn ở chỗ, nó khơng những
phản ánh bản chất, tính tất nhiên, quy luật của sự vật mà đồng thời còn phản
ánh được lịch sử phát triển của sự vật ở những nét chủ yếu. Nhờ vậy,
phương pháp lơgích có khả nǎng kết hợp trong bản thân nó hai yếu tố của sự
nghiên cứu: kết cấu (cấu trúc) của sự vật và lịch sử của nó trong sự thống
nhất chặt chẽ của chúng. Phương pháp lơgích cũng phản ánh lịch sử nhưng
phản ánh một cách tóm tắt, khái quát, với những mốc chính, những giai
đoạn chủ yếu của sự phát triển chứ không bám sát chi tiết tiến trình các sự
kiện lịch sử. Bộ Tư bản của Mác là một kiểu mẫu của sự phân tích lơgích
đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bằng sự phân tích lơgích,
bằng một hệ thống khái niệm, phạm trù kinh tế, Mác đã vạch ra quy luật
phát sinh, phát triển và dự báo sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản.
Lênin nhận xét rằng, chính sự phân tích lơgích này đã giúp ta hình dung rõ
lịch sử của chủ nghĩa tư bản và sự phân tích những khái niệm tóm tắt lịch sử
ấy. Phương pháp lịch sử và phương pháp lơgích trong sự kết hợp chỉnh thể
của nó đã bao hàm cả phương pháp (quan điểm) so sánh, phân tích. Chúng
là những phương pháp khác nhau nhưng thống nhất với nhau, quy định và
biểu hiện lẫn nhau. Phương pháp lơgích cho phép hình dung những nhân tố
khách quan và chủ quan, những ảnh hưởng qua lại của dân tộc, truyền
thống, thời đại, vǎn hoá và lịch sử tạo nên giá trị, bản lĩnh, bản sắc, phong
cách Hồ Chí Minh - một lãnh tụ kiểu mới của giai cấp vô sản trong thời đại
cách mạng vô sản. Phương pháp so sánh cho phép vạch ra mối liên hệ chung
- riêng, phổ biến và đặc thù giừa Hồ Chí Minh với các vĩ nhân, danh nhân
vǎn hố khác. ở đây, phương pháp so sánh trên cơ sở phân tích cụ thể một
tình hình cụ thể cho phép nhân chân những đóng góp và cống hiến riêng có
của Hồ Chí Minh đối với lịch sử... Đó là những nét đại thể về các quan điểm

15



duy vật biện chứng về lịch sử cần được áp dụng vào nghiên cứu Hồ Chí
Minh.1 
2.2. Quán triệt những quan điểm của Đảng và chỉ dẫn của các nhà
lãnh đạo cao cấp trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh 
Nghiên cứu về Hồ Chí Minh khơng những cần xuất phát từ các quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà còn phải quán triệt những chỉ dẫn của
các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, Những chỉ dẫn đó có trong các bài
nói và viết, các phát biểu chính thức thành vǎn của các đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước nhân những lễ kỷ niệm ngày sinh hoặc ngày mất của Hồ
Chí Minh. Đặc biệt là, cần chú ý khai thác những đánh giá về công hiến của
Hồ Chí Minh qua tư tưởng và sự nghiệp của Người, những nhận xét, đánh
giá về ảnh hưởng uy tín đạo đức nhân cách, lối sống, phong cách ứng xử vǎn
hoá của Hồ Chí Minh đối với xã hội và các tầng lớp nhân dân qua các thời
kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam. Đây là những đánh giá chính thức và
là quan điểm chính thống của Đảng ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh được
ghi trong các vǎn kiện chính trị của Đảng, nhất là các vǎn kiện ở thời kỳ đổi
mới, từ Đại hội VI, VII, VIII cho tới nay. Cùng ở trong hệ thống nguồn tài
liệu này cịn có các bài nghiên cứu, các cơng trình lý luận chính trị đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp về Hồ Chí Minh của các nhà lãnh đạo vốn là học trò
và bạn chiến đấu của Người, cùng sống và hoạt động bên cạnh Người, có
điều kiện hiểu biết khá cặn kẽ về cuộc đời Hồ Chí Minh; về những quan
điểm, tư tưởng và lý luận của Người; về phương pháp công tác và quan hệ
con người rất mực bao dung và nhân ái của Hồ Chí Minh. Nguồn tài liệu
này cung cấp cho người nghiên cứu về Hồ Chí Minh khơng chỉ về mặt tư
liệu khoa học mà còn cả những gợi mở về phương pháp luận, quan điểm và
thái độ chính trị bảo đảm cho cơng việc nghiên cứu những định hướng đúng
đắn, hữu ích. Việc nghiên cứu thấu đáo những tài liệu này để nắm vững nội
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 63.
1


16


dung tư tưởng và phương pháp trình bày, trên cơ sở đó tiến hành một sự
phân loại, sắp xếp nguồn tài liệu theo vấn đề và theo thời gian, trong đó chú
trọng khai thác những luận điểm lớn có ý nghĩa chỉ đạo nhận thức hoặc gợi
mở phương hướng nghiên cứu, tìm tịi... cần được xem là một u cầu
nghiêm túc cả về mặt tư tưởng chính trị lẫn chuyên mơn, học thuật đối với
người nghiên cứu trong tình hình hiện nay. Để thực hiện yêu cầu này, người
nghiên cứu ngồi cơng phu lao động tìm tịi cịn phải có nǎng lực phân tích
và tổng hợp, hệ thống hố và khái qt hố cao. Về mặt thao tác nghiên cứu,
khơng nên bỏ qua một nhận xét là, có một sự thâm nhập đồng thời những
chỉ dẫn, gợi ý này cùng với sự thâm nhập các tác phẩm của Hồ Chí Minh
(xét từ giới hạn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh bằng phương pháp phân
tích vǎn bản), hoặc khai thác sự kiện, niên biểu, tư liệu lịch sử, tư liệu vǎn
học, tư liệu thực tiễn về Hồ Chí Minh (xét từ góc độ các lĩnh vực nghiên cứu
khác, mang tính chuyên biệt về đối tượng - khách thể Hồ Chí Minh theo
những hướng đích khác nhau của nghiên cứu.
2.3. Kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm và thành tựu khoa học
nghiên cứu về các vĩ nhân trên thế giới
Hồ Chí Minh được thế giới thừa nhận là một danh nhân vǎn hố. Hồ
Chí Minh là một vĩ nhân của thế kỷ XX mà tên tuổi và sự nghiệp của người
Người đã trở nên gần gũi, thân thiết đối với các dân tộc trên thế giới. Riêng
đối với cách mạng Việt Nam và lịch sử dân tộc Việt Nam, công lao vĩ đại
của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã mở ra cả một thời đại mới - thời đại Hồ
Chí Minh. Đó là thời đại rực rõ nhất của dân tộc ta, đưa dân tộc ra tới độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử như vậy. Do
đó, nói một cách ngắn gọn, nghiên cứu Hồ Chí Minh là nghiên cứu một vĩ
nhân, một danh nhân vǎn hoá. ở nhiều nước trên thế giới, từ lâu đã ra đời

khoa học nghiên cứu về các vĩ nhân. Khoa học này có những hình thái biểu
hiện của nó dưới các dạng nghiên cứu tiểu sử, nghiên cứu học thuyết tư

17


tưởng, nghiên cứu lịch sử cuộc đời và sự nghiệp. Trong lĩnh vực vǎn học
nghệ thuật, các vĩ nhân và danh nhân còn là đối tượng của những sáng tạo
để dựng nên các hình tượng trong tiểu thuyết lịch sử, trong sáng tác thơ ca
và điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc... Đối với lĩnh vực nghiên cứu
khoa học, việc tham khảo, kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm và thành
tựu nghiên cứu nói ở đây chủ yếu là ở những cơng trình khảo cứu dưới góc
độ lịch sử và lý luận. ở nước ta, tiếp cận tới những tác phẩm thuộc loại này
còn rất mới, thường vấp phải khơng ít khó khǎn về tư liệu. Đó là chưa kể
đến những khác biệt rất cǎn bản về thế giới quan, về lập trường chính trị và
ý thức hệ của những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học chuyên biệt
này. Đối với một vĩ nhân, tức là cùng một đối tượng nghiên cứu, song tuỳ
thuộc sự khác nhau ở chỗ đứng và cách nhìn mà mỗi học giả nghiên cứu lại
có những lǎng kính rất khác nhau trong đánh giá và cam thụ. Vì vậy, nguyên
tắc phương pháp luận cần phải đặt ra trong việc nghiên cứu, kế thừa có chọn
lọc các kinh nghiệm và thành tựu của khoa học nghiên cứu về các vĩ nhân là
quan điểm mácxít trong việc đánh giá vai trị cá nhân trong lịch sử. Quan
điểm mácxit (duy vật lịch sử) thừa nhận vai trò, tác dụng của các cá nhân,
ảnh hưởng quan trọng của các cá nhân thiên tìa, kiệt xuất trong tiến trình
lịch sử, thậm chí trong những tình huống đặc biệt, họ có thể có những vai trị
quyết định đối với tiến trình lịch sử. Song có hai điểm đặc biệt phải lưu ý:
Một là, dù vĩ đại đến đâu các vĩ nhân cũng đều là con đẻ của một thời đại
lịch sử nhất định. Là sản phẩm của lịch sử, ở thời đại mình, họ khơng thể
khơng bị những quy định, những chế ước, những ràng buộc của chính lịch
sử đó. Tài nǎng cũng như hạn chế của họ là sự phản ánh cái giới hạn của

trình độ phát triển lịch sử đương thời của thời đại đã sản sinh ra họ. Do đó,
tính chân thực, khách quan về mặt lịch sử đòi hỏi phải nghiên cứu các vĩ
nhân với tư cách là một cá nhân, một con người hiện thực. Không nắm vững
quan điểm lịch sử - cụ thể này có thể rơi vào tình trạng huyền thoại hoá (thổi
phồng, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá) làm suy giảm tính hiện thực của đối

18


tượng nghiên cứu. Nó cịn có thể dẫn tới quan điểm sùng bái cá nhân, mang
màu sắc tôn giáo, do đó khơng tái tạo được diện mạo lịch sử chân thực, mà
cịn xun tạc, bóp méo cá nhân đó. ở một khuynh hướng khác của sự thoát
ly quan điểm lịch sử là tình trạng hiện đại hố các nhân vật lịch sử. Nó có
biểu hiện là đem các chuẩn mực đánh giá, các thước đo giá trị của thời kỳ
hiện đại để đo lường các vĩ nhân của những thời kỳ trước đây, tạo ra những
cách hiểu gượng ép, nhân tạo, thoát ky bối cảnh, điều kiện hiện thực vốn có
của các vĩ nhân đó. Hai là, các cá nhân thiên tài, các vĩ nhân dù có đóng góp
to lớn và xuất sắc đối với lịch sử thì vấn đề là ở chỗ, quyết định đối với tiến
bộ lịch sử vẫn thuộc về vai trò của quần chúng nhân dân. ý nghĩa tích cực
của những đóng góp của vĩ nhân phải được xác định ở sự liên hệ xã hội nhân vǎn có trong tư tưởng, sự nghiệp và hành động của họ. Đó là cơ sở giá
trị của họ, là cái bảo dảm cho sức sống và ảnh hưởng của họ trong nhân dân,
trong vǎn hoá của nhân loại. Cũng phải từ cơ sở này để xem xét, giải thích
những hạn chế thuộc về chủ quan và khách quan mà các vĩ nhân, dù là vĩ
nhân cũng không thể vượt qua. Với những quan niệm đó, các cơng trình
nghiên cứu về vĩ nhân của học giả này hay học giả khác, nhất là các học giả
đứng trên lập trường tư tưởng tư sản cần được nghiên cứu và kế thừa chủ
yếu ở mặt phương pháp và kỹ thuật, đặc biệt là phương pháp sưu tầm, khảo
cứu, tập hợp tư liệu, sử liệu và phương pháp trình bày. Dĩ nhiên, có khơng ít
những học giả tư sản tuy khơng cùng quan điểm, chính kiến với những
người mácxít nhưng đã từng có những thành tựu đặc sắc trong nghiên cứu vĩ

nhân. Sự trung thực đối với lịch sử, nhiều khi đem lại cho họ những phát
hiện mới mẻ, có giá trị. Do đó, cũng chính quan điểm và phương pháp
mácxít địi hỏi người nghiên cứu phải tránh những định kiến chủ quan hẹp
hòi, những thái độ biệt phái, cực đoan trong việc phủ nhận, khước từ các
thành tựu nghiên cứu về vĩ nhân trong lĩnh vực khoa học này của thế giới.
Việc chǎm chú khai thác, khảo cứu nó có thể giúp ích một cách đáng kể cho
chúng ta trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh.

19


3. Phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh
3.1. Phương pháp kết hợp lịch sử với lôgic
- Phạm trù lịch sử nghiên cứu quá trình ra đời, lớn lên và mất đi của
con người Hồ Chí Minh, nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của
tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh.
- Phạm trù lơgic nghiên cứu đặc trưng bản chất, tính quy luật của cuộc
đời, sự nghiệp, tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh.
- Kết hợp lịch sử với lôgic, lôgic với lịch sử giúp người nghiên cứu có
được những tư liệu cần thiết nhưng khơng rơi vào tình trạng liệt kê sự kiện,
kể lễ tràn lan, vừa hình thành hệ thống luận điểm mang tính khái quát cô
đọng về tư tưởng, tiểu sử, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh.1
3.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành
Như trên đã nói, Hồ Chí Minh là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành và chuyên ngành khoa học. Không chỉ khoa học xã hội nhân văn,
khoa học lý luận chính trị mà cả một số ngành, chuyên ngành khoa học tự
nhiên cũng nhận thấy có thể và cần phải nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Mỗi
ngành và chuyên ngành khoa học tiếp cận Hồ Chí Minh từ đối tượng ngành
học của mình. Vì vậy kết quả nghiên cứu sẽ có những hạn chế. Vì vậy, để có
kết quả tốt nhất, việc phối hợp giữa các khoa học trong cơng tác nghiên cứu

Hồ Chí Minh là tất yếu. Đây không chỉ là sự suy ngẫm lý luận mà là kết quả
rút ra từ thực tiễn. Tất cả những cơng trình lớn, những hội thảo lớn về Hồ
Chí Minh đều thu hút sự tham gia của giới nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau cả trong nước và nước ngoài. Thực tế cho thấy, nếu chỉ một
ngành, chuyên ngành, hoặc một số ít những nhà nghiên cứu phối hợp với
nhau trong nghiên cứu Hồ Chí Minh thì sẽ khơng có kết quả như hiện nay.
3.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
GS. Song Thành: Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 66.
1

20



×